Tóm tắt bài tham luận:
-------o0o-------
Từ vị trí của người Phật Tử Việt Nam
sinh sống lâu năm tại Nhật Bản và Úc Đại Lợi xin có một số nhận định
về CƠ HỘI và THÁCH THỨC đối với PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI MỚI.
Tinh thần
bất bạo động:
Thánh Mahatma Gandhi thường nói:
Nếu bạo động cứ lấy mắt đổi mắt, răng đổi răng thì ôi thôi cả thế giới
nầy sẽ là địa ngục mù lòa. Chúng ta có lý do để hy sinh cho tổ quốc
hoặc cho một lý tưởng cao đẹp nhưng không có lý do gì để cướp đi mạng
sống của đồng loại hoặc những loài khác. Ngài đã thành công trong công
cuộc tranh đấu giành độc lập cho Ấn Độ trong tinh thần bất bạo động đó.
Sự thiêu thân của
Bồ Tát Thích Quảng Đức đã và đang là ánh hào quang vô ngại soi rọi
thấu suốt những nẽo vô minh tăm tối của con người.
Những cơ hội:
Đức Dalai Lama, biểu tượng của lòng từ bi và khoan dung trong tinh
thần Phật Giáo. Ngài thường nói: Các bạn nên cứu giúp mọi người. Nếu
không có thể thì quý vị đừng nên gây tổn hại cho bất cứ ai.
Sự kiện trọng đại Liên Hiệp Quốc
chính thức công nhận “ngày Phật Đản là một sự kiện vĩ đại của nhân
loại” đồng thời đứng ra tổ chức Đại lễ Phật Đản hằng năm, từ năm 1999
đến nay.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã và đang tranh đấu cho hòa bình Việt
Nam và thế giới. Thầy đã nói “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết
người đi rồi ta ở với ai!”…Hòa
Thượng Tinh Vân (người Trung Quốc) đã có công trong việc hiện đại
hóa, áp dụng sự phát triển của khoa học kỷ thuật tiên tiến nhất vào
các sinh hoạt Phật Giáo trên thế giới.
Hòa Thượng Tuyên Hóa (người Trung Quốc) đã đem lại nếp sinh hoạt
chung sống hài hòa không phân biệt Tôn Giáo, màu da hay chủng tộc.
Pháp Sư Nikkyo Niwano (người Nhật Bản), nhà tranh đấu nỗi tiếng cho
hòa bình thế giới và là nhà lãnh đạo Tôn Giáo thế giới rất được kính
nể.
Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Thế Giới,
Giáo Hội Liên Hửu Phật Giáo Thế Giới và nhiều tổ chức Phật Giáo thế
giới khác cùng những thành tích mà Phật Giáo đã và đang tạo nhiều cơ
hội tốt, tham gia tích cực giải quyết những vấn nạn nan giải của thế
giới hiện nay.
Những thách
thức: Phật Giáo đã và đang tích cực góp phần giải quyết những
thách thức như chiến tranh, khủng bố và kiến tạo hòa bình, bảo vệ môi
trưòng sống của hành tinh, vấn đề toàn cầu hóa, gải quyết nạn nhân mãn
v.v..Những lãnh vực nầy Phật giáo đã phát huy đúng mức vai trò một tôn
giáo lớn trên thế giới.Phật Giáo luôn luôn cứu giúp những nạn nhân bị
hại bởi những thiên tai và những tai hoạ khác ở khắp mọi nơi, để làm
vơi đi những nỗi thống khổ và bất hạnh của họ.
Từ những CƠ HỘI mà Phật Giáo đã và
đang có, để thực hiện những THÁCH THỨC CỦA THỜI ĐẠI MỚI nầy, chúng tôi
xin có những đề nghị như sau:
1/ Tổ chức “NGÀY HỘI ĐA VĂN HÓA, CHUNG SỐNG HÀI HÒA” .
2/ Thành lập “BAN ĐẠI DIỆN LIÊN TÔN GIÁO từng quốc gia và QUỐC TẾ” .
3/ Thành lập “Đặc san LIÊN TÔN GIÁO” tại mỗi quốc gia.
4/ Tổ chức “NGÀY KIẾN TẠO MÔI TRƯỜNG SỐNG” .
