DẪN NHẬP
Thông thường, khi chúng ta đề cập
đến “Thời kỳ đồ đồng” hay “Thời kỳ đồ đá” thì có nghĩa là trong kỷ
nguyên lịch sử đó, đồng hoặc đá, từ nguyên liệu thô đã được con người
chế biến một cách rộng rãi thành những dụng cụ phục vụ cho cuộc sống,
nâng phẩm chất cuộc đời lên một tầng cao hơn. Biến chế thành mủi tên,
thành lưởi dao, thành chum nước, ... để cho con người bình thường lúc
bấy giờ ai cũng có thể săn thú vật an toàn và hữu hiệu hơn, đẻo gọt
một cành cây nhanh chóng và gọn gàng hơn, cất giử một lượng nước trong
sạch và lâu bền hơn.
Từ mấy thập kỷ nay, chúng ta đã
nói đến “Thời đại thông tin”. Trên mặt ứng dụng của “người bình thường”,
ta thấy xuất hiện những dụng cụ của thời đại nầy. Máy vi tính PC hoặc
Laptop và các phần mềm, máy truyền hình dùng hệ thống vệ tinh hoặc cáp
quang, điện thoại di động chuyển âm chuyển hình và chuyển chữ, máy
hình và máy quay phim số, Internet và các trang nhà, email và hệ thống
liên lạc thính thị, các máy nghe nhạc đa năng MP3, Ipod, ... Ai cũng
biết rằng công năng của các dụng cụ nầy chủ yếu là thu thập thông
tin và xử lý thông tin. Lượng thông tin (dưới dạng ký hiệu, âm thanh,
hình ảnh, chữ viết) mà chúng ta truy cập được thì nhiều vô số kể,
nhưng vấn đề là ta xử lý chúng như thế nào để tránh thảm kịch của
nguời đang cầm trong tay những dụng cụ hiện đại nhất, nhưng khi sử
dụng thì vẫn mang tâm cảnh và tập quán của thời đại đồ đá đồ đồng.
Tình trạng lạm dụng, khiếm dụng và nhiễu dụng những dụng cụ thông tin
(như nói điện thoại di động cả tiếng đồng hồ, hoặc học sinh trốn học
chơi games điện tử trong các quán cà phê Internet, hoặc tung các thông
tin riêng tư lên mạng Internet để trả thù nhau, ...) là khá phổ quát ở
các nước có vấn đề với nền văn hóa của mình.
CON SỐ
Tuy nhiên, bài viết nầy không đề
cập đến vấn đề “xử lý” mà chỉ xin bàn đến vấn đề thông tin. Ở đây là
một thông tin rất cụ thể cho những người muốn nghiên cứu tình hình
Phật giáo Việt Nam hay muốn làm chuyện Phật sự: Hiện nay có bao nhiêu
Phật tử Việt Nam ?
Không có thông tin nầy chính xác
thì các cơ quan chức năng (cả nhà nước lẫn giáo hội, ở tầng trung ương
lẫn cơ sở) làm sao hoạch định chính sách, làm sao dự trù kế hoạch, làm
sao thực hiện dự án, làm sao trả lời về nhu cầu cho bạn bè muốn giúp
đở hay đối ứng với kẻ xấu muốn đánh phá.
Để cho quy mô và chính thức, người
viết tìm cách truy cập vào Trang Web của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
nhưng không có trang web đó. Người viết lại đi tìm trang web của ba cơ
quan nhà nước có liên hệ đến câu hỏi nầy: Ban Tôn giáo Chính phủ,
không có trang web. Viện Nghiên cứu Tôn giáo, không có trang web. Và
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, may quá vì có trang web (http://www.mattran.org.vn/
) nhưng lại không cho loại thông tin có tính thống kê như thế. Để cho
chắc chắn, người viết tìm đến cội nguồn của tất cả mọi dử liệu: Tổng
cục Thống kê Việt Nam. Trang web nầy ( http://www.gso.gov.vn ) dĩ
nhiên cho rất nhiều con số về dữ liệu kinh tế và xã hội nhưng tuyệt
nhiên không có những con số về tôn giáo tại Việt Nam. Trong mục Dân số
nước ta, thấy có số liệu về Tổng số dân Việt Nam, 82.032.300 người,
tính đến năm ....2004, hai năm về trước.
Người viết gần như chắc chắn, vì
đã đọc một bài nghiên cứu hoặc báo cáo nào đó, rằng số lượng Phật tử
tại Việt Nam đã được chính thức xác định và công bố. Nhưng muốn tìm
lại trong mớ ký ức hỗn độn của mình thì xin chịu. Nhờ đến công cụ của
Thời đại Tin học cũng ... chào thua.
