-
- Tam Đan
-
-
ABSTRACT
Oriental
philosophies, especially Buddhism, believe that the nature of all
phenomena is dynamic. The dynamic of nature is not caused by external
forces as some ancient Greek philosophers claimed, but rather by
internal forces that belong to the nature of the phenomena. Science
nowadays proves that nature is incessantly energetic, self-organising,
inventive and reproductive. And life naturally came into existence as
a consequence.
With
constant interaction between living beings and a changing environment,
the perceptions of the living beings also change. Moreover, different
living beings have different perceptions of the same material world.
Therefore, each being sees the material world differently.
According to Santiago Theory, by Maturana and Verela, mind is the
process of life itself. Therefore, body and mind are inseparable,
existing together and disappearing together. This shows that it is
impossible to have the so-called “soul” that exists independently of
the body, as Descartes claimed. If the Santiago theory is true,
notions such as reincarnation and stream of consciousness could have
different and more concrete meanings.
With this
understanding, Buddhism needs to find a more realistic and effective
approach for the modern world. Instead of emphasising on metaphysical
worlds, Buddhism should first try to build a peaceful and tranquil
environment right on our planet.
VÀI SUY NGHĨ VỀ
PHẬT GIÁO NGÀY NAY
Tâm Đàn
[i]
Sơ lược nội dung:
Triết
học Đông phương nói chung và triết học Phật Giáo nói riêng quan niệm
rằng biến động là đặc trưng của sự vật, và lực gây nên sự biến động đó
không phải là ngoại lực như triết học cổ điển Hy Lạp quan niệm, trái
lại, là nội lực thuộc vào bản chất của sự vật. Khoa học ngày
nay đã chứng minh rằng vạn vật luôn luôn năng động. Hơn thế nữa, vạn
vật có tính tự tổ chức, sáng tạo và tự sinh sản. Sự sống nhờ đó mà
hình thành.
Trong
quá trình sự sống, sinh vật luôn luôn có tác động hổ tương với môi
trường chung quanh, nhận thức được sự thay đổi của môi trường sống.
Những nhận thức đó biến đổi theo sự biến đổi của môi trường sống. Do
nhận thức khác nhau, mỗi sinh vật có một thế giới quan khác nhau. Theo
lý thuyết Santiago của hai nhà sinh vật học Maturana và Varela,
tâm thức chính là quá trình của sự sống. Vì vậy tâm và thân luôn luôn
gắn bó với nhau, cùng nhau tồn tại và cùng nhau tan biến. Điều này
chứng tỏ không thể tồn tại cái gọi là “linh hồn” độc lập với thể xác
như Descartes đã chủ xướng.
Nếu lý thuyết Santiago là đúng, những khái niệm về luân hồi và dòng
tâm thức chẳng hạn, phải được hiểu theo một ý nghĩa khác hơn và cụ thể
hơn. Và từ đó có thể củng cố một hướng đi cụ thể cho Phật Giáo: Thay
vì đặt nặng vào một Tây Phương Phật siêu hình, chỉ cần tạo được an lạc
cho sự sống hiện tại, chính địa cầu của chúng ta có thể trở thành một
Tây Phương Phật hiện thực.
1. Những
nét cơ bản của các nền triết học Đông và Tây
Nền cổ triết học Hy Lạp thế kỷ thứ sáu trước công nguyên bao gồm hai
trường phái chính: Trường phái Milesian và trường phái Eleatic. Những
nhà triết học thuộc trường phái Milesian quan niệm rằng vạn vật có sự
sống. Thales cho rằng mọi vật thể đều có linh khí. Anaximander thấy vũ
trụ như là một cơ thể được nuôi dưỡng bởi vũ trụ khí, giống như sự
sống trên địa cầu được nuôi dưỡng bằng không khí vậy. Heraclitus tin
rằng vạn vật trong vũ trụ luôn luôn biến đổi. Ông cho rằng tính năng
động và tuần hoàn của những cặp gồm những siêu lực đối nghịch là
nguyên nhân của sự biến đổi này. Như vậy triết học của trường phái
Milesian gần giống như nền cổ học đông phương.
Trái lại, triết học của Xenophanes thuộc trường phái Eleatic cho rằng
đứng trên tất cả là Thượng Đế (Being) tuyệt đối và vĩnh cửu. Thượng Đế
là chân lý tối hậu duy nhất. Những sự sống có cảm xúc như chúng ta chỉ
là tạm bợ và có thể bị hủy diệt. Ban đầu khái niệm Thượng Đế được xem
như là một thể thống nhất của vũ trụ, nhưng sau đó Thượng Đế được xem
như có nhân tính với đầy đủ những đặc điểm chân thiện mỹ, đứng trên
tất cả và dìu dắt vũ trụ. Parmenides, môn đồ của Xenophanes, cho rằng
vũ trụ không hề biến đổi. Những biến đổi chúng ta quan sát thấy thực
ra chỉ là những ảo ảnh của những giác quan của chúng ta. Với quan niệm
này về Thượng Đế, sự phân chia giữa linh hồn và thể xác bắt đầu hình
thành, và đã trở thành đặc trưng của nền triết học phương tây.
Để dung hòa hai quan niệm đối nghịch giữa một Thượng Đế bất biến của
Parmenides và một vũ trụ luôn luôn biến đổi của Heraclitus, những nhà
triết học Hy Lạp của thế kỷ sau đó (thế kỷ thứ năm trước công nguyên)
cho rằng Thượng Đế biểu hiện trong những thể bất biến nhất định nào đó,
và sự phối hợp cũng như phân chia của những thể bất biến này là nguyên
nhân của những biến đổi trong vũ trụ.
Quan điểm dung hòa trên đã đưa đến khái niệm về atom trong triết học
của Leucippus và Democritus. Atom là đơn vị nhỏ nhất của vật chất
không thể bị hủy diệt. Atom được xem như những đơn vị cơ bản của vật
chất, không có linh khí, di chuyển trong chân không dưới tác động của
những ngoại lực có linh khí. Chủ thuyết atom như vậy đã phân chia một
ranh giới rõ ràng giữa thể xác và linh hồn.
Thế giới linh hồn được xem là trọng yếu của sự sống, và do đó vấn đề
đạo đức được đặt ra. Aristotle tin rằng linh hồn con người và sự chiêm
ngưỡng Thượng Đế quan trọng hơn nhiều so với thế giới vật chất vô tri.
Chủ thuyết này của Aristotle được giáo hội Ky Tô giáo thời trung cổ
hưởng ứng nồng nhiệt. Nhưng chính chủ thuyết này đã trì trệ sự phát
triển của khoa học suốt 2000 năm, vì không có ai quan tâm nghiên cứu
cái thế giới vật chất bị xem là thứ yếu này.
Mãi đến thời phục hưng khi ảnh hưởng của Aristotle và Giáo hội đã phai
mờ, khoa học phương tây bắt đầu quan tâm đến thế giới vật chất. Sự
nghiên cứu và thực nghiệm khoa học đã bắt đầu vào cuối thế kỷ 15. Song
song với nghiên cứu khoa học, người ta bắt đầu quan tâm đến toán học.
Từ đó những lý thuyết khoa học được biểu hiện bằng ngôn ngữ toán học.
Galileo là người đầu tiên đã kết hợp kiến thức thực nghiệm với toán
học, và do đó được xem như là cha đẻ của khoa học hiện đại.
Vào thế kỷ 17, triết gia Descartes đã phát triển lý thuyết nhị nguyên
(linh hồn và vật chất) thêm một bước. Linh hồn và vật chất thuộc vào
hai cảnh giới độc lập. Với sự phân chia đó, các nhà khoa học đã xem
vật chất như những vật chết, hoàn toàn khác hẳn với sự sống. Họ nhìn
vũ trụ như một chiếc máy khổng lồ trong đó mỗi vật thể được xem như
một bộ phận. Newton đã dựa trên quan điểm này để xây dựng lý thuyết cơ
học của ông, làm nền tảng cho ngành vật lý cổ điển. Mô hình vũ trụ như
một chiếc máy cơ khí của Newton đã ngự trị những tư tưởng khoa học
suốt hậu bán thế kỷ 17. Song song với một vũ trụ như thế là một Thượng
Đế bất biến và vĩnh cửu, được xem như một quân vương tối cao, cai trị
vũ trụ bằng những định luật thiêng liêng. Những định luật tự nhiên do
các nhà khoa học nghiên cứu được xem như những định luật của Thượng Đế.
Triết học Descartes không những quan trọng trong việc phát triển ngành
vật lý cổ điển mà con ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức suy nghĩ của
phương tây cho đến ngày nay. “Tôi suy nghĩ, do đó tôi tồn tại.” (I
think, therefore I exist.) Câu nói này của Descartes đã làm người
phương tây xem tri thức là chính yếu và độc lập với thể xác. Thể xác
chỉ là thứ yếu. Tri thức mới chính là bản ngã của con người. Tri thức
điều khiển thể xác. Điều này dẫn đến mâu thuẫn giữa ý chí và bản năng.
Thiên nhiên được xem như riêng rẻ đối với con người nên con người tha
hồ khai thác thiên nhiên, không hề nghĩ đến hậu quả. Vì tự cho mình có
một bản ngã nên sự so sánh không thể tránh khỏi. Điều này dẫn đến
tranh chấp xung đột kỳ thị. Kỳ thị giai cấp. Kỳ thị chủng tộc. Kỳ thị
tôn giáo. Kỳ thị chính trị, văn hóa …
Ngược với những quan điểm trên đây, triết học đông phương quan niệm vũ
trụ là một vũ trụ hữu cơ. Mọi sự vật và biến cố chúng ta cảm nhận được
liên quan mật thiết lẫn nhau. Tất cả những sự vật và biến cố đó thật
ra là những biến hóa khác nhau của cùng một thực tại. Theo quan điểm
đông phương, khuynh hướng xem vạn vật như những vật thể riêng rẻ và
xem mỗi chúng ta như có một bản ngã chỉ là một ảo tưởng của tâm thức.
