Lịch sử là một con
đường thẳng. Biến cố lịch sử là một đoạn đường cong. Đường cong đó là
một bước ngoặc, một khúc quanh làm cho lịch sử chuyển mình và đổi
hướng. Bước ngoặc có thể chỉ là ánh chớp như ánh chớp của hai trái
bom nguyên tử Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản, năm 1945.
Hay có thể chỉ là mấy tiềng đồng hồ sương mù dày đặc quyết định số
phận của Napoléon trên chiến trường Waterloo năm 1815. Khúc quanh có
thể là Ngô Quyền chiến thắng quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng năm
1288 chấm dứt hơn nghìn năm nô lệ Trung Hoa.
Khúc quanh dài của
giáo sử Phật Giáo Việt Nam cận đại quặn mình trong bao nhiêu năm, qua
nhiều thế hệ, bỗng bùng lên với ngọn lửa bi tráng Thích Quảng Đức.
Lúc âm ỉ, lúc dâng trào nhưng dòng tinh huyết của ngọn lửa từ bi đó
vẫn còn thắp sáng cho đến hôm nay.
Những khúc quanh
lịch sử thường có tính quyết định, năng động và quyền biến rõ ràng vì
lịch sử là tập đại thành của một chuỗi mất còn, được thua về quyền lực.
Nhưng những khúc
quanh nhân văn mang nội hàm tư tưởng và tâm linh như triết lý, tôn
giáo thường khi ẩn, khi hiện; lúc mơ hồ, lúc cụ thể trải dài qua nhiều
thế hệ.
Khúc quanh hiện tiền
của Phật Giáo Việt Nam là kết quả của một tiến trình sống đời và sống
đạo đã kéo dài qua 4 thế hệ: Thế hệ Ôn (Ông, Cố), thế hệ Cha, thế hệ
Con và thế hệ Cháu. Cái gốc phát sinh khúc quanh đó luôn luôn là tác
động của nguyên lực hay hợp lực của ba thế lực đồng thời: (1)Thế
quyền ở vị thế lãnh đạo; (2) thần quyền có ưu thế với thế lực cầm
quyền; (3) nhóm phái và cá nhân trong tôn giáo, hoặc mượn tôn giáo như
một phương tiện chính trị hay kinh tế. Nếu thế lực xâm lăng chính trị
như Pháp đã dùng chiến lược “chia để trị” về mặt chính trị thì thế lực
áp bức hay mua chuộc tôn giáo lại thường dùng chiến thuật phân hóa nội
bộ bằng chính người nội bộ. Trong kinh Đại Niết Bàn, đức Phật đã từng
nhắc đến thảm họa “chỉ có loài sâu bọ đã sống trong cơ thể con sư
tử mới ăn thịt con sư tử đó dễ dàng và nhanh chóng nhất. (Sư tử trùng
thực sư tử nhục.)
Thế hệ “Ôn” trong
hàng giáo phẩm cao cấp của Phật Giáo Việt Nam hiện nay còn được mấy vị
và đâu là vai trò của quý ngài đối với đất nước, dân tộc và đạo pháp?
Câu trả lời tưởng chừng như rất dễ dàng và đơn giản bởi vì thế hệ Ôn (cố)
thì đã và đang lên hàng đại lão hoà thượng, nổi lên chót vót trong
rừng thiền đại thụ Việt Nam nên có thể mọi người đều thấy. Nhưng đấy
chỉ mới là nhận diện; còn nhận chân được tầm ảnh hưởng, tác động trực
tiếp và gián tiếp vào khúc quanh lịch sử, sự nghiệp để lại cho thế hệ
kế thừa… như thế nào thì trong rất nhiều trường hợp vẫn còn là ẩn số.
Có thể nói, trong ba
ngày cuối cùng 19, 20 và 21 tháng 10 năm 2006 trong dịp tang lễ của
hòa thượng Thích Mãn Giác tại Los Angeles, tiểu bang California, Hoa
Kỳ là một cơ hội hội ngộ hiếm có. Hàng Phật tử xuất gia và tại gia
thế hệ lên lão, trưởng lão và đại lão được gặp lại nhau, thăm hỏi,
lắng nghe và suy tư sau một khoảng cách dài hơn 40 năm vắng bóng. Sự
hiện diện đông đảo hiếm thấy của hơn 300 tăng ni và hằng nghìn Phật tử,
cư sĩ cùng thân hữu từ khắp các tiểu bang trong nước Mỹ và từ nhiều
nước trên thế giới, kể cả quý thầy từ Việt Nam sang dự tang lễ, nhắc
nhở một hình ảnh lý tưởng của sinh hoạt Phật Đà “Tứ Chúng đồng tu,
Tăng Già hòa hợp” thật cảm động.