Thử đi tìm các trang web Việt Nam
khác của Phật giáo (trong và ngoài nước) vẫn không kiếm được thông tin
nầy. Đành phải đi tìm ở các nguồn ở nước ngoài vậy.
Trước hết là các nguồn “ngoại vi” xem người nước ngoài biết gì về số
lượng Phật tử tại Việt Nam: Trang nhà của công ty du lịch Vietnam
Paradise Travel viết rằng 70% dân số Việt Nam theo đạo Phật hoặc chịu
ảnh hưởng sâu đậm những hành sự của Phật giáo (70% Buddhist or
strongly influenced by Buddhist practices). Lonely Planet, công ty
đứng đắn về các dữ liệu du lịch, thì cẩn thận hơn: Phật giáo là tôn
giáo chính tại Việt Nam, nhưng cũng còn có các tôn giáo thiểu số
đáng kể khác như đạo Lão, đạo Khổng, Hòa Hảo, Cao Đài và Thiên Chúa
giáo (Buddhism is the principal religion, but there are also sizeable
Taoist, Confucianism, Hoa Hao, Cao Daist and Christian minorities).
World Atlas, từ điển của tất cả mọi từ điển về địa lý, thì cho dân
số nước ta vào năm ... 2001 là 79.939.014 người, còn về tôn giáo thì
liệt kê Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo mà
không xác định được số lượng. Trang Web của Tòa Đại sứ Việt Nam tại Mỹ,
may quá, chính thức cho con số như sau về Phật giáo: Trong số 20 triệu
người “có đạo” tại Việt Nam, Phật giáo có số tín đồ đông nhất, vào
khoảng 10 triệu người, tức là gần12% tổng dân số, với hơn 20.000 ngôi
chùa (thứ nhì là Công giáo La mã với 6 triệu giáo dân và 6.000 nhà thờ)
[1]
Cho cập nhật hơn, và nhất là khả
tín hơn, người viết truy cập vào hai trang nhà ... chính thống: Một là
của bộ Bách khoa Từ điển điện tử Wikipedia. Từ điển nầy cho số liệu
của năm 2005: Số Phật tử là 41.767.778, chiếm 50% của tổng dân số
83.535.576 [1]. Và một là dữ liệu
năm 2006 của Cục Trung ương Tình báo CIA Mỹ: Số Phật tử chỉ 9.3% của
tổng dân số 84.402.966 [1], nghĩa
là 7.849.476 người con Phật.
Hai nguồn tài liệu “chính thống”
nước ngoài nầy cho ta hai kết quả một trời một vực: 9.3% và 50% tổng
dân số, sai biệt đến ... 33.918.302 Phật tử !!! Nằm trong hai giới hạn
cực tiểu và cực đại nầy là con số chính thức của nhà nước, 12%.
CON
NGƯỜI
Chắc chắn là đâu đó trong nước
Việt Nam phải có một con số tương đối chính xác về số lượng Phật tử.
Thậm chí có nhiều con số nữa là khác. Chỉ cần đích thân đến chùa Quán
Sứ, Ban Tôn giáo hoặc Bộ Nội vụ hỏi xin thì chắc sẽ được. Tại mỗi nơi,
tùy tiêu chuẩn xác định thế nào là một người Phật tử Việt Nam, và tùy
phương pháp tiến hành cuộc thống kê để thâu thập dữ liệu này như thế
nào, cuối cùng ta cũng có được một con số. Tuy nhiên, dù là con số nào
thì, theo người viết, cũng không thể nào chính xác được. Tại vì, khác
với một vài tôn giáo khác, trên mặt thế tục, các Giáo hội Phật giáo
chưa bao giờ thiết định các tiêu chuẩn để xác nhận thế nào là một Phật
tử, lại là Phật từ Việt Nam. Và chỉ có Giáo hội mới đủ thẩm quyền để
xác định tiêu chuẩn nầy.
Phật giáo không chấp vào danh
tướng, Phật tử không lụy vào danh sắc. Chỉ vào nhau mà bảo rằng chị là
Phật tử, còn anh thì không phải là Phật tử, là có vấn đề ngay. Vấn đề
vô ngã và vô thường, vấn đề tái sinh và duyên khởi. “Phàm sở hữu tướng
giai thị hư vọng”, kinh Kim Cương đã dạy thế thì làm sao mà phát
“Chứng minh thư” cho Phật tử được.
Tuy nhiên, vì Tăng già có đó để
giữ gìn mạng mạch cho Phật giáo, vì Kinh sách có đó để làm công cụ
hoằng dương chánh pháp, vì Chùa chiền có đó để làm nơi quần tụ cho tứ
chúng tu học, vì khổ đau có đó cho người con Phật được hành trì hạnh
Bố thí, vì các phương tiện thiện xảo có đó cho nên người Phật tử ...