Theo triết học Phật Giáo, ảo tưởng đó là do sự mê muội của chúng ta,
tượng trưng cho một trạng thái rối loạn của tâm thức. Khi trạng thái
tâm thức trở nên thanh tịnh, ảo tưởng đó sẽ tự nhiên tan biến.
Mặc dù
nhiều trường phái triết học đông phương khác nhau về nhiều chi tiết,
tất cả các trường phái đó, dù là triết học Phật Giáo, Ấn Độ Giáo hay
Lão Giáo, đều nhấn mạnh một trọng điểm rằng vũ trụ là một thể thống
nhất, là hữu cơ, có sinh khí, luôn biến động, trong đó mọi sự vật
tương quan phụ thuộc lẫn nhau. Vì biến động là đặc trưng của sự vật,
lực gây nên sự biến động đó không phải là ngoại lực như triết học cổ
điển Hy Lạp quan niệm, trái lại, là nội lực thuộc vào bản chất
của sự vật. Cái tinh khiết nhất theo triết học đông phương, do đó,
không phải là một thượng đế tối cao cai trị thế giới, trái lại, cái
tinh khiết nhất là nguyên tắc đạo đức, là phương châm xử thế, xuất
phát từ ngay bên trong sự vật.
Chúng ta
hãy phân tích xem phải chăng tồn tại một nội lực thuộc vào bản chất
của sự vật như những triết học đông phương đã khẳng định. Và phải
chăng tồn tại một linh hồn độc lập với thể xác như triết học phương
tây quan niệm.
2. Bản
chất năng động của vạn vật
Vật chất,
dù ở thể rắn, thể lỏng hay thể khí, đều được hình thành do sự kết hợp
của những phân tử. Trong quá khứ, có chủ thuyết cho rằng vật chất, dù
ở thể rắn, thể lỏng hay thể khí, đều có tính liên tục, nghĩa là, một
khối vật chất có thể phân chia thành những phần vô cùng bé theo ý muốn,
và mỗi phần bé nhỏ đó vẫn không thay đổi bản chất. Ngày nay, thực
nghiệm cho thấy vật chất hình thành là do sự kết hợp của những phân tử.
Hãy hình dung một muỗng nước. Chia thành hai, rồi thành bốn, rồi thành
tám, v.v., chúng ta vẫn nhận được nước. Tuy nhiên sự phân chia không
thể kéo dài vô hạn. Sẽ đến một lúc, sự phân chia sẽ cho chúng ta những
phần nhỏ, tất nhiên rất nhỏ, không còn là nước nữa. Đơn vị phân chia
nhỏ nhất vẫn còn mang tính chất nước được gọi là một phân tử nước.
Phân chia một phân tử nước sẽ không còn là nước nữa. Ngày nay chúng ta
biết một phân tử nước là một kết hợp giữa hai nguyên tử hydrogen (H)
và một nguyên tử oxygen (O). Do đó công thức của một phân tử nước là
H2O. Tính chất của một phân tử nước hoàn toàn khác với tính chất của
một nguyên tử hydrogen hay oxygen. Tương tự, một phân tử dưỡng khí,
O2, gồm hai nguyên tử oxygen, và tính chất của dưỡng khí – rất cần cho
sự hô hấp – hoàn toàn khác với tính chất của nguyên tử oxygen. Ozone,
O3, cũng thế, có tính chất hoàn toàn khác với các nguyên tử oxygen.
Chúng ta có thể hình dung kích thước cực kỳ bé nhỏ của những nguyên tử
và phân tử. Một muỗng nước gồm khoảng hai trăm ngàn tỷ tỷ phân tử nước.
Nếu tất cả mọi người trên địa cầu cùng nhau đếm số phân tử trong một
muỗng nước, giả sử với tốc độ đếm mỗi phân tử một giây đồng hồ, sẽ mất
một thời gian khoảng hơn một triệu năm!
Sự sống
của chúng ta nhờ vào bầu khí quyển trong đó khoảng hơn 20% là dưỡng
khí. Chúng ta cần những loại khí khác nhau vào những công việc khác
nhau như hàn thép, ánh sáng neon, thuốc tê mê cho việc giải phẫu, nấu
nướng, bơm bánh xe, và kể cả việc dùng để giết người. Những cây cối
chết chôn vùi dưới lòng đất dần dần sẽ bị phân hóa bởi áp suất và
nhiệt, biến thành than đá và khí đốt thiên nhiên, rất cần thiết cho sự
sống của chúng ta. Ngày nay nền kỹ nghệ phát triển đã sản xuất nhiều
loại khí độc hại, ô nhiễm môi trường sống và có thể làm cho nhiệt độ
địa cầu tăng lên, đe dọa sự sống. Có những loại khí, ví dụ khí helium,
hầu như không có tác dụng với những vật chất khác, nhưng cũng có loại
khí, ví dụ khí chlorine, có tác dụng nhạy bén. Khí chlorine, có màu
rêu nhạt, có thể dùng để giết người, chết một cách đau đớn.
Tuy mỗi
loại khí khác nhau có những tính chất khác nhau, nhưng đặc tính chung
cho mọi loại khí là sự chuyển động không ngừng của các phân tử khí.
Tùy theo khối lượng và nhiệt độ, các phân tử khí có những tốc độ khác
nhau. Nặng hơn thì tốc độ chậm hơn. Nhiệt độ cao hơn thì tốc độ nhanh
hơn. Hãy hình dung một loại khí nào đó đựng trong một bình đậy kín, để
bình đứng yên trong một căn phòng ở nhiệt độ bình thường (khoảng
25oC). Những phân tử khí sẽ có những chuyển động ngẫu nhiên, liên tục
va chạm lẫn nhau và đổi hướng chuyển động. Người ta có thể tính toán
hoặc đo những vận tốc trung bình của những phân tử của mỗi loại khí ở
một nhiệt độ nào đó. Sau đây là vài vận tốc trung bình của những phân
tử của vài loại khí đựng trong một chiếc bình để trong một căn phòng ở
nhiệt độ bình thường:
Khí
hydrogen 3800 dặm/giờ
Khí
helium 2800 dặm/giờ
Khí
oxygen 1030 dặm/giờ
Khí
carbon dioxide 830 dặm/giờ.
Các loại
khí trên đây được sắp theo thứ tự khối lượng các phân tử tăng dần. Do
đó vận tốc trung bình của chúng giảm dần. Ở một nhiệt độ cao hơn nhiệt
độ bình thường trong phòng, vận tốc trung bình của các loại khí sẽ cao
hơn. Vận tốc trung bình của những phân tử khí oxygen chẳng hạn sẽ tăng
lên khoảng 7% khi nhiệt độ tăng từ 0oC đến 40oC.
Chúng ta
có thể ngửi được mùi các loại rượu nhờ sự bốc hơi. Bốc hơi là hiện
tượng trong đó những phân tử trên bề mặt của một chất lỏng rời khỏi
chất lỏng và bay vào không khí. Ở nhiệt độ bình thường trong phòng,
vận tốc trung bình của những phân tử rượu khoảng 800 dặm/giờ. Tuy
nhiên nếu chúng ta để một ly rượu trong phòng, cách chúng ta chỉ
khoảng một thước, chúng ta cũng khó có thể ngửi thấy mùi rượu. Tại sao?
Hơi rượu khi bay vào không khí thì liên tục va chạm với những phân tử
của không khí, khoảng 6 tỷ lần trong mỗi giây đồng hồ, và do đó liên
tục đổi hướng chuyển động. Một phân tử rượu trong không khí yên tĩnh
phải di chuyển một đoạn đường khoảng 30 triệu dặm trước khi có thể đến
lỗ mũi chúng ta. Như vậy mặc dù những phân tử rượu có vận tốc trung
bình 800 dặm/giờ, xác suất để hơi rượu bay đến chúng ta vẫn rất thấp,
trừ phi có một cơn gió thổi hơi rượu thẳng đến chúng ta. Đối với những
chất lỏng cũng tương tự: Nếu cho một giọt mực vào một thau nước, mực
sẽ lan ra một cách chậm chạp trừ phi chúng ta khuấy thau nước. Những
phân tử mực phải va chạm vô số lần với những phân tử nước, và do đó
liên tục đổi hướng chuyển động.
Nếu
chúng ta thả những hạt phấn hoa tí hon vào một thau nước, chúng ta sẽ
quan sát thấy chúng chuyển động không ngừng theo những hướng khác nhau.
Robert Brown là người đầu tiên nghiên cứu hiện tượng này một cách
nghiêm túc nên loại chuyển động này được gọi là chuyển động Brown
(Brownian motion). Ban đầu ông cho rằng chỉ những tế bào đực mới có
loại chuyển động như thế (bởi vì đực thường nghịch ngợm hơn cái).
Nhưng sau đó khi ông dùng những phấn hoa của những cây đã chết lâu năm,
ông vẫn quan sát cùng một hiện tượng. Như vậy, không riêng gì những
phấn hoa, bất cứ loại bụi nào cũng có chuyển động Brown. Tuy nhiên ông
không có lời giải thích thỏa đáng về chuyển động Brown cho đến 50 năm
sau. Ngày nay chúng ta biết chuyển động của những hạt phấn hoa là do
sự va chạm ngẫu nhiên với những phân tử nước luôn luôn di động. Các
phân tử nước, hay của bất cứ một chất lỏng nào, luôn luôn chuyển động
không ngừng. Hoạt động của các tế bào sẽ bị ngưng trệ nếu những phân
tử của các chất lỏng trong cơ thể ngưng chuyển động. Sự sống sẽ không
tồn tại nếu không có loại chuyển động bất diệt này của những phân tử
trong các chất lỏng.
