-
Tóm tắt tham luận
Thành tựu, giá
trị và ý nghĩa văn hoá của Phật giáo Việt Nam hôm nay chính là sự kết
tinh, tính hợp những giá trị truyền thống dân tộc và phát triển trong
điều kiện mới của một xã hội hiện đại. Muốn xác định những đóng góp
của Phật giáo Việt Nam cho nền văn hoá dân tộc trước hết cần thống
nhất nhận thức về bản chất Phật giáo, về vai trò và vị trí Phật giáo
trong trường kỳ lịch sử cũng như chính khả năng thâm nhập, tác động,
chi phối của Phật giáo trên tất cả các lĩnh vực khoa học kỹ thuật,
chính trị, xã hội của một dân tộc.
Không có gì
khác hơn, trong bản chất, Phật giáo chính là một cách hình dung về đời
người, một thế ứng xử nhân văn về thế giới con người. Theo chúng tôi,
đây chính là cơ sở nhận thức để từ đó tiến hành khảo sát, định giá
những đóng góp quan trọng của Phật giáo đối với lịch sử văn hoá dân
tộc cũng như dự cảm khả năng phát triển của Phật giáo trong tương quan
với nền văn hoá dân tộc - hiện đại.
Đồng hành cùng
lịch sử dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã xác lập nên truyền thống văn
hoá thực sự giàu bản sắc. Đến ngày nay, diện mạo và tầm vóc văn hoá
của Phật học và Phật giáo Việt Nam đã được khẳng định và có vị trí
vững chắc trong nền văn hoá dân tộc - hiện đại. Một thời đại mới đang
mở ra cùng với những thách thức của hội nhập và phát triển, lợi ích cá
nhân và cộng đồng, phẩm chất vị tha và cạnh tranh thị trường đòi hỏi
sự năng động của tinh thần Phật giáo, yêu cầu phát huy và dung hợp
những giá trị nhân bản bền vững của văn hoá Phật giáo Việt Nam trong
nền văn hoá dân tộc - hiện đại. Một song đề được đặt ra: Có thể khẳng
định vị trí vững chắc của Phật giáo Việt Nam trong nền văn hoá dân tộc
song liệu đã có thể hình dung về một nền văn hoá dân tộc - hiện đại
dựa trên căn bản tinh thần Phật giáo Việt Nam?...
****
-
Phật Giáo Việt Nam Và Những
Đóng Góp
-
Cho Nền Văn Hoá Dân Tộc
-
PGS. TS.
Nguyễn Hữu Sơn
-
(Viện Văn học)
1.
Muốn xác định những đóng góp của Phật giáo Việt Nam cho nền văn hoá
dân tộc trước hết cần thống nhất nhận thức về bản chất Phật giáo, về
vai trò và vị trí Phật giáo trong trường kỳ lịch sử cũng như chính khả
năng thâm nhập, tác động, chi phối của Phật giáo trên tất cả các lĩnh
vực khoa học kỹ thuật, chính trị, xã hội của một dân tộc.
Chúng ta đều biết rằng người sáng lập đạo Phật chính là Thái tử Tất
Đạt Đa - đức Thích ca Mâu ni (563-483 tr. CN). Không có gì khác hơn,
đạo Phật cũng do chính con người sáng tạo nên, do con người tạo lập
các tổ chức Phật đoàn, xây dựng các hệ thống giáo lý kinh - luật -
tạng. Không có gì khác hơn, Phật giáo cũng nhằm tới lý giải những
thách đố triết học trừu tượng muôn thủa như bản chất sự sống, lẽ sinh
tử, con người đến từ đâu và đi về đâu, con người là gì giữa cõi tạm
trăm năm và trước cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian.
Không có gì khác hơn, Phật giáo cũng nhằm tới giải quyết mối quan hệ
giữa khả năng nhận thức và phương tiện hành đạo, giữa những mâu thuẫn
trong xã hội và mơ ước đạt tới hạnh phúc trước thách thức những "tham,
sân, si, ái, ố, hỷ, nộ" của cuộc đời và trong vòng chuyển hoá thời
gian Quá khứ - Hiện tại - Vị lai của mọi kiếp chúng sinh. Không có gì
khác hơn, Phật giáo cũng là một bộ phận hiện hữu trong cấu trúc văn
hoá - xã hội, trong lịch sử phát triển tư tưởng và nền văn minh của xã
hội loài người và tương đồng với những cách hình dung khác, những hệ
phái tư tưởng và giáo phái khác. Không có gì khác hơn, Phật giáo ra
đời cũng nhằm đáp ứng những yêu cầu khách quan đặt ra trong quá trình
phát triển lịch sử (chủ yếu ở/ từ cội nguồn phương Đông), trong đó
chứa chất cả những mặt thuận chiều và nghịch lý, có cả những bước tiến
và giai đoạn thoái trào, có cả những khúc quanh và sự điều chỉnh, vận
động, đổi mới, phát triển. Không có gì khác hơn, trong bản chất, Phật
giáo chính là một cách hình dung về đời người, một thế ứng xử nhân văn
về thế giới con người. Theo chúng tôi, đây chính là cơ sở nhận thức để
từ đó tiến hành khảo sát, định giá những đóng góp quan trọng của Phật
giáo đối với lịch sử văn hoá dân tộc cũng như dự cảm khả năng phát
triển của Phật giáo trong tương quan với nền văn hoá dân tộc - hiện
đại.