Lần đầu tiên, kể từ
thời kỳ tranh đấu Phật giáo 1963 tôi mới gặp lại được một khung cảnh
đầy Đạo tình ấm cúng – gần như sum họp – của chư Tăng, Ni và Cư sĩ
Phật giáo như thế. Đặc biệt là sự hiện diện của chư tăng và cư sĩ
“vang bóng một thời” như quý thầy Thích Tâm Châu, thầy Thích Hộ Giác,
thầy Thích Giác Nhiên, thầy Thích Giác Đức… và những cư sĩ như Trần
Quang Thuận, Bùi Ngọc Đường, Hồng Quang… cùng với sự chứng minh của
quý thầy Thích Huyền Quang, Thích Minh Châu, Thích Nhất Hạnh… được
niêm yết lớn trên tiền đình Chùa Việt Nam và trên nhiều thông báo,
thông tri.
Tôi theo đoàn Phật
tử chùa Kim Quang, Sacramento về chùa Việt Nam tại Los Angeles dự tang
lễ thầy Thích Mãn Giác trong 3 ngày cuối. Ban ngày quanh quẩn ở chùa
Việt Nam, tham dự các khóa lễ được tổ chức rất quang ánh và nghiêm cẩn
bên cạnh kim quan của Thầy tân viên tịch. Ban đêm, chúng tôi phải
cuốc bộ về khách sạn East-West Hotel trên đường số 8th
trong khu phố Đại Hàn. Đây là một khách sạn “ngàn sao” lạ lùng và độc
đáo nhất mà lần đầu tiên tôi được biết trên đất Mỹ (và có lẽ trên toàn
thế giới) nhưng phải mướn “hắn” vì có thể đi bộ qua chùa, tránh được
nạn kẹt xe do số lượng xe đến chùa quá đông không có chỗ đậu. Mặc dầu
trời đêm mùa Thu miền Nam California đủ lạnh, nhưng chúng tôi phải mở
máy lạnh tối đa để xua tan mùi ẩm mốc nghẹt thở trong phòng. Đặc biệt
là có dán bò lổm ngổm trên tường… miễn phí. Mỗi phòng có giường ngủ
cho 4 người. Càng về khuya ba đạo hữu cùng phòng với tôi càng hăng
hái thi đua nâng cao cường độ ngáy. Rủi ro là tai tôi còn hơi thính,
lại sợ dán bò vào tai nên không tài nào ngủ được. Nhờ vậy mà tôi mới
có dịp ngồi dậy, khoác áo đi bộ trở lại chùa Việt Nam trên đường
Berendo, thức trắng đêm, nghe được tiếng kinh khuya và nghe kỹ lại
những cuốn băng thâu lời phát biểu của quý Thầy và quan khách trong
những ngày qua. Tôi nhẩn nha đọc kỹ hơn danh tánh và lai lịch khách
đến viếng trong sổ lưu niệm và trên các liễn, đối, tràng hoa phúng
điếu treo la liệt khắp nơi trong tiền đường của chùa. Tưởng như bất
đắc dĩ lấy rủi làm may, lấy buồn làm vui nhưng không ngờ may thật và…
vui thật(!)
Những tâm hồn đến
với thầy Mãn Giác đa dạng và phong phú quá. Rõ ràng là người ta đến
bái biệt một nhà thơ, một nhà văn hóa, một nhà giáo dục, một nhà tu
chứ tuyệt nhiên chẳng có ai đến với ý nghĩ phảng phất là đến đất nầy
để cung tiễn một nhà chính trị hay là một nhà đấu tranh nào đó… dẫu
cho chính trị và đấu tranh được hiểu đơn thuần như một thái độ hơn
thua quyền lực ở cõi đời tục lụy nầy. Vì thơ không có biên cương; văn
hóa không có mầu sắc; giáo dục không có đòn phép; tu hành không có câu
chấp… nên thầy Mãn Giác đã đi vào lòng người bằng những mảnh đất chung
– “diện phục và tâm phục; lý trọng và tình thương.” Nhân loại có nhiều
mảnh đất chung mà con người thường bỏ hoang quên khai thác. Trong khi
những mảnh đất riêng là mầm mống của tương tranh đầy oan khiên và nghi
ngại nhưng người ta lại hăm hở bám vào. Phải chăng Pháp nạn thường
xảy ra khi mảnh đất chung đã cạn kiệt tình thương, tình người và tình
đạo?!