5/ Tổ chức “ĐẠI HỘI THANH THIẾU NIÊN PHẬT TỬ TẠI MỖI QUỐC GIA VÀ QUỐC
TẾ”.
6/ Thành lập “TỔNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM” .
7/ Thành lập “CHÍNH ĐẢNG PHẬT TỬ TẠI CÁC QUỐC GIA CÓ ĐÔNG TÍN ĐỒ PHẬT
GIÁO”.
8/ Thành lập “QUỶ TỪ THIỆN PHẬT GIÁO” tại mỗi quốc gia và quốc tế .
9/ Thành lập thêm NHỮNG ĐẠI HỌC PHẬT GIÁO và HỆ THỐNG TRUNG TIỂU HỌC
BỒ ĐỀ tại Việt Nam.
10/ THAM KHẢO VÀ THỰC HÀNH NHỮNG ƯỚC NGUYỆN CỦA PHẬT TỬ.
Nếu dẹp bỏ bản ngã vị kỷ để tiến đến
“NGUYÊN LÝ ĐỒNG NHẤT BẢN THỂ CỦA CUỘC SỐNG” theo tinh thần Vô Ngã,
Bình Đẳng, Từ Bi, Trí Tuệ như lời Phật dạy thì chúng ta không còn lo
có nạn chiến tranh, khủng bố, hay vũ khí nguyên tử nữa.
Nếu được như thế, nhân loại chắc
chắn, vĩnh viễn sống trong hòa hợp, hòa bình, an vui hạnh phúc.
------o0o------
Ý NIỆM VỀ CƠ
HỘI VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI MỚI
Lâm Như Tạng
[i]
------o0o------
Sống trong xã hội Tây Phương trên
30 năm, chúng tôi thường nghe người ta nói về love (thương yêu),
harmony (hòa hợp), multiculture (đa văn hóa), freedom (tự do),
equality (bình đẳng), human rights (nhân quyền), democracy (dân chủ),
plurality (đa nguyên)…
Những năm gần đây thường nghe nói
về vấn đề globalization (Toàn Cầu Hóa).
Nhưng ít khi nghe người ta nói đến
compassion (tình thương yêu rộng lớn), và tolerance (lòng khoan dung
độ lượng).
Hiện nay trên thế giới tình trạng
khủng bố, chiến tranh, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị Tôn Giáo, phá hoại môi
trường sống v.v… đã và đang diễn ra một cách tệ hại chưa có lối thoát.
Từ vị trí của người Phật Tử Việt
Nam sinh sống lâu năm tại Nhật Bản và Úc Đại Lợi xin có một số nhận
định về CƠ HỘI và THÁCH THỨC đối với PHẬT GIÁO TRONG THỜI ĐẠI MỚI.
I - NHỮNG TẤM
GƯƠNG THÀNG CÔNG RỰC RỞ KHI ÁP DỤNG TINH THẦN BẤT BẠO ĐỘNG CỦA PHẬT
GIÁO
A -
Thánh Mahatma Gandhi (1869 – 1948)
Nói đến Gandhi tưởng chúng ta cần
nghĩ đến những cuộc tranh đấu bất bạo động và tinh thần hòa hợp khoan
dung của Ngài.Kết quả là đường lối tranh đấu bất bạo động đó đã thành
công và Ấn Độ đã được tự do độc lâp như ngày nay.
Từ năm 1893 đến 1914 Gandhi đã
tranh đấu cho nhân quyền tại Nam Phi.
Từ năm 1916 đến 1945 tranh đấu cho
sự độc lập của Ấn Độ từ tay đế quốc Anh.
Gia đình Gandhi theo Ấn Độ Giáo,
Gandhi vẫn giữ đạo của mình nhưng Ngài đã xác nhận mình cũng là người
Phật Giáo, ảnh hưởng Phật Giáo rất sâu đậm trong tư tưởng và đường lối
tranh đấu bất bạo động của Ngài.
Gandhi thường nhấn mạnh về chân lý
như sau: “The truth is far more powerful than any weapon of mass
destruction”.Những sự kiện đã và đang diễn ra trên thế giới và ngay
chính những hoạt động của Ngài đã chứng minh điều Ngài nói là hoàn
tòan đúng.Chân lý là sức mạnh vô biên không vũ khí nào có thể phá hủy
được.