2. Không có gì
phải bàn cãi nhiều trong việc thừa nhận sức sống và vai trò của Phật
giáo trong quá trình hình thành, xây dựng và phát triển nền văn hoá
dân tộc, đặc biệt ở thời Lý - Trần. Việc duy danh thời đại Lý - Trần
là để chỉ giai đoạn lịch sử trải từ triều đại nhà Ngô (939-967) qua
loạn “thập nhị xứ quân” (966-968) đến nhà Đinh (968-980) - nhà Tiền Lê
(980-1009) - nhà Lý (1010-1225) - nhà Trần (1225-1400) và nối tiếp một
số năm thuộc triều nhà Hồ (1400-1407). Sau cả ngàn năm Bắc thuộc, đây
là giai đoạn lịch sử phát triển trong xu thế độc lập dân tộc, vừa xác
lập nền móng vừa tạo lập những sắc thái riêng - những giá trị đặc
trưng được định danh bằng nền văn hoá lấy Phật giáo làm quốc giáo trên
nền tảng nhận thức “Tam giáo đồng nguyên”, “học phong Đông A”... Đó
cũng chính là giai đoạn đất nước Đại Việt xác lập thiết chế xã hội
theo mô hình quân chủ Nho giáo nhưng vẫn coi Phật giáo là quốc giáo,
vẫn tổ chức các kỳ thi tam giáo và xác lập khả năng dung hợp tư tưởng
“tam giáo đồng nguyên” với mô hình văn hoá “Phật - Đạo - Nho”, trong
đó bản thân các thiền sư đồng thời là quốc sư, mưu sĩ, cố vấn; nhiều
hoàng đế đồng thời là thiền sư - thi sĩ; nhiều bậc quan tướng, hoàng
thân quốc thích đồng thời là đệ tử, chúng tăng(1)...
Trong suốt thời Lý (1010-1224), hệ tư tưởng Phật giáo và giới tu hành
có một vị trí đặc biệt trong đời sống văn hoá, xã hội Đại Việt. Các
nguồn thư tịch cổ, đặc biệt sách Thiền uyển tập anh (1337) đã xác định
rõ mối liên hệ giữa giới tu hành với nhà vua, quan lại triều đình.
Chính các thiền sư đã tham gia vào sự nghiệp giáo dục và khoa cử theo
một cách riêng, không phải họ trực tiếp đi thi cầu đỗ đạt mà ở một tầm
trí tuệ cao hơn, họ có thể trực tiếp tham dự chính sự, xây dựng vương
quyền, giúp vua đánh giặc cứu nước, giảng dạy cho tầng lớp vương tôn
trong triều, thực hiện phương thuật cầu đảo mưa thuận gió hoà, trợ
giúp vào việc kinh bang tế thế và cảm hoá, dẫn độ họ theo về Phật giáo.
Sách Thiền uyển tập anh cho biết nhiều người trong hàng ngũ tăng lữ có
uy vọng lớn lao như thiền sư Trí Thiền: "Hai vua Lý Anh Tông và Cao
Tông nhiều lần thỉnh sư về kinh nhưng sư đều từ chối. Các đại thần như
Phụ quốc Thái uý Tô Hiến Thành, Thái Bảo Ngô Hoà Nghĩa xin làm đệ tử
mà suốt mười năm chưa từng được gặp sư"... Nhưng không chỉ có thế, tài
năng và uy vọng của các thiền sư còn được trọng dụng ở việc đối ngoại,
đón tiếp sứ giả, được cả vua và giới Thiền môn người nước ngoài biết
tiếng, vì nể, nghĩa là đã vươn tới tầm "quốc tế"; thiền sư Pháp Hiền
(?-626): "Thứ sử nhà Tuỳ là Lưu Phương tâu về triều, Tuỳ Cao Tổ từ lâu
đã nghe tiếng người nước Nam này sùng chuộng đạo Phật, đã có các bậc
cao tăng đức vọng, bèn sai sứ đem xá lỵ Phật và năm hòm sắc điệp sang
ban cho sư để xây tháp cúng dàng. Sư bèn chia xá lỵ cho chùa Pháp Vân
ở Luy Lâu và các chùa có tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, ái để
dựng tháp phụng thờ"; đồng thời các vị như Đại sư Khuông Việt
(933-1011) và Đỗ Pháp Thuận (915-990) lại đều đã tiếp kiến và xướng
họa thơ từ với sứ nhà Tống là Lý Giác... Những điều này tỏ rõ rằng,
trong định hướng "nhập thế", hướng về thế tục thì mối liên hệ với vua
quan triều đình đã trở thành một tiêu chí quan trọng xác nhận uy vọng
và vai trò các thiền sư trong đời sống xã hội và cộng đồng quốc gia.