đành phải có vậy.
Mà đã có Phật tử thì có Phật sự,
và vì vậy có Giáo hội. Từ đó, phát sinh ra vấn đề tổ chức và quản lý,
mà trước hết là tổ chức và quản lý con người. Câu hỏi đầu tiên sẽ là
có bao nhiêu người, tức là lại trở về với cái Chứng minh thư của người
Phật tử, một tờ giấy không ai hỏi cũng không ai muốn cất trong bóp làm
gì.
Ở các nước toàn tòng tôn giáo, câu
trả lời khá đơn giản. Phật giáo tại Thái Lan, Công giáo La mã tại
Phillippines, Hồi giáo tại Iran ... cứ lấy tổng dân số trừ đi vài phần
trăm là cũng tàm tạm đúng rồi. Tại nước ta, chỉ có hai số lượng tương
đối chính xác, đó là số tăng ni và chùa chiền toàn quốc. Còn số Phật
tử thì chắc đâu đó giữa ... 9.3% và 70% tổng dân số !
PHẬT
TỬ VIỆT NAM, QUÝ VỊ LÀ AI ?
Nếu số lượng không thể xác định (hoặc
dù có gượng ép xác định theo một tiêu chuẩn nào đó thì cũng không phản
ánh thực tế) thì chất lượng lại là một vấn đề khác. Đối với người Phật
tử, chất lượng là vấn đề tu học và hành trì của chính bản thân mỗi
người. Là căn cước tôn giáo để trong đạo hay ngoài đời, người Phật tử
Việt Nam có thể hãnh diện trả lời “tôi có mặt” khi cuộc đời hỏi giấy.
Nhưng nói đến “chất lượng” thì lại
càng phức tạp, và dĩ nhiên là phức tạp hơn “số lượng” rất nhiều. Tại
vì không đo được, lại càng không đếm được. Ba Tạng kinh điển, tám vạn
bốn ngàn pháp môn làm sao mà đo và đếm đây.
Vị sư trụ trì một ngôi chùa làng ở
Hậu Giang với một cụ già đi lễ Phật ở chùa Lim tại Bắc Ninh, ai “Phật
tử” hơn ai ? Một ni sư giảng dạy trong lớp học tình thương ở Huế và
một cư sĩ làm thơ Thiền giữa lòng Thành phố Hồ Chí Minh, ai là Phật tử
ai không phải là Phật tử ? Và hôm qua tôi là Phật tử, nhưng hôm nay
tôi có còn là Phật tử không ? Rồi ngày mai thì sao ?
Trong sự rối rắm phức tạp vì
không thể nào thiết lập được một hệ thống quy chiếu để định chuẩn đó,
người viết xin tạm thời đề nghị một phương pháp tiếp cận, không toàn
hảo nhưng là một gợi ý ban đầu: Mỗi người tự định lấy tiêu chuẩn tối
thiểu của mình và, trong một số trường hợp, dùng một vài thực tế đo
lường được để tự xác định xem mình có phải là một Phật tử Việt Nam
không ? Xác định bằng cách lấy tu học và hành trì làm hai hệ quy
chiếu.
Theo chủ quan của người viết, một
cách cụ thể, mỗi người Phật tử Việt Nam cần phải biết một cách tổng
quát và làm những chuyện cơ bản sau đây:
A- Tri thức về Bối cảnh của Phật
giáo:
1-
Lịch sử cuộc đời Đức Phật Thích Ca.
2-
Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo thế giới – Các Tông
phái.
3-
Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam – Các Tông
phái.
4-
Lịch sử và ý nghĩa của Thời đại Lý Trần.
5-
Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam trong thập niên 1930s.
6-
Cuộc vận động bình đẳng tôn giáo tại miền Nam Việt Nam năm
1963.
7-
Sự nghiệp vài nhân vật Phật giáo và sự tích một vài thắng tích
Phật giáo nước ngoài.
8-
Sự nghiệp vài nhân vật Phật giáo Việt Nam và sự tích một vài cổ
tự của Việt Nam.
9-
Cơ cấu tổ chức và vài hoạt động quan trọng của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam hiên nay.
10- Chánh
sách của Nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo.
B- Tu học để tạo phước đức và công
đức:
1- Tổng quan về ba Tạng Kinh điển.
2- Chọn, đọc và suy nghiệm một (hoặc
hai) Kinh Tiểu thừa phù hợp với căn cơ của mình.
3- Chọn, đọc và suy nghiệm một (hoặc
hai) Kinh Đại thừa phù hợp với căn cơ của mình.
4- Chọn, đọc và suy nghiệm một (hoặc
hai) Luận nào phù hợp với căn cơ của mình.