Ngài cũng thường nói: “An eye for
an eye makes the whole world blind”.Nếu bạo động cứ lấy mắt đổi mắt,
răng đổi răng thì ôi thôi cả thế giới nầy sẽ là địa ngục mù lòa.
Ngài cũng nói một câu đầy thánh
thiện trong tinh thần bất bạo động như sau: “There are many causes
that I am prepared to die for but no causes that I am prepared to kill
for”.Rỏ ràng câu nói nầy là tinh thần Bồ Tát Đạo của Phật Giáo.Chúng
ta có lý do để hy sinh cho tổ quốc hoặc cho một lý tưởng cao đẹp nhưng
không có lý do gì để lấy mạng sống của đồng loại hoặc những loài
khác.Đó là những nguyên tắc căn bản về tinh thần bất bạo động của Ngài.
Những kinh nghiệm trong lịch sử thế
giới từ xưa đến nay những kẻ độc tài tàn bạo có binh hùng, tướng giỏi,
phương tiện chiến tranh đầy đủ, vũ khí hiện đại khủng khiếp nhưng cuối
cùng phải khuất phục, chịu thua trước sự tranh đấu dũng cảm, bất bạo
động và đoàn kết của con người.
Gandhi đã thành công trong công
việc vĩ đại là giải phóng Ấn Độ khỏi ách thống trị của đế quốc Anh,
đưa nước Ấn đến độc lập, hòa bình, thịnh vượng.
Tinh thần bất bạo động của Phật
Giáo đã thành công.
B - Bồ
Tát Thích Quảng Đức (1897 – 1963)
- Ngài vị pháp
thiêu thân ngày 11-6-1963 tại ngã tư đường Phan Đình Phùng, Lê Văn
Duyệt, Sài Gòn.Ngày hôm sau hầu hết các báo tại Hoa Kỳ, Âu Châu, và
khắp nơi trên thế giới đều sửng sốt, tôn kính đưa tin về sự kiện vĩ
đại đó.
- Theo tài liệu
nghiên cứu của Đại học Missouri State University tại Hoa Kỳ thì:
- Báo chí trên
thế giới tường thuật, họ thấy ngài tự bật diêm châm lửa và vẫn ngồi
trong tư thế hoa sen (ngồi kiết già) cho đến khi ngọn lửa bùng lên và
xác nhận ngài đã viên tịch vẫn trong tư thế ngồi ấy.Một hiện tượng mà
từ xưa đến nay họ chưa từng thấy bao giờ.Một tấm lòng dũng cảm vô úy,
chỉ có nơi Bồ Tát đắc đạo mới có thể ung dung bình tỉnh thánh thiện
như vậy.
- Sau đó nhà
thơ Vũ Hoàng Chương đã viết trong bài Lửa Từ Bi như sau:
“ Lửa !”
“Lửa cháy ngất tòa sen
Tám, chín phương nhục thể , trần tâm
hiện thành thơ, qùy cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông, Tây nhòa lệ ngọc
Chấp tay đón một mặt trời mới mọc
Ánh đạo vàng phơi phới đang bừng lên
dâng lên
Ôi đích thực hôm nay trời có mặt
Giờ là giờ Hoàng Đạo nguy nga
Muôn vạn khối sân si đều mở mắt
Nhìn nhau tình huynh đệ bao la …”
Đúng như vậy, những thế lực vô minh,
sân si đã được ánh sáng từ bi, trí tuệ của Ngài soi rọi.Vô minh, sân
si đã tan biến chỉ nhường lại cho Tình Huynh Đệ bao la nở rộ dưới ánh
hào quang của Phật Pháp.
Trong bài Kệ Thiêu Thân của Bồ Tát
Quảng Đức có những câu:
“ Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẽo vô minh…”
Ngài đã nguyện hy sinh thân mạng để
làm đèn soi sáng nẽo “vô minh” của con người.Vô Minh là cội nguồn sinh
tử, là nguyên nhân sâu xa nhất của dục vọng, của chiến tranh, của hân
thù khủng bố, của những ác chứng thời đại.
Nếu thắp sáng “vô minh”, thì “vô
minh sẽ tan biến”, con người sẽ có hạnh phúc vĩnh cửu không còn khổ
đau nữa.