Điều đó cũng chứng tỏ mối liên kết giữa thần quyền và vương quyền cũng
như vai trò chi phối đời sống tinh thần, thế giới tâm linh của Phật
giáo với tư cách là "quốc giáo" trong buổi đương thời(2)... Bên cạnh
sự chi phối hệ tư tưởng chính thống, Phật giáo thời Lý còn đóng góp
vào di sản văn học một hệ thống truyện thiền sư có ý nghĩa mở đầu loại
hình văn xuôi tự sự dân tộc và dòng thơ thiền có giá trị triết lý và
nhân văn cao cả. Nhân đây chúng tôi dẫn lại bài kệ của thiền sư Nguyễn
Vạn Hạnh ((?-1018) đọc trước tăng chúng trước lúc lâm chung "không lấy
chỗ trụ mà trụ, cũng chẳng dựa chỗ vô trụ mà trụ":
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cối xuân tươi thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông)
(Ngô Tất Tố dịch)
Vậy đời người có như "bóng chớp" không? Hãy thử hình dung, một đời
người hưởng thọ trăm năm dài như từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối. Như vậy,
tính từ khi sinh ra, con người thụ hưởng mỗi sát-na thì cũng có nghĩa
mỗi sát-na đó đang dần qua đi, đang mất dần đi, đang bị trừ dần vào
quĩ thời gian kiếp người và tiến dần đến 6 giờ tối chung cuộc. Con
người sinh ra từ cõi Vô rồi tất yếu lại trở về Vô, chỉ hiện diện như
một "bóng chớp" giữa cõi tạm cuộc đời, đi từ có rồi trở lại không, từ
hữu lại hoàn vô. Sống trong cõi tạm cuộc đời, con người phải chấp nhận
và tuân theo qui luật tất yếu bởi lẽ sinh tử, "sinh ký tử qui", "sinh,
lão, bệnh, tử", "thành, trụ, hoại, diệt" và mọi mối nhân duyên doanh -
hư, tiêu - trưởng, thành - bại, thừa - trừ. Vấn đề đặt ra ở đây là
thái độ ứng xử trước cõi tạm cuộc đời và trước cái qui luật bất biến
ấy, con người có thể nhận thức được không, con người có thể tìm thấy
niềm vui trần thế hay cúi đầu an phận, buông xuôi? Trên thực tế, trước
hiện hữu nêu trên, Nguyễn Vạn Hạnh đã trao truyền cẩm nang cho tăng
chúng bằng tinh thần "nhậm vận", mong cầu con người đạt tới trình độ
nhận thức siêu việt trước mọi biến thiên, vọng động; đạt tới trạng
thái bình tâm, chủ động trước mọi lẽ thịnh suy. Trên hết cả, các dòng
sông đều chảy về 6 giờ chiều; mọi vui buồn, thịnh suy đều xuôi về 6
giờ chiều, có gì phải dao động, băn khoăn, sợ hãi. Rõ ràng bài thiền
thi thơ - kệ đã tạo nên một phản đề, vừa trình bày một trướng ngại
khách quan qua hai câu thơ trên và đi đến hai câu thơ sau mở đường chỉ
lối cho chúng tăng, đề cao năng lực chủ thể, tinh thần chủ động, an
nhiên tự tại trước mọi thăng trầm thế sự, lạc quan vui sống ngay giữa
cuộc đời này. Từ một điểm nhìn hình thức nào đó, tôi cảm nhận có một
nét tương quan tương đồng giữa nhà văn Cộng sản Nga N. A. Oxtơrôpxki
(1904-1936) với thiền sư Nguyễn Vạn Hạnh trong trực giác về bản chất
và ý nghĩa cuộc sống đời người: "Cái quí nhất của con người là cuộc
sống. Đời người ta chỉ sống có một lần"...
Đặt trong tương
quan đời sống tinh thần "tam giáo đồng nguyên", trước thực tế Phật
giáo đời Trần vẫn có bước phát triển mới (đặc biệt với sự xuất hiện
thiền phái Trúc Lâm Yên Tử) nhưng chính Nho giáo mới tạo nên bước tiến
vượt bậc, phát triển thuận chiều với yêu cầu và xu thế lịch sử. Nhà
Phật học Nguyễn Lang thực sự tinh tế khi ông nhận xét về việc học Phật
với những ám ảnh bởi "tính cách khoa cử, từ chương", "học hỏi chương
cú" được hiểu như là những cố gắng cuối cùng trong cuộc bàn giao Phật
giáo - Quốc giáo tới Nho - Quốc giáo: "Thánh Tông và Tuệ Trung là hai
người xuất sắc trong số những người trẻ học Phật và thành đạt trong sự
nghiệp học Phật ấy. Sự học Phật ở đây không đưa đến thi cử và địa vị,
sự học Phật đây chỉ để làm người. Cái học hoàn toàn không có tính cách
khoa cử, từ chương và ép buộc (...). Thiền học Việt Nam vào đầu thế kỷ
thứ mười bốn đã dung hợp với việc học hỏi chương cú. Việc khắc bản Đại
tạng kinh thực hiện vào cuối thế kỷ thứ mười ba, đóng góp không ít vào
phong trào Phật học đầu thế kỷ thứ mười bốn"(3)...
Đến cuối thời
Trần - hay là "thịnh vãn Trần" - Nho giáo đã "mạnh dần lên", theo cách
nói của nhà sử học Trần Quốc Vượng: "Về văn hoá tôn giáo, xưa Phật là
"cột cái", Nho - Lão là hai "cột quân" của kiến trúc tôn giáo Đại Việt.
Lúc ấy đạo sĩ là để cúng kiếng cầu tự, cầu thọ, chữa bệnh...; nho sĩ
chủ yếu là thư lại (scribe), Đức Thái Tông - Thánh Tông sùng Phật,
trọng Nho - Lão, chấp nhận quan Bảng nhãn Lê Văn Hưu viết Đại Việt sử
ký 30 quyển (1272) có nhiều lời bài Phật nhẹ nhàng. Trương Hán Siêu,
Lê Quát... bài Phật mạnh hơn song vẫn được các vua trọng dụng (...).