Trong rừng chữ nghĩa
và ngôn ngữ từ bốn phương tám hướng tụ về, sự diễn đạt và bộc bạch của
mỗi nơi, mỗi tông phái, mỗi người một khác. Sau lớp áo ngôn từ phù
vân trang điểm có chỗ hoa hòe sáo ngữ; có khi tô điểm vu vơ;
có lời tán tụng quá tầm suy niệm… thì cái lõi tinh anh còn lại vẫn là
một thực tại chân tâm và chân tình đầy xúc động. Nhất là ngôn ngữ và
phong thái của chư Tăng Ni cao niên đều chan chứa đạo tình và trầm
lắng vô cùng. Hầu hết những lời phát biểu của các bậc cao niên tôn
túc đều có tiếng thổn thức đầy nước mắt thấm đượm tình đạo, tình đời
và trên hết là tình người. Tôi theo dõi bằng cả trực giác và suy tư
để cảm nhận được rằng, sau hơn 40 năm liên tục thăng trầm, tâm thức
của con người trên đường đạo hay giữa đường đời cũng đủ phong trần,
cũng thừa già dặn và cũng quá thấm thía để nhận ra mình và nhận ra
người trong bề sâu lắng đọng dưới những cơn sóng gió phiêu linh trên
bề mặt.
Ngày thứ bảy
21-10-2006, suốt đêm chùa Việt Nam dường như không ngủ. Lúc nào cũng
có người rộn rịp ra vào chuẩn bị hoa, đèn, quả phẩm và đủ thứ phẩm vật
cần thiết để sáng sớm, đưa Thầy ra An Dưỡng Địa. Cả bốn thế hệ đều có
mặt để bái biệt Thầy lần cuối. Tại khu nghĩa trang Live Oak cách chùa
Việt Nam ở Los Angeles hơn một giờ rưỡi lái xe trên xa lộ, hàng nghìn
người tham dự lễ truy niệm chính thức và lễ trà tỳ nhục thân của Thầy.
Nơi đây, tôi gặp được rất nhiều người bạn cũ cùng những người chỉ biết
qua tên hay mới quen. Người phương xa về dự tang lễ còn đông hơn là
người địa phương.
Trong tiếng kinh cầu
tiễn biệt lần cuối: “Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật”, đồng niệm
vang lên nhiều lần trong suốt thời kỳ tang lễ của thầy Thích Mãn Giác,
theo ý kiến của nhiều người, mang một ý nghĩa hơi khác hơn lời kinh
thường nhật. Lời kinh tiếp dẫn tiễn biệt lần cuối cùng truyền thống
hôm nay không mang khái niệm bình thường của sự khép lại một đời sinh
diệt, xả bỏ báo thân về miền an lạc. Cách nhìn tích cực cho thấy rằng,
sự tiếp độ hương linh phát ra từ hùng lực “tăng già hòa hợp, tứ chúng
đồng tu” mang ý nghĩa của sự vươn tới và mở ra một thời điểm đầy hy
vọng cho Phật Giáo Việt Nam trong và ngoài nước. Đó là tâm trạng và
khuynh hướng mong cầu “hóa giải” lan tỏa chan hòa như một niềm tin yêu
thiết tha trong đại chúng.
Giới Phật tử cao
niên biểu thị niềm tin qua ánh mắt, qua cung cách chân thành chiêm bái
quý tăng ni. Trong mắt nhìn của thế hệ cao niên, chư tăng ni đều là
Trưởng Tử của Như Lai không phân chia ranh giới đạo tràng, giáo hội
hay bộ phái nào cả. Tâm lý cao niên thường được văn hóa phương Đông
xem như là một sự già dặn, bao dung và thỏa hiệp dễ dàng. Trong khi
tâm lý phương Tây lại xem như một khuynh hướng “nursing home” buông
xuôi và cam nhẫn. Dẫu Đông hay Tây thì tâm lý cao niên dù có lịch lãm
đến mức nào, vẫn thường mang tính triết lý sống cao hơn là hành động
sống.