Chuyển động từ nơi này đến nơi khác (gọi là chuyển động tịnh tiến) của
những phân tử trong các chất khí hoặn chất lỏng luôn xảy ra. Ở thể khí,
các phân tử tự do di chuyển. Một mẩu khí đựng trong bình sẽ tức khắc
lan tràn khắp bình. Ở thể lỏng, khoảng cách giữa các phân tử rất nhỏ.
Tuy nhiên chúng vẫn có thể di chuyển, na ná giống người ta di chuyển
trong một đám động chật ních người. Trong chất rắn, các phân tử cũng
có thể có chuyển động tịnh tiến trong một vài trường hợp. Những nguyên
tử và phân tử trong một chất rắn thường chiếm những vị trí nhất định.
Tuy nhiên chúng không bất động! Chúng luôn luôn tháy máy như những ca
sỹ đang hòa ca một bản nhạc. Chúng nhích qua nhích về, nhích lên nhích
xuống quanh vị trí thường trực của chúng. Nói khác đi, chúng luôn luôn
có chuyển động rung hay dao động (vibrational motion). Chúng ta khó có
thể quan sát thấy chuyển động rung bởi vì độ dao động thì rất bé. Tất
nhiên các phân tử của nhiều chất ở thể khí hoặc thể lỏng cũng có
chuyển động rung. Ngoài chuyển động tịnh tiến và rung, các phân tử còn
có thể có chuyển động quay (rotational motion).
Chuyển
động của những vật thể chúng ta có thể quan sát được, theo trực giác
thông thường của chúng ta, cuối cùng sẽ dừng lại. Nếu không, chúng ta
có thể làm cho những chuyển động đó ngừng lại. Mỗi chúng ta cuối cùng
cũng phải yên nghỉ. Nuớc sông Hương vẫn trôi hiền hòa. Múc một thau
nước sông Hương để yên trên mặt đất, nước trong thau sẽ ngừng trôi.
Nhưng nắm xương khô còn lại của chúng ta có thật sự yên nghỉ không?
Nước sông Hương đựng trong thau có thật sự đứng yên không? Hẳn là
không. Những phân tử trong nắm xương khô vẫn không ngừng dao động.
Những phân tử nước trong thau vẫn chuyển động không ngừng. Khi chúng
ta làm đông lạnh thau nước, chuyển động tịnh tiến và chuyển động quay
của những phân tử nước có thể ngừng lại, nhưng những phân tử nước đông
lạnh đó vẫn có những dao động phức tạp. Biên độ dao động có thể trở
nên nhỏ hơn khi nhiệt độ giảm xuống. Nhưng biên độ dao động không bao
giờ triệt tiêu, cho dù nhiệt độ hạ xuống mức thấp nhất, tức zero độ
Kelvin, hoặc 273.15 độ âm Celsius, còn được gọi là zero tuyệt đối
(absolute zero). Như vậy không có cách gì có thể làm ngưng chuyển động
rung của các phân tử và các nguyên tử. Có chuyển động tức có năng
lượng. Và năng lượng này của mỗi nguyên tử hoặc phân tử ở nhiệt độ
zero tuyệt đối được gọi là năng lượng zero tuyệt đối (zero point
energy).
Vì luôn
luôn có năng lượng, vật chất luôn luôn năng động. Và tính năng động
này của vạn vật là vĩnh cửu, là bản chất của vạn vật. Cho dù Thượng Đế
là đấng sáng tạo muôn loài, ít ai tin rằng Ngài có thể hũy diệt tính
năng động của vạn vật. Và có lẽ tính năng động này là cái mà triết học
đông phương gọi là nội lực.
Khi
chúng ta ép một chất khí trong bình, thể tích khí thu nhỏ lại, khoảng
cách giữa các phân tử khí ngắn lại. Sự va chạm giữa những phân tử khí
và va chạm với thành bình bây giờ trở nên mạnh hơn. Vận tốc trung bình
của những phân tử khí trở nên lớn hơn. Năng lượng dồi dào hơn, và
nhiệt độ khí tăng lên. Áp suất khí tác động lên thành bình cao hơn. Ở
một nhiệt độ nhất định, áp suất khí tỉ lệ nghịch với thể tích khí
trong bình (Định luật Boyle). Khí biết chan hòa với môi trường chung
quanh, biết phản ứng một cách thích hợp với môi trường chung quanh.
Khí có thể là một cơn gió nhẹ thoáng qua, cũng có thể là một cơn bão
tố tàn phá khủng khiếp.
3. Tính
tự tổ chức, tính sáng tạo và tính tự sinh sản của vạn vật
Tính
năng động của các nguyên tử và phân tử đóng vai trò then chốt trong
những phản ứng hóa học. Khi những phân tử và nguyên tử chuyển động va
chạm nhau với những tốc độ thích hợp, nghĩa là ở những nhiệt độ thích
hợp, chúng có thể kết hợp với nhau tạo thành những phân tử lớn hơn và
phức tạp hơn. Chẳng hạn, một phân tử hydrogen (H2) có thể tác dụng với
một nguyên tử oxygen (O) để tạo thành một phân tử nước (H2O). Thông
thường, ở nhiệt độ cao hơn, những phản ứng hóa học dễ xảy ra hơn. Ví
dụ, ở nhiệt độ bình thường, hỗn hợp khí oxygen và hydrogen không tác
dụng lẫn nhau. Tuy nhiên nếu chúng ta châm một que diêm vào hỗn hợp đó,
ta sẽ nghe tiếng nổ (phản ứng hóa học xảy ra) và những phân tử nước sẽ
hình thành. Một ví dụ khác: Những thức ăn hằng ngày chúng ta thường
chứa trong tủ lạnh để tránh những phản ứng hóa học có thể xảy ra làm
hư thối.
Những
phản ứng hóa học thường xuyên xảy ra trong những tế bào. Sự sống chỉ
có thể duy trì nếu những phản ứng hóa học này xảy ra không chậm quá,
cũng không nhanh quá. Có nhiều loại phản ứng trong tế bào, khi cho tác
dụng ở ngoài tế bào sẽ xảy ra rất chậm chạp. Lý do không phải vì ở
trong tế bào có “linh khí” hoặc có phép lạ làm cho tốc độ phản ứng
nhanh hơn. Phản ứng xảy ra nhanh hơn ở trong tế bào vì tế bào có chứa
những chất xúc tác gọi là enzymes, có nhiệm vụ tăng tốc độ của một số
phản ứng hóa học. Mỗi tế bào chứa đựng khoảng 1000 enzymes.
Chuyển
động của những phân tử và nguyên tử còn có thể tạo ra một loại phản
ứng khác nữa: Phản ứng hạt nhân, xảy ra ở nhiệt độ rất cao. Mặt trời
chúng ta có nhiệt độ khoảng 15 triệu độ Celsius ở trung tâm, và giảm
dần xuống khoảng 6 ngàn độ Celsius ở bề mặt. Chúng ta biết những dương
điện tử thì có sức đẩy lẫn nhau. Càng gần nhau sức đẩy càng mạnh hơn.
Chỉ khi nào vận tốc trung bình của hai dương điện tử đủ lớn mới có thể
chiến thắng được sức đẩy đó, và có thể kết hợp với nhau. Nhờ nhiệt độ
cao ở bên trong mặt trời đã tạo cho những dương điện tử có được vận
tốc trung bình đủ lớn đó, khoảng hơn nửa triệu cây số giờ, gấp một
ngàn lần vận tốc trung bình của một phân tử dưỡng khí ở nhiệt độ phòng
thí nghiệm trên địa cầu. Và do đó hai dương điện tử bên trong mặt trời
đã có thể tổng hợp thành một hạt nhân deuterium cọng với hai hạt tiềm
nguyên tử neutrino và positron. Đây chính là bước đầu trong quá trình
sản xuất năng lượng mặt trời.
Chúng ta
thừa biết nếu không có năng lượng mặt trời, không thể có sự sống trên
địa cầu. Hẳn chúng ta phải chúc thọ mặt trời hầu cứu vãn sự sống trần
gian. Trung bình, một dương điện tử bên trong mặt trời tiếp tục di
chuyển va chạm khoảng một tỷ năm trước khi tổng hợp với một dương điện
tử khác. Do đó mặt trời cháy khá chậm chạp, vừa làm cho mình có thể
sống lâu, vừa tỏa năng lượng đủ ấm cho địa cầu. Mặt trời đã được
khoảng bốn tỷ rưởi tuổi, và còn thọ thêm ít ra là năm tỷ năm nữa. Các
bạn biết cùng một khoảng thời gian như nhau, mỗi kilô cơ thể chúng ta
sản xuất một năng lượng gấp mười ngàn lần năng lượng sản xuất bởi một
kilô vật chất trên mặt trời. Chỉ vì khối lượng mặt trời quá khổng lồ,
khoảng gấp mười triệu triệu triệu lần khối lượng của dân số trên địa
cầu, nên cứ mỗi khoảng thời gian như nhau, mặt trời sản xuất một năng
lượng gấp khoảng một ngàn tỷ lần năng lượng do toàn bộ dân số trên địa
cầu sàn xuất.
Khoảng
một tỷ năm sau khi địa cầu hình thành, carbon – hóa chất thiết yếu
nhất của sự sống – phối hợp với những hóa chất cần thiết khác của sự
sống là hydrogen, oxygen, nitrogen, sulfur và phosphorus để tạo thành
những phân tử hóa học phức tạp khác nhau. Với điều kiện thuận lợi của
địa cầu thời bấy giờ, một số những phân tử nói trên đã trở thành những
chất xúc tác làm gia tăng tốc độ của những phản ứng hóa học. Dần dần,
những phản ứng hóa học khác nhau này móc nối chặt chẽ với nhau, tạo
thành những mạng lưới gồm những chu trình kín có khả năng tự tổ chức
và tự sinh sản. Sau đó những chu trình kín này biến hóa thành những
cấu trúc mới, có thể trao đổi năng lượng với môi trường chung quanh.