Thời Minh Tông có biến dịch mạnh hơn: Các nhà nho từ cửa trường
Chu Văn An (Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Nguyễn Trung Ngạn...) ra làm quan
triều đình đòi cải cách theo Tống Nho (...). "Trạng nguyên" Huyền
Quang vẫn chọn con đường tu Phật và không xếp hàng với đám thư sinh
mặt trắng ấy. Nhưng dù Nho có mạnh lên thì vẫn là Nho Việt"(4)... Qua
nguồn sáng trên, tôi muốn nhấn mạnh thêm, bản thân câu chuyện Huyền
Quang Lý Đạo Tải (1254-1334) được thêu dệt, truyền tụng là người đã đỗ
Trạng nguyên, từng làm quan to trong triều có lẽ cần được coi là minh
chứng cho tâm thế nhà Phật trước yêu cầu thời đại cần cộng hưởng với
Nho giáo, cộng hưởng thêm uy danh khoa cử nhà nho mà suy tôn vị thế
đức Tam tổ Trúc Lâm.
3. Chuyển sang
giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX, Phật giáo Việt Nam
phát triển trong điều kiện và hoàn cảnh xã hội mới. Tuy Phật giáo ở
từng thời kỳ và từng vùng miền cụ thể có những đặc điểm và mức độ phát
triển khác nhau nhưng điều dễ thấy là các vương triều đều đã dựa hẳn
vào hệ tư tưởng Nho giáo và xây dựng thiết chế theo mô hình xã hội
phong kiến. Hệ tư tưởng Phật giáo trở nên thứ yếu trong hoạt động xã
hội nhưng dường như lại trở nên linh thiêng hơn trong đời sống tâm
linh và tâm thức giới nho sĩ, đặc biệt lan toả sâu rộng trong tầng lớp
bình dân và các miền quê, từ đó tạo nên xu thế dung hoà trong nhận
thức Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt. Điều quan trọng hơn, ngay
cả các bậc vua chúa, quan lại và giới trí thức nho sĩ hiển đạt
cũng hiểu biết và tìm về Phật giáo như một lối giải thoát và như một
thế ứng xử nhân văn. Nhiều trang thơ văn của Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Ngô
Thì Nhậm(5)... đều in đậm cảm quan Phật giáo hoặc biểu lộ những xúc
cảm và cách hình dung về cuộc đời tương đồng với Phật giáo...
Đến đây xin dẫn
chứng trường hợp tác gia Nguyễn Trãi (1380-1442) trong tư cách danh
nhân văn hoá thế giới và cũng là nhà nho có mối nhân duyên sâu nặng
với Phật giáo. Nhìn nhận một cách hệ thống, xét trên phương diện từ
vựng, Nguyễn Trãi sử dụng các lớp từ có ý nghĩa như những điển tích,
thuật ngữ nhà Phật, hoặc xa gần giàu ý nghĩa biểu cảm tư tưởng, tâm
linh và đời sống tu hành của nhà Phật. Ông từng du ngoạn, làm thơ đề
vịnh các chùa Hoa Yên, Đông Sơn, Tiên Du, Nam Hoa; nhắc nhớ tới các
miền đất Phật như Yên Tử, Côn Sơn của phái Thiền Trúc Lâm đời Trần; là
đình tổ Bồ Đề Đạt Ma ở núi Thiếu Thất, Tuệ Năng ở Tào Khê... Ngoài ra
là số lớn các thuật từ nhà Phật trong thơ chữ Hán như tiền duyên, tục
sự, phi tích, ngã ẩn, hương hoả, thiền sáp, Phật bát, chân thân,
nhất phái, kiếp kiếp, cơ hà diệu, thượng thừa thiền, vô thụ phi đài,
thần tích phi lai; và trong thơ chữ Nôm cũng có rất nhiều từ ngữ
nhà Phật như Bụt, đất Bụt, kiếp, duyên, nghiệp, nghiệp ba thân,
hương lửa ba thân, tượng thấy ba thân; chiền (chùa), chùa chiền, tây
phương, Như Lai; tâm, vô tâm, vô sự; trai thiền, rừng thiền, thiền
định; tự tại, cơ mầu; ẩn, ẩn dật, đại ẩn, ẩn cả lâm tuyền... Đi sâu
khảo sát các dạng thức bộc lộ cảm quan Phật giáo của Nguyễn Trãi
sẽ cho thấy mặt bản chất, cốt yếu nhất của vấn đề. Rõ ràng Nguyễn Trãi
có am hiểu giáo lý nhà Phật, có quan hệ thân thuộc với giới tu hành,
giao du với nhà sư Đạo Khiêm hay đàm đạo thơ văn với các “sơn tăng”:
Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm,
Giơ tay áo đến tùng lâm.
Rừng nhiều cây rợp hoa chầy động,
Đường ít người đi cỏ kíp xâm.
Thơ dưới tục hiềm câu dưới tục,
Chủ vô tâm ấy khách vô tâm.
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy,
Năng mấy sơn tăng làm bạn ngâm.
(Ngôn chí,
bài 4)
Nguyễn Trãi
thấu hiểu cái “bụi lầm” của cõi đời và khao khát tìm đến một lẽ gì yên
bình, thanh sạch chốn “tùng lâm”. Tuy nhiên, ông gần cảnh chùa, gần
lòng thiền hư không song vẫn thấy có một sự “gián cách”, một nét tiêu
tao của chính cái bản ngã mà ông gọi là ông này.
Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy,
Có thân chớ phải lợi danh vây...
ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế,
Năng một ông này đẹp thú này.