Thế hệ Phật tử mầm
non như Gia Đình Phật Tử bày tỏ ước vọng hồn nhiên nhưng rất thực tế
về một sự hòa hợp và thống nhất Phật Giáo đúng nghĩa, đúng danh xưng
và đúng tâm nguyện. Ước mơ của tuổi trẻ Phật Tử Việt Nam trong phút
nầy quả là một khát vọng hiện thực. Thực tế sáng nay là các em cùng
đi bên nhau trong mầu áo lam yêu thương. Các em cùng trao cho nhau
những miếng giấy lau nước mắt khóc Thầy. Nhưng ngay trong phút sum
họp sau quan tài của Thầy các em đành nói chuyện chia tay. Tôi nghe
rất rõ các em thiếu niên và thiếu nữ GĐPT Long Hoa được tham dự Đại
Hội Kỷ Niệm 30 năm của GĐPTVN Hải Ngoại đang cắm trại ở trung tâm
Quảng Đức ở Nam California nói lời chia tay với các em GĐPT Kim Quang
sẽ từ giã về lại Bắc Cali ngay sau khi tang lễ chấm dứt. Nguyên nhân
sự chia tay của các em hôm nay là bởi vì các em tuy chung mấu áo nhưng
ở về hai phía. Một bên theo Ban Hướng Dẫn của phái Bạch Hoa Mai và
bên khia là Ban Hướng Dẫn phái Trần Tư Tín. Nguyên động lực cho một
quá trình hòa hợp và thống nhất hay xung đột và phân hóa đó có nguồn
gốc sâu xa từ “quý cấp trên”. Bởi thế sự hoà hợp sau “Cuối Khúc Quanh
Dài” chỉ có thể bắt đầu từ phía chư tôn đức trong hàng giáo phẩm cao
tăng. Tôi đã gặp các anh chị huynh trưởng và đoàn sinh các Gia Đình
Phật Tử Long Hoa, Kim Quang, Vạn Hạnh, Chánh Tâm… để được nghe lời
trung thực ước mong của thế hệ đàn em về một Đạo Phật Việt Nam không
phân chia ranh giới. Nếu có chăng sự khác biệt thì cũng như những
Nhánh Sông phát xuất khác hướng, khác nguồn nhưng cùng chảy về Biển Mẹ.
Mà những dòng sông chưa chảy chung về một hướng, nên biển Mẹ đang chờ.
Giới trung niên,
đóng vai thế hệ bắt cầu giữa hai thế hệ già và trẻ cũng đang thấm thía
nói về tính vô thường của nhân gian và những gì mà Đạo Pháp cần làm
thì nên làm trước khi quá muộn. Sau những hoa đèn, trướng, liễn, đối…
nói lên những lời tiếc thương đầy đạo tình, thâm ân và chắt lọc nhất,
mỗi người dự đám tang trở về bỗng đối diện với chính mình. Mình cón
quá trẻ, quá già hay vừa đúng độ để nghĩ đến chuyện rồi một ngày nào
đó đến lượt mình ra đi – một sự hóa thân giữa cõi vô thường không ai
tránh được. Tuổi trung niên đang là lớp tuổi đóng vai chủ lực trong
hầu hết những sinh hoạt Phật sự hay những ngày lễ hội. Trong tang lễ
của thầy Mãn Giác, giới Phật tử và thân hữu trung niên xuất thân từ
các trường đại học Vạn Hạnh, Huế, Cần Thơ, Sài Gòn, Đà Lạt; từ các
ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ ngày xưa ở quê nhà và bây giờ ở nước
ngoài tham dự đông đảo nhất. Lớp trung niên rất xác tín với khuynh
hướng vận động cho một sự hòa hợp nội bộ Phật Giáo Việt Nam trước khi
các bậc tôn túc cao niên trong hàng giáo phẩm cao cấp sẽ lần lượt ra
đi không còn bao lâu nữa. Khả năng ra đi giữa cõi vô thường của quý
Ôn đang diễn ra trước mắt với tang lễ thầy Mãn Giác, với dáng vẻ tuổi
hạc của quý Ngài, với giọng nói đã mòn mõi âm vang của một thời vị lão.