Nhờ sự trao đổi năng lượng này, những cấu trúc nói trên có thể vượt
qua những quá trình xáo trộn để trở thành những hệ thống tinh vi phức
tạp và đa dạng hơn. Bây giờ mỗi hệ thống bắt đầu hình thành một màn
ngăn, tạo sự tự lập cho chính mình, tuy vẫn tiếp tục trao đổi năng
lượng với môi trường chung quanh. Nhà sinh vật học Margulis cho rằng
những hệ thống này có thể đã biến hóa thăng trầm nhiều lần trước khi
những phân tử di truyền DNA hình thành. Những tế bào vi trùng đầu tiên
đã hình thành khoảng ba tỷ rưởi năm trước đây, bắt đầu sự sống trên
địa cầu.
4. Tâm
thức, quá trình của sự sống và vấn đề tâm-thân
Trong
quá trình sự sống, sinh vật luôn luôn có tác động hổ tương với môi
trường chung quanh. Do tính tự lập của mình, sinh vật có thể nhận thức
được sự thay đổi đó của môi trường sống. Xáo trộn của môi trường sống
có thể tạo điều kiện làm thay đổi cấu trúc của sinh vật. Tuy nhiên vì
mỗi sinh vật đều mang tính tự lập, sự thay đổi cấu trúc không phải do
môi trường chung quanh, trái lại do chính sinh vật ấn định và điều
khiển chi phối. Và sự thay đổi cấu trúc dẫn theo sự thay đổi nhận thức
của sinh vật đối với môi trường chung quanh. Vì sự thay đổi cấu trúc
của mỗi sinh vật không nhất thiết giống nhau, mỗi sinh vật nhìn thế
giới bên ngoài mỗi khác. Hai sinh vật khác nhau có thể nhìn môi trường
chung quanh bằng hai thế giới khác nhau.
Với
những quan sát và phân tích trên đây, hai nhà sinh vật học Maturana và
Varela đã phát triển một lý thuyết gọi là lý thuyết Santiago,
cho rằng tri thức chính là quá trình của sự sống. Tri thức không phải
là một vật thể mà là một quá trình. Và chính vì tri thức đồng nghĩa
với quá trình của sự sống, tri thức bao gồm nhận thức, cảm xúc và hành
vi. Hơn thế nữa, những sinh vật không có não bộ và thần kinh hệ vẫn có
thể có tri thức. Ngay cả những loài vi trùng cũng có thể nhận thức
được một số đặc tính của môi trường chung quanh. Chúng có thể cảm giác
được sự khác nhau của những hóa chất, và nhờ vậy, chúng di chuyển đến
những chất đường và tránh xa những chất acid. Chúng có thể phân biệt
được nóng lạnh. Cũng có những loại vi trùng có thể cảm giác được những
từ trường chung quanh chúng. Cùng một môi trường sống như nhau, các
loài vi trùng và chúng ta nhìn thành hai thế giới hoàn khác nhau. Thế
giới của vi trùng là thế giới gồm sự nóng lạnh, những từ trường, những
hóa chất khác nhau. Có lẽ chỉ đơn giản thế. Nhưng thế giới của chúng
ta thì đa dạng, muôn mầu muôn vẻ.
Mỗi sinh
vật là một phần tử của những thế giới của những sinh vật khác. Nhờ vậy
các sinh vật có thể thông tin lẫn nhau và do đó có thể có những hành
vi phối hợp. Mức độ tinh vi của sinh vật càng cao, phạm vi tác động
với môi trường chung quanh càng rộng lớn hơn. Khi đạt đến một mức độ
tinh vi nhất định nào đó, sinh vật không những tác động với môi trường
chung quanh mà còn tác động với chính bản thân, và như vậy, sinh vật
không những tạo ra một ngoại cảnh mà còn tạo ra một nội giới nữa. Sáng
tạo một nội giới thì dính líu mật thiết đến ngôn ngữ, tư tưởng và tâm
thức. Đó là trường hợp của loài người chúng ta.
Mỗi sinh
vật sáng tạo ra một ngoại giới cho riêng mình không có nghĩa rằng
không có một thế giới vật chất bên ngoài. Lý thuyết Santiago quan niệm
có một thế giới vật chất nhưng thế giới đó không tồn tại khách quan
độc lập với người quan sát. Khi thế giới vật chất đó xuyên qua ống
kính của một sinh vật là khi sinh vật đó thấy được một thế giới chủ
quan cho riêng mình. Mọi cấu trúc đều là những cấu trúc chủ quan. Mỗi
sinh vật nhìn thấy một thế giới khác nhau. Đối với hai sinh vật cùng
loài, vì có những cấu trúc gần như nhau, nên hai thế giới chủ quan của
hai sinh vật đó rất tương tựa nhau. Đặc biệt đối với loài người, thông
qua tư tưởng và ngôn ngữ, chúng ta có thể tạo ra một thế giới trừu
tượng chung cho chúng ta. Mỗi sự vật chúng ta quan sát được không phải
là một thực tại, bởi vì vốn không có một thực tại khẳng định tuyệt đối
nào hết. Chúng ta chỉ có thể dùng tư tưởng và ngôn ngữ để gắn nhãn
hiệu cho những gì chúng ta quan sát được mà thôi.
Theo lý
thuyết Santiago, quan niệm về linh hồn hoàn toàn không có điểm tựa.
Vật chất vốn có tính tự tổ chức và sáng tạo. Sự sống hình thành bằng
quá trình tự tổ chức và sáng tạo đó. Và tri thức, hay tâm thức, tức
quá trình nhận thức hiểu biết, chính là quá trình của sự sống. Tri
thức gắn liền, quấn quít với thể xác, cùng sinh tử với hình hài thể
xác. Tuy hai mà một. Tâm thức không phải là một sự vật cũng không phải
linh hồn, mà là quá trình nhận thức hiểu biết, là quá trình của sự
sống. Không thể có chỗ đứng cho cái gọi là linh hồn độc lập với thể
xác và tồn tại vĩnh viễn.
Thật ra
kể từ khi khoa học kỹ thuật phát triển, khái niệm về sự tồn tại một
linh hồn độc lập với thể xác đã làm khó khăn không ít trong việc
nghiên cứu khoa học. Sự phân chia đã làm cho việc tìm hiểu quan hệ
giữa tri thức và não bộ trở nên mơ hồ và bế tắc. Sự tồn tại của linh
hồn độc lập với thế giới vật chất dẫn đến khái niệm cho rằng con người
có thể quan sát và mô tả sự vật một cách khách quan. Điều này đã hoàn
toàn tương phản với lý thuyết cơ học nguyên lượng, là một lý thuyết đã
và đang đứng vững trước tất cả những thử thách kiểm chứng thực nghiệm
và đã áp dụng vào các ngành kỹ thuật thành công rực rỡ.
Sự phân
chia giữa thể xác và linh hồn cũng đã dẫn đến một sai sót khác: Xem
thế giới vật chất là thứ yếu, chỉ giống như một bộ máy cơ khí. Do đó
phương pháp phân tích được xem như tối hậu trong việc nghiên cứu thế
giới vật chất. Điều này đã làm khó khăn trong việc nghiên cứu về sự
sống. Đối với các bệnh tâm lý và tâm thần chẳng hạn: Phương pháp phân
tích chỉ chú trọng đến việc chữa trị não bộ hay một vài cơ quan liên
hệ khác. Đây là một thiếu sót bởi vì, tâm lý và tâm thần là một hệ quả
không những chỉ đơn thuần sinh lý mà còn tùy thuộc vào tâm tư tình cảm,
đời sống tâm linh, những ảnh hưởng của gia đình, xã hội và môi trường
sống của cả một quá trình sinh trưởng. Phương pháp phân tích cũng
dường như đang bó tay trước những cơn bệnh hiểm nghèo của thời đại như
bệnh AIDS và bệnh ung thư.
Chúng ta
không ngạc nhiên rằng các nhà khoa học không cần phải đề cập đến những
khái niệm về linh hồn và thượng đế trong việc nghiên cứu của họ.
5. Vấn
đề nhân quả, luân hồi và dòng tâm thức
Người ta
thường bảo gieo gió gặt bão, hoặc ở hiền gặp lành. Nhưng phải chăng đã
gieo gió thì 100% sẽ gặt bão? Phải chăng ở hiền thì 100% sẽ gặp lành?
Phải chăng nhân quả là chắc nịch như thế, nhân nào phải quả ấy? Thật
ra đây là thuyết khẳng định, đã có một thời vang bóng. Vốn xuất phát
từ lý thuyết chuyển động của Newton: Nếu biết vị trí và vận tốc ban
đầu của một vật thể, và nếu biết lực tác động lên vật thể vào mọi thời
điểm thì chuyển động của vật thể hoàn toàn được xác định. Khi nhân đã
biết thì quả báo hoàn toàn được xác định. Và lý thuyết này sau đó đã
được triết học hóa thành thuyết khẳng định, không những áp dụng vào sự
vật mà còn áp dụng luôn vào sự sống!
Người ta
hay nói cờ bạc là bác thằng bần. Và nhiều người đều cho rằng cờ bạc
thì tất yếu phải bần cùng. Qủa thật đa số người nghiện cờ bạc đều tan
cửa nát nhà. Nhưng không phải tất cả! Lý thuyết xác suất khẳng định
rằng vẫn có một may mắn (dù nhỏ bé) để người ghiền cờ bạc trở nên giàu
có.
Khi thả
một con súc sắc, không ai biết chắc mặt số mấy sẽ xuất hiện. Có kẻ
khuất mặt khuất mày điều khiển con súc sắc? Đừng nghĩ vậy. Phật sẽ chê
chúng ta mê tín dị đoan. Hành động “thả con súc sắc” có thể có đến 6
hậu quả khác nhau mà không ai có thể biết chắc chắn hậu quả nào sẽ xẩy
ra.