(Ngôn chí,
bài 10)
Trong thực chất,
nỗi niềm “tiêu sái lòng ngoài thế”, tự đặt mình ra ngoài vòng danh lợi
dường như đã là một chất sống trong tâm tư Nguyễn Trãi và có sự gặp gỡ,
thông kênh với cái bình lặng, an nhiên, siêu thoát của nhà Phật. Do đó,
nhiều khi những yếu chỉ tư tưởng Phật giáo như ẩn cả (đại ẩn, đại thừa)
hay là tiên, bụt cũng chỉ được coi là cái cớ, là phương tiện, một
phương diện trong tương quan với chủ thể đang truy tìm những giây lát
“tiêu sái”, “thú an nhàn”, “lòng thơm”... Nguyễn Trãi tìm đến với Phật
giáo, hiểu và thông kênh với cái bản ngã căn cốt cao diệu của nhà Phật,
song sâu xa trong cõi lòng, ông vẫn còn mặc cảm, vẫn cứ còn gợi nhớ,
đối sánh, nhắc nhở về một “chữ học ngày xưa”, “đất nhà quan”, “lợi
danh”, “bụi lầm”, “ngoài thế”... ở ngay trong cùng một bài thơ. Trong
chiều hướng gián cách với cõi đời, Nguyễn Trãi tìm về một thiên nhiên
Phật chỉ có chim muông, cỏ cây, mây nước, suối khe và tịnh không thấy
đâu hình bóng con người.
Chụm tự nhiên một thảo am,
Dầu lòng đi bắc liễn về nam.
Rừng thiền định, hùm nằm trực,
Trái thì trai, vượn nhọc đem.
Núi láng giềng, chim bậu bạn,
Mây khách khứa, nguyệt anh tam.
Tào Khê rửa ngàn tầm suối,
Sạch chẳng còn một chút phàm.
(Thuật
hứng, bài 19)
Cho đến gần hết
một đời người, sau khi đã trải qua những “nghiệp cũ thi thư”, những
khi “thân lụy”, Nguyễn Trãi chợt bừng tỉnh và đốn ngộ ra quãng đời quá
khứ chỉ như một sự “sắc, không”, nay cần dứt bỏ lòng dục, vươn tới cái
tâm thanh thoát an bằng.
- Thân đà hết lụy thân nên nhẹ,
Bụt ấy là lòng, bụt há cầu?
(Mạn thuật,
bài 8)
- Nghiệp cũ thi thư hằng một giấc,
Duyên xưa hương lửa tượng ba thân.
(Ngôn chí,
bài 11)
- Kẻ thì nên bụt kẻ nên tiên,
Tượng thấy ba thân đã có duyên...
Như vậy, sau
khi đã chứng nghiệm trong trạng thái an tĩnh “thân nên nhẹ”, tức là đã
siêu thoát lên trên vòng danh lợi, thì Nguyễn Trãi trở lại xác nhận
cái chân lý hiển nhiên “Bụt – ấy là lòng” như cách nói của Thượng sĩ
Tuệ Trung (1230-1291) “Tâm tức Phật – Phật tức tâm” (Phật tâm ca).
Không chỉ chứng nghiệm được cái lẽ vi diệu của tính Phật là sự giải
thoát chính cõi Tâm – Giác ngộ – Phật tính – Niết bàn – Cực lạc,
Nguyễn Trãi còn diễn tả cốt lõi cảm quan Phật giáo trong những hình
ảnh thơ uyên áo, sống động.
ánh nước hoa in một đoá hồng,
Vết nhơ chẳng bén, bụt làm lòng.
Chiều mai nở chiều hôm rụng,
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.
(Cây mộc
cận)
Nguyễn Trãi
vịnh cây mộc cận (còn gọi là bông bụt, râm bụt) đã triệt để khai thác
hàm nghĩa chơi chữ và các yếu tố có thực (hoa bông bụt - Bụt - Phật -
lòng (Tâm), sắc-không, sớm nở tối tàn, bóng hoa trong nước, loài hoa
không hương vị) để diễn giải những điều vốn là cao siêu, trừu tượng.
Sự tiếp cận với bông hoa trong ánh nước là hình ảnh thực mà không thật.
Việc tiếp cận với lẽ “sắc không” chẳng qua cũng như kinh Viên Giác:
“Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ” (Tất thảy những giáo lý
giảng bày trong kinh điển đều là ngón tay chỉ mặt trăng), trong thực
chất chỉ có thể cảm nhận chứ không thể nào nắm bắt, dẫn giải cụ thể
được.
Chung quy, có
thể khẳng định cảm quan Phật giáo là một phương diện tư tưởng quan
trọng trong thơ văn và trong chính những phương thức ứng xử nhân văn
của Nguyễn Trãi. Bằng sự chứng nghiệm trong trường đời và sở học uyên
thâm, Nguyễn Trãi đã có sự gặp gỡ những giá trị nhân bản căn cốt trong
tư tưởng Phật giáo, thể hiện một cách hình dung về cuộc đời tương đồng
với quan niệm của Phật giáo, từ đó thăng hoa thành những vần thơ đằm
thắm nghĩa Đạo tình Đời. Điều đó càng chứng tỏ Nguyễn Trãi là một nhà
tư tưởng, nhà nghệ sĩ khoan dung, biết thâu thái mọi giá trị thân-
thiện- mỹ để trở thành một nhà nhân văn vĩ đại của dân tộc. Thực tế
này một mặt khẳng định sức sống mãnh liệt của tư tưởng Phật giáo, mặt
khác cho thấy chính những giá trị nhân văn của Phật giáo đã chuyển hoá,
thâm nhập vào hệ tư tưởng Nho giáo và các tầng lớp chúng dân vốn gần
cận hơn với lối sống đô thị phong kiến, góp phần làm nên bảng màu
truyền thống văn hoá dân tộc thực sự sinh động, độc đáo, mới mẻ.