Bày tỏ niềm hy vọng
về tinh thần hóa giải của đạo Phật trong cảnh tranh tối tranh sáng
hiện nay – mà ngay cả anh em nội bộ cũng có người và có khi chưa nhìn
rõ mặt nhau –đương kim hội trưởng và ban chấp hành hội Ái Hữu Đại Học
Vạn Hạnh hải ngoại, anh Lê Văn Thạnh và anh Trương Chí Cường đều nói
lên niềm ước mơ về một trường đại học Phật Giáo hay một hậu thân của
Đại Học Vạn Hạnh tại quê nhà sẽ sớm được phục hồi. Sự phục hồi sẽ
mang một ý nghĩa sâu xa hơn về các mặt lịch sử, tâm lý, tình cảm và
đạo nghĩa nếu cảnh Thầy Xưa Bạn Cũ vẫn còn duyên lành hội ngộ dưới mái
nhà giáo dục trước khi thời gian và điều kiện thể lý bắt buộc phải
chia tay. Rõ ràng, kinh nghiệm lịch sử của những ngôi trường lừng lẫy
thế giới như Sorbonne, Cambridge, Harvard, Stanford… cho thấy rằng,
một cơ sở văn hóa hay giáo dục thuần túy và truyền thống thường dễ
dàng biến thành mảnh đất chung. Một mảnh đất có mẫu số chung cho
những bàn tay nhiệt tình đóng góp. Đồng thời, cũng là phương tiện hóa
giải đậm tính nhân văn cho những khuynh hướng tương tranh và phân hóa
trong từng nội bộ.
Ngày một vị cao tăng
như thầy Mãn Giác ra đi, người ở lại thường có dịp lắng lòng nhìn lai
chặng đường đã qua để suy tư về một tương lai đang tới. Bao nhiêu là
ước mơ, bao nhiêu là hy vọng về một vận hội mới của Phật Giáo Việt Nam
vừa được nhen lên khi cảnh sinh diệt vô thường và tre tàn măng mọc
đang diễn ra hiện tiền, trong từng chớp mắt của thời gian.
Một “khúc quanh dài”
gần 4 thế hệ của Phật Giáo Việt Nam đang đi qua… đi qua. Có qua được
bờ bên kia reo vui bằng tinh thần phá chấp như lời minh chú cao tột
của đại lực khai phóng Bát Nhã; hay vẫn còn đang dùng dằng giữa bao hệ
lụy nhân sinh dài lê thê, được tính bằng thập niên và thế kỷ đang là
sự thách đố của Phật Giáo Việt Nam trong thời đại mới nầy?
Trưa thử Bảy đầy
nắng vàng, trong khung cảnh rực rỡ y vàng và sáng lên trong Ánh Đạo
Vàng giữa khuôn viên Nghĩa Trang Live Oak Crematory, hàng nghìn tiếng
cầu kinh của chư Tăng Ni, Phật Tử và Thân Hữu cùng góp lại trong cùng
một lời kinh: “Nam mô tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật”.
Nam mô tiếp dẫn đạo
sư A Di Đà Phật. Lời tiếp độ cho một cõi đi về đang kéo chúng ta
thẳng thắn, dù xót xa, nhìn vào hiện thực. Có những vấn đề cấp thiết
đang đối diện với chúng ta. Phật Giáo Việt Nam không thể đứng lại
giữa dòng Đạo Pháp thế giới đang chuyển mình không một giây ngừng nghỉ.
Ngưới ta có thể vô tình với quá khứ nhưng không có ai muốn làm người
có lỗi với thế hệ tương lai.
Nhục thân của cố
hòa thượng Thích Mãn Giác trở về với tứ đại. Nhưng thi sĩ Huyền Không
thì đang ở lại, bay bay cười mỉm với trăng:
Ta từ
sinh tử về chơi
Ngồi
trên chót đỉnh mỉm cười với trăng.
Không
biết từ đâu, sau tang lễ của thầy Thích Mãn Giác, trên đường về lại
nhà, tôi có niềm thâm tín rằng, Phật Giáo Việt Nam đang ở ngày cuối
trong Khúc Quanh Dài đầy bóng tối. Thâm tín có thể chỉ là niềm ước mơ
trên căn bản hiện thực; nhưng nhất định không thể là hoang tưởng bâng
quơ.
Trần Kiêm Đoàn
Sacramenot, Thu 2006
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/cuoikhuc_quanhdai.htm