Kỳ quái
hơn nữa là đối với những hạt tiềm nguyên tử, đôi khi “quả” xuất hiện
mà chẳng thấy “nhân” nào hết! Một hạt âm điện tử trong một nguyên tử
có thể nhảy vọt một cách ma quái từ mức năng lượng này xuống mức năng
lượng kia, chẳng cần một nguyên nhân nào hết.
Ngày nay
thuyết nguyên lượng đã chứng minh sự sai lầm của thuyết khẳng định.
Chỉ cần áp dụng thuyết ấy vào những sự vật cũng đã là một sai lầm,
đừng nói đến áp dụng vào sự sống. Cần nhấn mạnh rằng thuyết nguyên
lượng hiện đang đứng vững qua bao nhiêu thử thách thực nghiệm, và đang
cung cấp cho nhân loại không biết bao nhiêu ứng dụng (hữu ích có, tai
hại có).
Lý
thuyết nhân quả còn đi xa thêm một bước: Nếu quả không xảy ra trong
kiếp này thì chắc chắn sẽ xảy ra trong kiếp sau hay kiếp sau nữa. Điều
này dẫn đến thuyết luân hồi. Phải chăng có luân hồi chuyển thế?
Những
người tin vào thuyết luân hồi thường cho rằng một bào thai chỉ có thể
hình thành, ngoài tinh cha huyết mẹ làm cơ sở vật chất ra, cần có cái
gọi là Thức (chữ Thức thường được viết hoa) sẵn sàng tham dự vào sự
sống tương lai. Như vậy thai nhi chỉ thông qua cha mẹ để đến với thế
gian. Quan hệ giữa cha mẹ và thai nhi chỉ là một quan hệ duyên nghiệp
mà chỉ những vị đắc đạo như Đức Phật mới thấy rõ được.
Tôi vẫn
băn khoăn cái gọi là “Thức” phải sẵn sàng gia nhập mới có thể có thai
nhi. Tôi vẫn nhớ lời nhạo báng của triết học gia Gilbert Ryle, phê
phán thuyết nhị nguyên của Descartes, rằng linh hồn ngự trị trong thân
xác giống như “con ma trong chiếc máy”. Nếu hỏi Descartes – giả sử ông
ta còn sống – “Thức” là gì. Hẳn ông ta trả lời không ngần ngại rằng đó
là linh hồn. Nếu không phải linh hồn thì “Thức” là gì?
Nếu
chúng ta tin có kiếp sau một cách hoàn toàn xác định, ví dụ, kiếp này
ông A quá độc ác nên kiếp sau chính ông A đó phải xuống địa ngục. Như
vậy khi ông A chết đi, tuy thân xác biến thành tro bụi, vẫn còn “cái
gì đó” của ông A để xuống địa ngục chịu tội. Phải chăng “cái gì đó”
chính là cái “Thức” chúng ta đề cập trên đây? Và nếu những người đã
đắc đạo như Đức Phật biết ông A ở địa ngục bây giờ chính là ông A của
kiếp trước, thì “cái gì đó” nơi ông A tuy có thay đổi, tuy kiếp này
làm người ở thế gian kiếp sau bị đày đọa ở địa ngục, nhưng vẫn tồn tại
vĩnh viễn, đặc trưng cho ông A. Như vậy phải chăng “cái gì đó” vĩnh
viễn đặc trưng cho ông A na ná giống cái gọi là “linh hồn” do
Descartes chủ xướng?
Nếu
“Thức” không phải là linh hồn thì chỉ còn cách xem nó như là quá trình
của bản năng linh động biết tự tổ chức và có tính sáng tạo của vạn vật.
Khi tinh của cha và huyết của mẹ hòa hợp, tinh huyết này sẽ trải qua
quá trình nói trên để hình thành thai nhi. Nếu hiểu “Thức” theo cách
này thì “Thức” vốn chưa hình thành trước khi tinh cha và huyết mẹ hòa
hợp với nhau. Thai nhi ngay từ khi còn trong lòng mẹ đã bắt đầu tương
tác với môi trường chung quanh để tồn tại và phát triển. Vì vậy “Thức”
chính là tâm thức được hình thành trong quá trình học tập này. Tất
nhiên quá trình phát triển của thai nhi không chỉ tùy thuộc vào môi
trường sống mà còn tùy thuộc vào tinh huyết của cha mẹ mà có lẽ chính
yếu là những genes của cha mẹ đã hòa hợp trong thai nhi.
Nếu lý
thuyết Santiago đúng thì hình hài và tâm thức cùng nhau tồn tại và
cùng nhau tan biến. Khi một sinh vật đã trở về cát bụi, cái thế giới
do tâm thức của sinh vật đó từng gây dựng cũng tan biến theo. Vậy phải
chăng có luân hồi chuyển thế?
Phật
Thích Ca không dạy chúng ta rằng luân hồi chuyển thế là một thực tại.
Đạo Bà La Môn đang cực thịnh trong xã hội đương thời của Ngài. Niềm
tin vào luân hồi do đó rất phổ biến thời bấy giờ. Và rất nhiều đệ tử
của Ngài vốn xuất thân từ Bà La Môn giáo. Mục đích của Ngài không phải
để dẫn chúng sanh đi vào những thế giới siêu hình. Tây Phương Phật
không phải là một thế giới huyền bí. Ngài muốn biến địa cầu thành một
Tây Phương Phật. Sự sống đầy phiền muộn khổ đau. Ngài muốn chúng sanh
được giải thoát khổ đau. Giải thoát không phải là trốn tránh cũng
không phải hũy diệt. Giải thoát khổ đau là biến khổ đau thành hữu dụng
để giúp người giúp đời, để cứu nhân độ thế, ngay trên vùng trời này,
ngay cho sự sống khổ đau đang sờ sờ trước mắt. Giải thoát được khổ đau
là niết bàn. Niết bàn không phải là một vùng trời xa xôi huyền bí. Tuy
nhiên nếu có luân hồi, nếu có một vùng trời huyền bí gọi là Tây Phương
Phật hay Niết Bàn thì những lời dạy của Ngài vẫn hữu dụng, vẫn có thể
giúp chúng sanh đến những nơi đó sau cõi đời này. Hẳn Ngài đã dẫn giải
bằng những câu nói tương tự như thế khi Ngài đối diện với những đệ tử
vốn có niềm tin sâu nặng vào luân hồi.
Sự sống
luôn luôn có những tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Suốt cả quá trình sự
sống, mỗi chúng ta để lại không biết bao nhiêu vết hằn. Có những vết
hằn thì đầy bầm tím. Có vết hằn thì đầy lòng hy sinh cao cả. Làm thiện,
làm ác, cướp của giết người, v.v., đều là những vết hằn.
Chopin
đã ra đi nhưng bản nhạc Tristesse vẫn còn đó. Schubert đã mất nhưng
Serenade vẫn còn đây. Cụ Tố Như Nguyễn Du không còn nữa nhưng chuyện
Kiều vẫn trên môi. Công trình triết học toán học và khoa học mấy trăm
năm qua của Descartes, Newton, Einstein vẫn còn đó. Hitler đã chết hơn
50 năm qua nhưng tội ác của ông ta vẫn còn đó. Phật đã quy tiên nhưng
những lời dạy của Ngài vẫn sáng ngời. Nói chung, khi suy nghĩ đã qua
đi, tư tưởng còn sót lại. Khi lý luận xong rồi, kiến thức vẫn còn đó.
Sau nhận thức là kinh nghiệm. Sau hành động là hậu quả của hành động
đó. Những tư tưởng đó, những kiến thức đó, những kinh nghiệm đó, những
hành động đó vẫn chờn vờn trong không gian, trong tâm tưởng của mỗi
chúng ta. Chúng có thể ở trong các sách vở, trên các CD, DVD, trên
internet, …
Phải
chăng đó chính là dòng tâm thức, tiếp tục tồn tại cho dù sau khi thân
xác đã rã rời? Dòng tâm thức này không phải như những vật chết, trái
lại rất linh động. Phật Thích Ca của hơn 25 thế kỷ trước đã trở thành
vị Phật lịch sử. Nhưng Phật Pháp của Ngài (thuộc vào dòng tâm thức)
chúng ta vẫn xem như Phật sống, không phải sao? Chúng ta có thể chọn
văn thơ ca nhạc kịch nghệ khoa học. Tin Chúa thì chọn Kinh Thánh. Tin
Phật thì chọn Phật Pháp. Nếu muốn gây tội ác thì chọn những hành động
của Hitler. Muốn hướng thiện thì cũng có thể nhìn vào những hành động
hung bạo đó để tránh né. Có lẽ cần phải học những bài học đạo đức cơ
bản trước khi bước vào cửa hàng tạp hóa rất đa dạng đó.
Khi một
nhạc sĩ đàn bản nhạc Tristesse, bản nhạc đó đã được tái sinh trong
người nhạc sĩ. Khi một nhà thơ ngâm lại chuyện Kiều, những vần thơ đó
đã được tái sinh trong lòng người thi sĩ. Khi một giáo sư giảng dạy lý
thuyết chuyển động của Newton, lý thuyết đó đã được tái sinh trong
người giáo sư. Một nhà soạn nhạc tài ba có thể là nơi dừng chân của
một số nhạc sĩ tài ba khác của quá khứ cũng như đương thời. Một nhà
độc tài khát máu có thể là hiện thân của nhiều tay độc tài khát máu
khác, cũng có thể nhờ vào những tấm gương xấu đó mà tạo ra những anh
hùng giúp đời. Kiếp sau của cụ Tố Như có thể là anh, là tôi, và là
nhiều người khác nữa. Nếu ba trăm năm sau có người khóc Tố Như, người
đó rất có thể đang khóc cho chính mình mà không hề hay biết!