Đồng thời với
xu thế Phật giáo hoá Nho giáo giữa thời chế độ phong kiến phát triển
toàn thịnh, bản thân Phật giáo tiếp tục được khẳng định trong tư cách
một phương diện văn hoá bởi khả năng thâm nhập vào cả loại hình văn
học dân gian và văn học viết cũng như các bộ môn nghệ thuật khác như
kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, lễ hội... Bản thân cuộc đời nhiều thiền sư đã trở thành nhân
vật của văn học dân gian, tham dự vào di sản kho tàng truyện cổ tích
như thiền sư Đa Bảo, Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không...
Nhiều câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao đã chuyển tải và khẳng định được
những giá trị nhân văn của tư tưởng Phật giáo: "Hiền như Bụt", "Đi với
Bụt mặc áo cà sa", "Trẻ vui nhà, già vui chùa", "Cứu nhất nhân phúc
đẳng hà sa", "Dù xây chín bậc phù đồ - Không bằng làm phúc cứu cho một
người", "Dù ai xuôi ngược trăm bề - Nhớ ngày mồng tám trở về hội Dâu"...
Khi tinh thần Phật giáo nhuần thấm thành những giá trị văn hoá phi vật
thể phổ quát trong nhân gian thì sẽ có được sức sống trường tồn. Bên
cạnh đó, khắp các vùng miền và làng quê trong cả nước đều có những
công trình văn hoá Phật giáo hữu thể, các ngôi cổ tự và gắn liền với
những vần thơ du ngoạn, đề vịnh cảnh chùa để rồi định hình "một vùng
tâm thức, một vùng thi ca"(6).
4. Kể từ thế kỷ
XX đến nay, nền văn hoá dân tộc Việt Nam có những thay đổi hết sức căn
bản và theo đó bản thân Phật giáo cũng vận động theo xu thế vừa dân
tộc vừa hiện đại hoá, bắt nhịp và dung hoà với đời sống tư tưởng, tinh
thần thế giới hiện đại. Những ngôi chùa xưa ẩn khuất trong bóng cây
nay đã được bê tông hoá. Các loại kinh sách xưa nay được dịch in bằng
chữ Quốc ngữ, được xuất bản và bày bán rộng rãi. Tiếng kinh tiếng mõ
giữa ngôi chùa thanh vắng xưa nay được thâu băng thâu đĩa đến với mọi
nhà. Các nhà sư xưa vân du nơi non cao núi thẳm bây giờ đã đi xe máy,
ô tô, chuyên cơ; ngọn đèn bạch lạp xưa đã thay bằng bóng điện; trang
sách giấy bản xưa đã thay bằng màn hình vi tính và nối mạng internet;
những buổi đàm đạo, thuyết giảng giáo lý khuôn gọn trong giữa thầy trò
trong từng ngôi chùa xưa nay được quốc tế hoá thành những hội thảo,
hội nghị chuyên sâu... Tất cả, tất cả mọi đổi thay đó cũng chỉ là sự
tùy duyên để Phật giáo hôm nay hoằng dương phổ độ chúng sinh nhiều hơn,
cập nhật hơn với đời sống, vừa là một bộ phận thành tố văn hoá dân tộc
và cũng chính là một giá trị văn hoá nhân loại, có khả năng tác động
trở lại mọi mặt hoạt động đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội và tham
vọng mở đường giải thoát cho biết bao những thách thức, vấn nạn đang
đặt ra trước thế giới.
Thực tế cho
thấy Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XX đã có những đóng góp vô cùng to
lớn cho nền văn hoá dân tộc - hiện đại. Trong triển vọng phát triển
chung của tôn giáo thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng đồng hành hướng
tới giải quyết những nhiệm vụ cơ bản đặt ra với con người hiện đại,
đặc biệt ở bước đi tương đồng với những quốc gia lân bang cùng điều
kiện và hoàn cảnh. Nhà nghiên cứu Lý Bình Hoa (Trung Quốc) đặc biệt
nhấn mạnh các mối quan hệ của tôn giáo hiện đại với bốn phương diện cơ
bản nhất là khoa học kỹ thuật - xã hội - chính trị và dân tộc(7). Đó
là đặc điểm và cũng là xu thế phát triển của Phật giáo hiện đại - xu
thế "Nhìn Phật giáo qua khoa học", "Phật giáo - những vấn đề triết học",
"Sự hợp tác giữa khoa học và tôn giáo"(8) và như nhà thiên văn học
Trịnh Xuân Thuận từng nâng tầm nhận thức "Đi tìm một đấng tối cao",
tìm đến câu trả lời từ Phật giáo về những suối nguồn của ý thức cộng
hữu với thế giới vật chất: "Theo như Phật giáo quan niệm, sự hoà điệu
tuyệt vời của vũ trụ đủ để cho ý thức xuất hiện không hề là công trình
của một Đấng Tối Cao nào cả, bởi vì nhân vật này không hề hiện hữu...
Phật giáo cho rằng, cái vũ trụ vật chất này và ý thức đã luôn cộng hữu
với nhau từ vô thủy... Quan điểm của Phật giáo hoàn toàn khác biệt từ
căn bản với chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Chỉ có một sự khác
biệt trên mặt tục đế giữa giữa vật chất và ý thức, bởi vì ở điểm tận
cùng, cả hai đều không có một hiện hữu tự thân. Bởi vì Phật giáo bác
khước cái thực tại rốt ráo của thế giới hiện tượng, nó đồng thời bác
khước luôn cái ý tưởng cho rằng ý thức là độc lập và hiện hữu tự thân"(9)...