5- Một số Nghi thức tụng niệm –
Chức năng và vai trò của một số vị Phật và Bồ Tát khác
6- Hiểu và quán một số “tiền đề
thần học” của Phật giáo: Vô thường, Vô ngả, Khổ, Tứ Diệu đế,
Bát Chánh đạo, Lý Nhân Duyên,
Lý Duyên khởi, Tái sinh, Luân hồi, Nhân quả, Nghiệp báo, ...
7- Ý nghĩa và phần ứng dụng của
Tam quy và Ngủ giới.
8- Ý nghĩa và phần thể hiện của
Tam bảo (Phật Pháp Tăng).
9- Ý nghĩa của Giới, Định và Huệ.
10- Phật giáo chủ yếu khác với các
tôn giáo khác ở chổ nào.
C- Hành hoạt trong đòi sống
thường ngày:
1- Chịu lể Quy y, nhận Pháp
danh và nhận Bổn sư.
2- Ăn chay mỗi tháng hai lần
(Mồng Một, Rằm hoặc những ngày lễ Phật giáo).
3- Đến chùa lễ Phật, tụng
Kinh, hành Thiền và nghe giảng Pháp mỗi tháng hai lần.
4- Tham gia công tác từ
thiện của Giáo hội mỗi năm bốn lần.
5- Tham gia tổ chức ngày lễ
Phật Đản và Phật Thành đạo hoặc những ngày lễ Phật giáo khác.
6- Cho con em gia nhập Gia
đình Phật tử và khuyến khích con em tìm hiểu về Phật giáo.
7- Mỗi ngày làm một (hoặc
hai) việc thiện cho người khác theo nội dung của hạnh Bố thí.
8- Đóng góp tịnh tài (5% thu
nhập) hàng tháng cho chùa hoặc cho các công tác Phật sự.
9- Phổ biến kinh sách, báo
chí, băng giảng, tài liệu, nghệ phẩm Phật giáo đến những người khác.
10- Tôn trọng luật pháp quốc
gia, làm một công dân tốt, sống một cuộc đời lương thiện.
Ba mươi điều trên đây tuy là tối
thiểu, nhưng người viết cho rằng thật khó có thể tự xưng mình là một
Phật tử Việt Nam nếu không biết và không làm những điều đó. Lẽ dĩ
nhiên, nội dung của ba phần Bối Cảnh, Tu học và Hành hoạt có thể thay
đổi tốt hơn, phù hợp hơn với hiện thực của Phật giáo Việt Nam. Cũng lẽ
dĩ nhiên là nếu căn cứ vào 30 điều trên để mở một kỳ thi sát hạch, thì
mười “thí sinh Phật tử” ứng thi, chắc rớt hết chín người rưỡi (95%),
mà người thi rớt đầu tiên và tệ nhất phải là kẻ viết bài nầy.
Tuy nhiên, Phật tử chúng ta thường
tâm nguyện được “ngang tầm thời đại”, cửa chùa chúng ta thường treo
bảng “duy tuệ thị nghiệp”, cha ông chúng ta thường căn dặn “tri hành
hợp nhất”, vậy thì nói cho đúng, 30 điều nầy mới chỉ là hành trang tu
học tối thiểu của một người Phật tử Việt Nam.
Người viết xin đề xuất một dự án:
Ban Hoằng pháp của Giáo hội, phối hợp với một số Tăng Ni và Cư sĩ, thu
thập tài liệu để hoàn thành một “Cẩm Nang của Phật tử Việt Nam”
(Vietnamese Buddhist Handbook [1])
với mục đích và nội dung 30 đề mục nêu trên. Nếu Ban Hoàng Pháp Trung
ương quá bận, thì một hoặc hai vị Tăng hoặc Ni phát tâm làm cũng được.
Cần viết một cách trong sáng, dể hiểu và trình bày khoa học để Phật tử
ai cũng dể dàng tiếp thu được. Và sau một năm làm việc, phát hành tác
phẩm 150-trang nầy với một số lượng rất lớn với giá rất rẽ, để mọi
Chùa và mọi Phật tử có thể mua và dùng tác phẩm gọn gàng cả về hình
thức lẫn nội dung nầy như một chuẩn mực trong đời sống hàng ngày của
người con Phật.
Đến lúc đó, biết đâu ta có thể
trả lời được câu hỏi: Ai là Phật tử Việt Nam xin đưa cuốn Cẩm Nang lên
cao ? Và cuốn Cẩm Nang đó, có bắt đầu bây giờ thì, mười năm nữa, mới
có nhiều Phật tử đưa tay.
Nguyễn Kha
6/2006
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/hoithao_Phattu_conso_connguoi.htm