6. Phật
Giáo và vấn đề siêu hình
Tôi
thích đọc những quyển sách về thiền thực hành để có thể tập thiền ngay
cả những lúc bận rộn nhất. Nấu ăn cũng có thể thiền, nghe nhạc hay xem
TV hay đi ngoài đường phố cũng có thể thiền. Tôi đi dạo phố một chiều
đẹp trời hôm nọ, nhớ đến những chương mục nói về thiền đi bộ. Tôi để ý
đến hơi thở của mình theo từng bước đi. Khi khác, tôi để ý đến nhịp
tim. Một lúc khác nữa, tôi lại lắng nghe tiếng cát vụn xào xạc dưới
gót giày. Thật ra bất cứ lần đi bộ nào tôi cũng cố gắng thực hành hết.
Có lúc thành công, theo nghĩa rằng tôi đến chỗ tôi muốn đến hồi nào
không hay, không hấp tấp vội vàng, cũng chẳng thấy mệt mỏi. Tuy nhiên
rất nhiều lần thất bại, nhất là những lúc tôi phải đến đích đúng giờ
hoặc càng sớm càng tốt. Vào những lúc như thế tôi thường mất sự chú
tâm. Chỉ đếm được vài nhịp thở thì quên mất. Dự định quan sát hoạt
động của đèn xanh đèn đỏ, chỉ chú tâm được một lúc thì xao lãng ngay.
Hôm nay
thật đẹp trời. Hiển nhiên tôi tự nhủ lòng “phải tập thiền đi bộ.” Xác
suất để thất bại rất cao nên lần này cũng thất bại. Không phải vì phố
đông người. Tôi thất bại lần này vì bị thời gian bắt cóc! Tôi thả hồn
vui buồn nơi chốn cũ:
Thẩn thơ
từng bước hôm nay
Chạnh
lòng thương nhớ những ngày đã qua.
Rồi lúc
khác tôi lại thả hồn lãng mạn như đang nhớ thương ai:
Thật
nhiều áo tím chiều nay
Thấy
lòng rộn rã mới hay nhớ người.
Lúc tỉnh
táo trở lại, tôi lẩm bẩm: Ông già dịch! Nhưng thay vì trở lại tập
thiền, tôi len lén nhìn quanh xem có ai đang cho tôi một cái nhìn chế
nhạo nào không. Tôi chất vấn, nhưng chỉ nói trong bụng thôi:
Có ai
biết tôi đang buồn vơ vẩn
Đang
lang thang giữa đô hội phồn hoa
Đang bơ
vơ dưới ánh nắng chan hòa
Đang
chìm sâu trong nhạt nhòa mê muội?
Bỗng tôi
được cứu, saved by the bell! Bên vệ đường thấy người ta đứng bu quanh
mấy chiếc bàn đầy sách, CDs và DVDs. Tôi tiến lại gần xem. Toàn sách
và đĩa nói về Phật Giáo. Hơn nữa, tất cả đều tặng miễn phí. Tôi tham
lam chọn hầu hết, mỗi thứ một bản. Tôi vui mừng thầm nghĩ: Về nhà tha
hồ xem. Tất nhiên có nhiều bổ ích, chẳng hạn những bài giảng về đạo
đức ngũ giới thập giới hay những chuyện về Phật Thích Ca trước khi
xuất gia. Tuy nhiên khi xem một số khác, tôi không khỏi trầm ngâm suy
nghĩ:
Phải
chăng Phật Giáo quá chú trọng về thế giới siêu hình? Động cơ thúc đẩy
Phật Thích Ca xuất gia là để cứu khổ trần gian. Trần gian đầy khổ đau.
Sanh lão bệnh tử là khổ đau. Tham sân si là khổ đau. Kỳ thị giai cấp,
kỳ thị chủng tộc, thủ cựu, mê tín dị đoan, áp bức bóc lột, cường hào
ác bá là khổ đau. Chiến tranh là khổ đau. Xã hội đương thời của Ngài
là như thế. Và bây giờ dường như cũng chẳng khác bao nhiêu. Nhưng phải
chăng lời dạy của Ngài là lời hứa hẹn sẽ đưa chúng sanh đến một thế
giới siêu hình vĩnh cửu đầy cực lạc?
Chẳng
hạn, khái niệm “bồ tát” nguyên thủy là một khái niệm rất hiện thực,
không mang một sắc thái siêu hình nào. Người ta thường gọi thái tử Tất
Đạt Đa sau khi xuất gia và trước khi đắc đạo thành Phật là một vị Bồ
Tát. Sau khi Ngài đã thành Phật, danh xưng bồ tát được dành cho những
vị sắp đắc đạo, sắp vượt qua dòng sông, là người sắp trở thành một vị
la hán hay một vị phật. Nói chung, bồ tác là người, không phải thần
thánh. Họ cùng chung sống với chúng ta. Họ nhìn thế giới chung quanh
họ như một Tây Phương Phật trong lúc tầm nhìn của chúng ta có thể hoàn
toàn khác hẳn, khi lên khi xuống khi vui khi buồn khi thương khi giận.
Một ví dụ về những thế giới chủ quan có thể có của đa số chúng ta:
Một
người đi với một người
Một
người hớn hở tươi cười không đâu
Cảnh vui
lan tận rừng sâu
Người
vui cảnh có buồn đau bao giờ.
Người
kia thơ thẩn thẫn thờ
Màng đêm
vây phủ phải chờ bao lâu
Cảnh
buồn lan tận rừng sâu
Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Tuy
những vị bồ tát và chúng ta có thể bắt tay nhau, nhưng mỗi người lại
nhìn vạn vật bằng những khung trời khác nhau. Dù vậy họ không bao giờ
tự xem mình cao quý hơn, thuộc giai cấp thượng tầng, để rồi kỳ thị
người khác. Trái lại họ hòa mình hợp tác và giúp đở kẻ khác mà họ luôn
luôn xem như đồng loại, vì họ hiểu rất sâu sắc rằng giữa họ và những
người khác, tuy hai mà một. Họ tạo cho mọi người một niềm tin yêu ngay
trong cõi đời này, mắt thấy tai nghe. Thế giới của những người khác
như đang xích lại gần với thế giới của những vị bồ tát đó.
Nhưng
rồi, theo thăng trầm của thời gian, những vị bồ tát cứu khổ cứu nạn,
có hình hài, có xương có thịt đó dần dần “bị” siêu hình hóa, biến mất
khỏi trần gian. Thế giới của họ là một Tây Phương Phật xa xôi huyền bí.
Niết Bàn cũng vậy, vô cùng huyền bí. Dòng tâm thức biến thành những
thứ thiêng liêng có linh hồn. Chúng sanh muốn tìm hiểu, nhưng câu trả
lời rất gọn nhẹ: Không thể mô tả những huyền bí đó những thiêng liêng
đó bằng ngôn ngữ hay lời nói. Chúng sanh được giáo hóa rằng muốn đến
được những nơi đó cần phải tu hành vô số kiếp, phải khấn vái cầu xin
những đấng linh thiêng ra tay phò hộ. Nếu vụng tu hay sống một đời
sống vô đạo thì bị hăm dọa rằng kiếp sau sẽ bị đày xuống Địa Ngục, một
nơi huyền bí khác, vô cùng ghê rợn.
Chúng
sanh vốn si mê lầm lạc, nói sao nghe vậy. Cố gắng làm theo lời giáo
hóa. Nhưng đường xa vời vợi, đến hàng ngàn hàng vạn kiếp, đầy gian nan,
lại không có những bàn tay thiết thực giúp đở như thời vàng son xa xưa
của tiền nhân. Họ ngao ngán. Họ chán nản. Và đa số bỏ cuộc.
Thật khó
tin rằng Phật Thích Ca chú trọng đến những thế giới siêu hình trong
lúc Ngài bác bỏ chủ thuyết về một linh hồn bất diệt. Khi người ta hỏi
Ngài sau cõi đời này Ngài sẽ đi về đâu, Ngài trả lời đây là vấn đề
không có giá trị thảo luận. Ngài thường khẳng định lập đi lập lại rằng
quan tâm duy nhất của Ngài là sự đau khổ của chúng sanh. Ngài đi tìm
con đường giải thoát cho chúng sanh hoàn toàn không nghĩ đến một phần
thưởng nào cho cá nhân mình, dù phần thưởng đó thuộc vào thế gian này
hay thuộc vào một thế giới siêu hình (nếu có) nào đó. Ngài chỉ biết
mình làm những việc cần phải làm hầu giải thoát sự khổ đau của chúng
sanh. Ngài muốn xây dựng một Tây Phương Phật ngay trên đia cầu này.
Nhưng
tại sao Phật Giáo bị siêu hình hóa? Thật ra Phật Giáo không hề bị siêu
hình hóa trong lòng rất nhiều Phật tử, nhất là Phật tử ngày nay. Nhưng
qua nhiều kinh sách (được viết từ mấy thế kỷ sau khi Phật quy tiên và
vẫn được lưu truyền cho đến nay) chúng ta có thể thấy Phật Pháp đã
nhấn mạnh khá nhiều về những cảnh giới siêu hình. Có thể chăng do khoa
học còn phôi thai? Có thể chăng khi Phật Giáo lan truyền sang các nước
khác, vì thường phải tìm cách ăn khớp với những tín ngưỡng địa phương,
Phật Pháp đã dần dần biến hóa? Phải chăng có những nhóm muốn siêu hình
hóa Phật Giáo với ý đồ thống trị: Xem Phật chẳng khác nào thượng đế,
để rồi muốn chúng sanh nghe theo mệnh lệnh của mình, chỉ cần “hù” rằng
mệnh lệnh đó là ý của Phật? Tôi nghĩ đây là một vấn đề quan trọng cần
được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.