Việc nhận diện những đóng góp của Phật giáo trên phương diện văn hoá
đương nhiên không thể tách rời yêu cầu nhận thức lại lại quá khứ và
nhận thức cái mới hôm nay, xu thế hiện đại hoá và quốc tế hoá, ở Việt
Nam cũng như bất cứ quốc gia có truyền thống Phật giáo nào khác.
Trên từng
phương diện cụ thể, Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XX đã đạt tới những
thành tựu có thể được coi là cấp số nhân, tổng thành những kết quả từ
nhiều thế kỷ trước cộng lại. Trước hết cần nhấn mạnh công việc sưu tập,
hệ thống hoá và dịch thuật được một khối lượng phong phú các nguồn thư
tịch Phật giáo Hán Nôm qua các thời đại, kể từ nguồn sách giáo lý kinh
điển, trước tác của các thiền sư đến các cư sĩ và trí thức Nho sĩ qui
về Phật giáo. Nhiều bộ sách tổng tập, toàn tập, biệt tập, từ điển và
công trình nghiên cứu Phật học đã đưa lại nguồn tri thức thực sự
chuyên sâu, chuyển giao và hoà nhập vào kho tàng văn hoá hiện đại,
đương đại. Trên cơ sở đó đã hình thành cả một đội ngũ các nhà Phật học
mà những đóng góp của họ đã được ghi nhận cả trong nước và thế giới.
Đây thực sự là một gia tài văn hoá với định hướng khẳng định những giá
trị nhân văn cao cả, tạo nên nghiệp lực hướng tới những ý tưởng công
bằng, bác ái, khuyến thiện.
Trong xu thế
hiện đại hoá và xã hội hoá có thể nói đến một tinh thần phục hưng Phật
giáo cả trên phương diện tổ chức tăng đoàn cũng như khả năng thâm nhập
vào các hoạt động xã hội, phát huy những giá trị nhân bản trong đời
sống hiện thực. Ngay từ hồi đầu thế kỷ XX, khắp ba miền Bắc Trung Nam
đều xuất hiện các tổ chức Phật sự, các Hội Phật học, các tùng thư và
tạp chí, các chương trình nghiên cứu, đào tạo và truyền thừa môn phái
đã tạo nên phong trào chấn hưng Phật giáo sôi nổi. Qua suốt thế kỷ,
các cơ sở hành đạo đã thống nhất mục tiêu xây dựng một nền Phật giáo
dân tộc, trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh xã hội, đặc biệt với
phong trào của tầng lớp tăng sĩ và Phật tử miền Trung và miền Nam đoàn
kết chống chế độ Ngô Đình Diệm, hướng tới giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Tính từ sau 1975, nhất là từ Đại hội đại biểu thống
nhất Phật giáo (tháng 11-1981) với việc thành lập "Giáo hội Phật giáo
Việt Nam" đã tạo điều kiện thuận lợi cho Phật giáo đồng hành cùng dân
tộc, hoằng dương Phật pháp, đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp tăng
ni, Phật tử. Kể từ đó đến nay, hệ thống chùa chiền trong cả nước được
coi trọng ở tầm mức di tích lịch sử - văn hoá - danh lam thắng cảnh đã
được qui hoạch, tôn tạo, xây dựng và phát triển. Điều đó cho thấy ý
nghĩa văn hoá của hoạt động Phật giáo đã ngày càng được xã hội thừa
nhận và tác động tích cực trở lại đời sống xã hội.
Một điều quan
trọng khác nữa giữ vai trò quyết định sức sống và qui định chiều hướng
vận động của Phật giáo chính là khả năng nâng cao nhận thức và qui tụ
lương tri tâm linh con người hướng về những giá trị nhân bản của tinh
thần Phật giáo. Rõ ràng Phật giáo không thể làm thay các công việc
thuộc về thể chế xã hội, sự quản lý hành chính, pháp luật, giáo dục...
nhưng hoàn toàn có thể tham gia điều chỉnh khả năng nhận thức, khuyến
khích điều thiện và ngăn chặn cái ác, lòng tham. Tinh thần Phật giáo
đã từng nhuần thấm trong lời nhạc Trịnh Công Sơn, từng hiện diện man
mác trong tranh Bửu Chỉ, từng được nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thức nhận:
"Bắt đầu từ truyện ngắn Sang sông trở đi, văn của tôi có gì đấy có
ảnh hưởng Phật giáo, nó ngấm ngầm trong từng trang văn, nhiều
truyện rất khó viết như Ông Móng bà Móng, Sống dễ lắm, Thổ cẩm"
(http://Vietnamnet.vn/ ngày 18-4-2006)... Đồng thời với hình thức
đi lễ chùa, hội chùa, hành hương thăm xứ Phật, lễ báo hiếu, lễ xá tội,
thắp hương tuần rằm mùng một mang ý nghĩa tâm linh đã được kết hợp,
chuyển hoá bằng hoạt động từ thiện, cúng dường, phát tâm cứu giúp
người nghèo, kể cả những vấn đề an sinh xã hội (bảo vệ môi trường, kế
hoạch hoá gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội)... Điều quan trọng hơn,
những khả năng thắp sáng hiện hữu tinh thần Phật ở mỗi cá nhân không
đợi đến khi gặp vận hạn, khi tuổi đã sang chiều, vãn chiều, xế bóng,
gần cận lúc 6 giờ tối mà cần được thức nhận ngay từ sớm bình minh, từ
lúc đang còn sức mạnh, lúc đang ở đỉnh cao quyền lực, tột đỉnh vinh
quang. Con người cần thấu hiểu được bản chất những giới hạn và sự hữu
hạn của đời người mới có thể giải thoát khỏi những tham dục vật chất,
ác tâm, vị kỷ và tránh được lối mòn của những Khánh trắng, Năm Cam,
Bùi Tiến Dũng... Không còn con đường nào khác, chỉ khi con người thức
nhận được những hiểm hoạ của tư dục, cái ác và hướng về điều thiện thì
khi đó mới tìm ra nguồn sáng chân lý giải thoát cho mỗi cá nhân cũng
như mọi kiếp chúng sinh. Một sự thực hành tôn giáo đại chúng đạt tới
chất lượng đời sống tâm linh như thế chính là những giá trị văn hoá
đích thực, góp phần tạo dựng nền văn hoá Phật giáo Việt Nam dân tộc và
hiện đại.