Có kiếp
sau tức phải có linh hồn, hơn nữa linh hồn đó là bất diệt. Cho dù kiếp
sau có biến đổi so với kiếp trước, chẳng hạn trở thành dốt hơn hay
thông minh hơn, trở thành hung bạo hơn hay đạo đức hơn, trở thành khác
phái, v.v., linh hồn đó vẫn tồn tại, tồn tại vĩnh viễn. Rõ ràng Phật
không dạy chúng sanh có một linh hồn như vậy. Phật đã từng dùng những
ví dụ về hậu kiếp trong nhiều bài giảng của Ngài. Nhưng tôi tin Ngài
chỉ xem những ví dụ đó như những huyền thoại, cần phải dùng đến khi
những người nghe là những người quá mê tín về luân hồi chuyển thế. Nếu
có ai hỏi Ngài có tin luân hồi không, Ngài sẽ trả lời – một cách Trung
Đạo – rằng nếu có thì bài giảng của Ngài vẫn có giá trị hữu dụng. Nếu
có người khư khư muốn Ngài chỉ trả lời một cách khẳng định “có” hay “không”,
Ngài sẽ nói “những vấn đề siêu hình không có giá trị thảo luận”. Khoa
học bây giờ cũng chỉ có thể trả lời như thế. Trả lời “chắc chắn có”
hoặc “chắc chắn không” trong lúc chưa thể chứng minh được một cách
khoa học là những câu trả lời cực đoan.
Tôi xem
đĩa DVD vừa mới mang về nhà, giảng về Kinh Địa Tạng. Từ đầu đến cuối,
tôi chỉ nghe thấy toàn những hình ảnh ghê rợn ở những vùng núi non âm
u ma quái, nơi đó gồm những người bị đày sau khi lìa trần. Và khỏi
phải nói, cực hình tra tấn thì triền miên. Sống mà có tội thì sau khi
chết sẽ bị đày xuống đó. Chỉ câu nói này cũng đủ hàm ý mỗi người có
một linh hồn và linh hồn đó tồn tại vĩnh viễn. Điều này hoàn toàn trái
ngược với lời dạy của Phật. Hơn nữa cuốn phim không nói lên một lời
khuyên bảo nào hết, chỉ nói đến toàn những tra tấn cực hình như là
những lời răng đe khủng bố hăm dọa. Tôi nghĩ những cuốn phim như thế
này chỉ làm cho giới trẻ ngày nay xem Phật Giáo như là một tôn giáo mê
tín dị đoan không hơn không kém.
Ngày nay
đa số đều có cơ hội cắp sách đến trường. Đa số đều có những kiến thức
khoa học cơ bản. Mê tín dị đoan vẫn còn đó, nhưng đang trên đà xuống
dốc. Bất cứ một lý thuyết nào khẳng định sự tồn tại những thế giới
siêu hình đều có thể bị họ cho là một lý thuyết mê tín dị đoan. Và tôi
tin rằng nhiều người suy nghĩ như vậy. Tuy đó là cực đoan nhưng tôi
thiển nghĩ đa số không còn thích nghe những hứa hẹn hão huyền về những
miền cực lạc hay thiên đàng nữa. Họ chỉ muốn phiền não lo âu đau khổ
giảm xuống và bình yên hạnh phúc vui tươi tăng lên, không phải cho
kiếp sau, mà cho ngay sự sống hiện tại của họ. Rót vào tai họ những
thế giới siêu hình mỹ miều chỉ làm họ xa dần với Phật Giáo. Linh
thiêng hoá và thần thánh hóa Phật và các vị bồ tát càng làm họ xem
Phật Giáo như một đạo thần quyền, điều mà Phật Thích Ca luôn luôn bác
bỏ.
Einstein
từng nói “Một tôn giáo thiếu khoa học là một tôn giáo què quặt.” Một
tôn giáo chỉ đáng tin cậy khi tôn giáo đó không những bao trùm toàn bộ
khoa học hiện tại mà còn bao trùm cả những phát triển khoa học trong
tương lai. Tương lai thì chưa đến. Chúng ta chưa thấy được những phát
triển khoa học sẽ đến. Làm sao để có thể chọn một tôn giáo đáng tin
cậy? Phật Giáo quả thật là một tôn giáo đáng tin cậy. Phật có bảo
chúng ta rằng những lời dạy của Ngài không phải là những giáo điều bất
di bất dịch. Phải biết áp dụng đúng từng hoàn cảnh thời gian và không
gian chính là lời dạy của Ngài. Những niềm tin hoàn toàn trái ngược
với khoa học cần phải hũy bỏ. Những niềm tin mà khoa học đang dè dặt
cần được nghiên cứu kỹ lưỡng ăn khớp với những bước tiến của khoa học.
Chỉ cần Phật Giáo đi những bước đường như thế thì Phật Giáo sẽ luôn
luôn là một tôn giáo đáng tin cậy nhất.
7. Niềm
hy vọng
Bị ám
ảnh bởi những cái thế giới siêu hình huyền bí, con người luôn luôn cố
gắng tìm hiểu. Bây giờ họ có máy truyền thanh truyền hình, máy vi tính,
internet, v.v. Hẳn người thời xưa xem những thứ đó như huyền bí. Thế
giới bây giờ là huyền bí của thế giới ngày xưa. Muốn dùng ngôn ngữ để
diễn tả thế giới ngày nay hẳn không khó. Họ bắt đầu quen dần với hai
chữ huyền bí, nhưng họ tin rằng huyền bí vẫn là những thứ có thể dùng
ngôn ngữ để diễn tả. Nhưng họ vẫn không thể hình dung ra những cái thế
giới siêu hình mà người ta đã giáo huấn họ. Phải chăng thế giới siêu
hình đó chẳng qua là tương lai của thế giới chúng ta ngày nay? Họ nghĩ
đến vũ trụ với hàng tỷ thiên hà, và mỗi thiên hà có hàng tỷ những vì
sao. Hẳn phải có rất nhiều thái dương hệ na ná thái dương hệ của chúng
ta. Và có thể có nhiều thái dương hệ như thế có chấp chứa sự sống.
Những sự sống đó có giống sự sống trên địa cầu không? Văn minh hơn?
Lạc hậu hơn? Phải chăng những thế giới siêu hình nói trên có thể là
những thế giới xa xôi trên các thái dương hệ đó? Tất nhiên họ không
trả lời được.
Nhưng
chính những bế tắc này đã phấn chấn họ. Họ nhớ đến hình ảnh Phật Thích
Ca ngày xưa vì theo con đường tu khổ hạnh mà đã kiệt sức suýt bỏ mạng.
Nhờ đó Ngài đã khám phá ra Trung Đạo và đã tu thành Phật. Đối với
chúng sanh bây giờ, chính sự ngờ vực về cái thế giới siêu hình huyền
bí kia đã thúc dục họ đổi hướng đi trở lại: Xây dựng một Tây Phương
Phật ngay trên địa cầu này trước đã.
Chúng ta
không ngạc nhiên thấy Phật Giáo đã biến đổi những bước nhảy vọt trong
nhiều thập niên vừa qua. Nhiều hội nghị Phật Giáo đã được tổ chức tại
nhiều nơi trên thế giới, thảo luận về hướng đi của Phật Giáo ngày nay.
Những phong trào Phật Giáo nhập thế, Tân Phật Giáo được xem là những
bước tiến của Phật Giáo mà trọng tâm là sự sống hiện tại trên địa cầu.
Tất nhiên, mù quáng chấp nhận những phong trào này hoặc nhắm mắt bác
bỏ chúng một cách thiếu suy xét là những cực đoan. Chúng ta phải xem
xét kỹ lưỡng để hội nhập những điểm tốt đẹp và để tránh những điểm
không có lợi cho Phật Giáo. Hội nghị quốc tế sắp được tổ chức tại viện
nghiên cứu Phật học, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, sẽ là một cơ hội
để Phật Giáo thế giới tham gia đóng góp ý kiến về đường lối đối phó và
đóng góp của Phật Giáo trước những thách thức nóng bỏng của thời đại
như nạn gia tăng dân số thế giới, nạn khủng bố, quan hệ giữa các tôn
giáo, các bệnh dịch thời đại như dịch cúm gà, hiệu ứng nhà xanh, vấn
đề dân chủ và nhân quyền, vấn đề truyền thông trong thời đại mới, vấn
đề toàn cầu hóa, v.v.
Đối với
Phật Giáo Việt Nam, cần tìm những hướng đi và phương pháp giáo dục hữu
hiệu để đóng góp cho thế giới, cho văn hóa dân tộc, cho thế hệ trẻ
rường cột của nước nhà, v.v.
Hy vọng
trong một tương lai gần, thế giới chúng ta sẽ tràn đầy những vị bồ tát
đúng với ý nghĩa nguyên thủy của nó. Phật sẽ mỉm cười thấy công lao
của Ngài không bị hoang phí.
Phật
muốn biến sự sống trên thế gian này không còn tham sân si, không còn
gia cấp, không còn hận thù chém giết. Thế giới này phải là một thế
giới vị tha, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái. Thế giới này phải
là chân thiện mỹ, phải là niết bàn. Những câu hỏi, chẳng hạn, anh
thuộc giai cấp nào, anh thuộc tôn giáo nào, anh là người nước nào,
v.v., sẽ trở nên không còn ý nghĩa trong khung trời niết bàn đó.
Nhưng từ
đây tới đó đường còn dài thật dài. Thế giới hiện tại của chúng ta là
một thế giới đa hình đa dạng, tốt xấu có đủ. Liệu Phật Giáo có thể
giúp chúng sanh thu ngắn thời gian để biến chốn hồng trần này thành
một niết bàn không? Quả đây là điều không tưởng. Tham lam vẫn còn đó.
Hận thù vẫn còn đó. Hiếp bức vẫn còn đó. Ranh giới tôn giáo và ranh
giới quốc gia vẫn còn đó. Phải cần thời gian. Và vào mỗi giây phút
trong khoảng thời gian đó, Phật Giáo càng có những nhạy bén để có thể
bước vững vàng trên Trung Đạo.