5. Thay lời kết
luận
Đồng hành cùng
lịch sử dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã xác lập nên truyền thống văn
hoá thực sự giàu bản sắc. Đến ngày nay, diện mạo và tầm vóc văn hoá
của Phật học và Phật giáo Việt Nam đã được khẳng định và có vị trí
vững chắc trong nền văn hoá dân tộc - hiện đại. Một thời đại mới đang
mở ra cùng với những thách thức của hội nhập và phát triển, lợi ích cá
nhân và cộng đồng, phẩm chất vị tha và cạnh tranh thị trường đòi hỏi
sự năng động của tinh thần Phật giáo, yêu cầu phát huy và dung hợp
những giá trị nhân bản bền vững của văn hoá Phật giáo Việt Nam trong
nền văn hoá dân tộc - hiện đại. Một song đề được đặt ra: Có thể khẳng
định vị trí vững chắc của Phật giáo Việt Nam trong nền văn hoá dân tộc
song liệu đã có thể hình dung về một nền văn hoá dân tộc - hiện đại
dựa trên căn bản tinh thần Phật giáo Việt Nam?...
Hà Nội, tháng
6-2006
________
(1) Nhiều tác giả: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần. NXB Khoa
học xã hội, H, 1981, 694 trang.
(2)
Tham khảo Nguyễn Hữu Sơn: Mục 2.2- Các thiền sư nhập thế, trong sách
Loại hình tác phẩm "Thiền uyển tập anh". Tái bản. NXB Khoa học xã
hội., H, 2003, tr.65-79.
(3)
Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I. In lần thứ tư. NXB Văn
học, H, 1994, tr.482, 492.
(4) Trần Quốc
Vượng: Xứ Bắc - Huyền Quang - Thinh vãn Trần, trong sách Huyền Quang -
Cuộc đời, Thơ và Đạo. NXB TP Hồ Chí Minh, 2001, tr.18-19.
(5) Xin xem
Nguyễn Hữu Sơn: - Về cảm quan Phật giáo trong thơ văn Nguyễn Trãi.
Nghiên cứu Phật học, số 11-1993. Tuyển in trong Văn học trung
đại Việt Nam - Quan niệm con người và tiến trình phát triển. NXB Khoa
học xã hội, H, 2005, tr.155-168.
-
Nguyễn Gia Thiều và cảm quan Phật giáo trong sáng tác của ông. Nghiên
cứu Phật học, số 2-1995. Tuyển in trong Văn học trung đại Việt Nam...
Sđd, tr.244-254.
- Thơ chữ Hán Nguyễn Du, từ cõi hư vô nhìn lại kiếp người. Thơ - Phụ
bản Văn nghệ, số ra
ngày 26-12-2005, tr.7...
(6) Ngôi chùa
- Một vùng tâm thức, một vùng thi ca (Nguyên Hiệp Nguyễn Khắc Mai biên
soạn). NXB Tôn giáo, H, 2001, 504 trang.
(7)
Lý Bình Hoa: Triển vọng phát triển của tôn giáo thế giới (Trần Nghĩa
Phương dịch). Nghiên cứu Tôn giáo, số 6-2005, tr.3-14.
(8)
Xin xem: - O. O. Rozenberg: Phật giáo - những vấn đề triết học (Nguyễn
Hùng Hậu - Ngô Văn Doanh dịch). Trung tâm Tư liệu Phật học xuất bản,
H, 1990, 238 trang.
- Uông Trí Biểu:
Nhìn Phật giáo qua khoa học (Thích Tuệ Đăng dịch). Thành hội Phật giáo
TP Hồ Chí Minh ấn hành, 1991, 112 trang.
-
Tenzin Gyatso: Sự hợp tác giữa khoa học và tôn giáo (Trần Tụê Nhẫn
dịch). Văn hoá Phật giáo, số 15, ra ngày
15-4-2006,
tr.40-41...
(9)
Trịnh Xuân Thuận: Đi tìm một đấng tối cao (Tâm Hà Lê Công Đa dịch).
Văn hoá Phật giáo, số 15, ra ngày
15-4-2006,
tr.36-39...
Địa chỉ:
Nguyễn Hữu Sơn
Viện Văn học
20 Lý Thái Tổ -
Hà Nội
Tel
CQ: (04) 8252895; NR: (04) 8356690
Dđ: 0913031635
- Email: lavson59@yahoo.com
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/