Thế giới
hiện tại là một thế giới đa dạng. Chúng ta không thể không chấp nhận
những ranh giới tôn giáo cũng như những ranh giới quốc gia. Và Phật
Giáo có trách nhiệm biến đổi những hận thù cạnh tranh giành giựt chém
giết chiến tranh giữa tôn giáo và tôn giáo, giữa quốc gia và quốc gia
thành những hợp tác tương thân tương trợ thương yêu và tôn trọng lẫn
nhau. Nhiệm vụ của Phật Giáo là thuyết phục những nước văn minh giàu
có giúp đở tương trợ những nước nghèo khó chậm tiến trong những lĩnh
vực kinh tế tài chánh, khoa học kỹ thuật và y tế. Phật Giáo phải tạo
điều kiện tốt trao đổi học tập văn hoá phong tục tập quán lẫn nhau để
hiểu nhau hơn và từ đó tôn trọng lẫn nhau hơn. Đó chỉ là một vài ví dụ
trong rất nhiều nhiệm vụ quốc tế khác mà Phật Giáo phải đương đầu.
Phải đối phó như thế nào trước sự kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo,
trước chiến tranh cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh khủng bố, …
Tất
nhiên con đường Phật Giáo đi là Trung Đạo. Mọi vấn đề Phật Giáo phải
đương đầu đều phải phù hợp với Trung Đạo. Phật Giáo chủ hòa bất bạo
động. Phật Giáo không bao giờ là một đe dọa của bất cứ một quốc gia
nào. Đây là một điều thuận lợi để Phật Giáo có thể tiếp xúc với tất cả
những phe đối nghịch trong mọi cuộc xung đột. Phật Giáo không tin vào
thần quyền, cuồng tín, mê tín dị đoan:
Thần
quyền cuồng tín dị đoan
Chỉ đưa
nhân loại đến ngàn vực sâu.
Trong
mỗi quốc gia, Phật Giáo và chính quyền không thể không có quan hệ lẫn
nhau. Bảo rằng Phật Giáo có thể tồn tại độc lập với chính quyền là một
điều thiếu thực tế. Nếu được sự ủng hộ của chính quyền, việc hoằng
pháp sẽ thuận tiện gấp bội lần. Tôi có xem cuốn phim tài liệu về việc
trùng tu chùa Thánh Duyên ở Huế. Mối quan hệ hài hòa giữa chính quyền
địa phương và Giáo Hội Phật Giáo Thừa Thiên Huế đã tạo thuận lợi cho
việc trùng tu được thành công mỹ mãn. Có thể nói đây là một dấu hiệu
tốt cho Phật Giáo Việt Nam.
Tuy
nhiên nếu Phật Giáo trở thành một con cờ bù nhìn của chính quyền thì
chính Phật Giáo sẽ khó có thể bước vững trên Trung Đạo, đừng nói chi
việc dìu dắt chúng sanh giải thoát khổ đau. Để tránh điều này, Phật
Giáo cần có một đội ngũ gồm những vị bồ tát “sống” với đầy đủ từ bi
trí huệ để có thể góp ý chính quyền trong việc trị quốc an dân, ngăn
cản chính quyền thi hành những chính sách có thể nguy hại cho tổ quốc,
cho dân tộc. Đồng thời cần bày tỏ thái độ cứng rắn trước những tệ nạn
như tham ô bạo quyền bất công. Được như vậy Phật Giáo mới có thể đưa
dân tộc Việt Nam xích gần với Trung Đạo hơn.
Đối với
những chính sách của chính quyền có liên hệ đến chết chóc như án tử
hình, và quan trọng nhất là khi đất nước bị đe dọa chiến tranh xâm
lăng, thái độ của Phật Giáo phải như thế nào? Buôn lậu á phiện thì có
thể tử hình. Phật Giáo nghĩ sao khi biết rằng á phiện đã làm biết bao
nhiêu người trở nên nghiện ngập tan cửa nát nhà và chết chóc? Tuy Phật
Giáo chủ trương không sát sanh, nhưng phải chăng tội tử hình luôn luôn
là sai trái? Việt Nam đã có rất nhiều kinh nghiệm với giặc ngoại xâm.
Nhìn lại những kinh nghiệm đó, Phật Giáo Việt Nam hẳn đã rút tỉa được
những bài học quý giá. Nếu có một đe dọa tương tự trong tương lại,
Phật Giáo sẽ có kế gì hay để hiến nhà nước? Nên hòa? Nên chiến?
Án tử
hình hay chiến tranh chống ngoại xâm, tất cả đều tùy thuộc vào nhiều
yếu tố, kể cả không gian và thời gian. Không thể có những sách kế bất
di bất dịch như những giáo điều không bao giờ thay đổi. Nếu phải giết
một người để cứu hàng trăm hàng ngàn người, Phật Giáo nghĩ sao? Nếu bị
ngoại xâm, Phật Giáo phải làm sao để có thể duy trì hòa bình đất nước?
Phải chăng Phật Giáo sẽ không bao giờ sát sanh dù trong bất cứ tình
huống nào? Nếu vậy phải chăng chủ thuyết “không sát sanh” đã trở thành
một giáo điều bất di bất dịch? Tôi cho rằng những vấn đề này cần được
thảo luận kỹ lưỡng.
Có được
quan hệ tốt với chính quyền quả thật không dễ. Hoằng pháp để cứu vớt
chúng sanh lại là một nhiệm vụ còn khó khăn hơn. Trong việc truyền
Pháp, Phật Giáo phải đương đầu với vấn đề đạo đức. Xã hội hiện tại quả
thật có quá nhiều tệ nạn. Trong một xã hội tiêu thụ như hiện nay,
dường như mọi thứ tình cảm đều được đánh giá trên tiền bạc. Hành hung
cướp giật xảy ra gần như cơm bữa. Rồi nạn nghiện ngập ma túy. Phật
Giáo cần tìm những phương thức hữu hiệu để đối phó với những tệ nạn đó.
Cuối
cùng, để kết thúc bài này, tôi xin vắn tắt đóng góp hai điểm về việc
dịch kinh sách và việc trang trí chùa chiền tại Việt Nam, hầu giúp
người Việt hiểu nhiều hơn và tự hào hơn về Phật Giáo Việt Nam.
Trong
mấy quyển sách biếu không hôm tôi đi dạo phố, có một vài quyển Kinh.
Đọc những quyển Kinh đó quả thật rất khó khăn đối với tôi. Dường như
hầu hết những từ ngữ đều được phiên âm thay vì dịch từ
chữ Hán. Tôi không có vốn liếng chữ Hán. Và tôi tin rằng ngày nay đa
số người Việt cũng đều như tôi. Tôi đã đọc nhiều kinh kệ dịch
từ ngôn ngữ Pali hay Sanskrit sang tiếng Anh. Rất nhiều dịch giả vẫn
than phiền rằng thật không dễ dàng tí nào trong việc dịch Kinh. Có
nhiều từ của ngôn ngữ này không dễ gì tìm được từ hoàn toàn tương
đương trong ngôn ngữ kia. Hẳn các dịch giả Việt Nam cũng đã từng thấm
thía những khó khăn này, nhất là khi phải dịch Kinh. Nhưng theo tôi,
cuối cùng các dịch giả phải làm điều đó. Phải dịch, không thể
chỉ phiên âm. Nói chung, cần phải phổ thông hóa kinh sách. Được
như thế, người đọc sẽ dễ hiểu hơn, do đó hứng thú hơn, và Kinh Phật sẽ
được phổ biến rộng rãi và nhanh chóng hơn.
Đối với
các chùa, dường như chỉ có tên chùa là được viết bằng tiếng Việt, còn
hầu hết các thứ khác, như các bức hoành, các câu đối câu liễn, viết
toàn chữ Tàu. Bình dân bá tánh đi ngang chùa nhìn vào, họ chỉ thấy
nhưng không hiểu. Họ đành tiếp tục bước đi. Cửa chùa thì mở rộng mà họ
thấy như đang đóng kín. Việt Nam thoát ách đô hộ của Tàu đã lâu. Tiếng
Việt cũng đã được phổ thông hóa từ lâu. Nhưng những ngôi chùa vẫn như
thời xa xưa, vẫn giống như chùa Tàu trên đất Việt. Theo tôi, phải Việt
Nam hóa những ngôi chùa Việt Nam! Những ngôi chùa xây trong tương lai
phải 100% Việt Nam. Nếu phải dùng những ngôn ngữ khác thì đó chỉ là
phụ, chỉ để giúp du khách nước ngoài tìm hiểu mà thôi. Chùa Việt phải
dùng tiếng Việt cho dân Việt. Tất nhiên có những ngôi chùa xây dựng từ
xa xưa, nổi tiếng và đã trở thành lịch sử, cần được giữ nguyên vẹn
những di tích lịch sử quý giá đó.
Phật
Giáo đã đến với Việt Nam 2000 năm nay. Chắc chắn ai cũng mong muốn kho
tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam được phổ biến rộng rãi trong lòng mỗi
người dân Việt.
Sách tham khảo:
·
Majjhima Nikaya, translated by bhikkhus Nanamoli
& Bodhi, The Middle Length Discourses of The Buddha, Wisdom
Publications, USA, 1995
·
Digha Nikaya, translated by Maurice Walshe, The Long
Discourses of The Buddha, Wisdom Publications, USA, 1995
·
Brazier, D., The New Buddhism, Constable & Robinson,
London, 2001
·
Brazier, D., The Feeling Buddha, Constable &
Robinson, London, 2001
·
Silver, B. L., The Ascent of Science, Oxford
University Press, New York, 1998
·
Capra, F., The Turning Point, Simon & Schuster, New
York, 1982
Capra,
F., The Web of Life, Flamingo, London, 1997
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/