Kể từ sau cuộc tự thiêu của Ngài,
hàng triệu triệu người trên toàn thế giới đã hưởng ứng lời kêu gọi của
Ngài, đã đứng lên tranh đấu bất bạo động đòi chấm đứt chiến tranh tại
Việt Nam.
Kết quả là quân đội ngoại quốc đã
rút khỏi Việt Nam, tiến đến Việt Nam đã có hòa bình thống nhất đất
nước.Đồng thời nhiều nơi khác trên thế giới cũng đã tranh đấu theo
phương thức bất bạo động trong tinh thần Quảng Đức và họ đã đạt được
những thắng lợi sau cùng.
Như vậy tinh thần từ bi bất bạo
động của Phật Giáo đã và đang là phương châm chủ đạo tích cực đưa đến
hòa bình cho nhân loại.
II - NHỮNG CƠ HỘI
A- Đức DALAI LAMA, biểu tượng của lòng Từ bi và khoan dung trong
tinh thần Phật giáo
Từ năm 1959 sau khi Đức Dalai Lama
rời khỏi Tây Tạng đến Ấn Độ, sau đó ngài đi chu du khắp thế giới để
thuyết giảng về giáo lý của Đức Phật.Từ đó tòan thể nhân loại trên thế
giới chú tâm hơn, tìm về với Phật Giáo ngày càng tăng.Nhất là tại các
nước phương tây.
Theo công trình nghiêng cứu của
giáo sư Eric Sharp thuộc đại học Sydney, Australia, trong số những
thánh nhân của thế giới trong thế kỷ 20, có Mahatma Ghandi (1869-1948)
… và một vị còn sống đó là Đức Dalai Lama thứ 14 hiện tại.
Ủy ban hòa bình Na Uy trong quyết
định trao giải Nobel Hòa Bình cho ngài có đoạn viết: “Ủy ban muốn nhấn
mạnh rằng Đức Dalai Lama với sự đấu tranh cho tự do cho Tây Tạng vẫn
kiên quyết không sử dụng bạo lực.Ngài đã ủng hộ giải pháp hòa bình dựa
trên tinh thần khoan dung và tôn trọng lẫn nhau để bảo vệ lịch sử và
tài sản văn hóa của con người”.
Ngày 10-12-1989 trong buổi lễ nhận
giải thưởng tại Na Uy Ngài đã nói: “Giải thưởng đã tái xác nhận một
lần nữa lòng quyết tâm của chúng tôi rằng chân lý, lòng dũng cảm và
quyết tâm của chúng tôi như là những vũ khí, Tây Tạng sẽ được tự
do.Cuộc đấu tranh của chúng tôi vẫn phải theo đuổi đường hướng bất bạo
động và loại bỏ hận thù”.
Trên thế giới hiện nay mọi người
đều cung kính Đức Dalai Lama như là vị lãnh đạo tinh thần tối cao của
Phật Giáo.Ngài đã có công đầu trong việc tranh đấu cho hòa bình nhân
loại.Ngài thường kêu gọi trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc là tất cả các
nước hãy hủy bỏ tất cả vũ khí nguyên tử và những vũ khí sát thương
hàng loạt khác.Thực hành hòa giải hòa hợp giữa các dân tộc và tôn giáo
để đem lại hòa bình vĩnh cửu và hạnh phúc toàn vẹn cho nhân loại.
Nhờ cơ hội Phật Giáo chúng ta có
Đức Dalai Lama, được tòan thể nhân loại không phân biệt tín ngưỡng,
chủng tộc, kính trọng Ngài như là vị Phật sống, nên những lời kêu gọi
vận động của Ngài cho sự hòa giải hòa hợp chung sống hòa bình trên thế
giới rất hữu hiệu.
B- Liên Hiệp
Quốc chính thức công nhận ngày Phật Đản và đứng ra tổ chức Đại lễ Phật
Đản hằng năm
Năm 1999, đại diện chính quyền Sri
Lanka tại Liên Hiệp Quốc, được 20 nước ủng hộ, đã kêu gọi Liên Hiệp
Quốc công nhận ngày Phật Đản.Sau đó chính cơ quan Quốc Tế nầy đã công
nhận ngày Đức Phật xuất thế là một sự kiện trọng đại của thế giới và
đã quyết định đứng ra tổ chức lễ Phật Đản hàng năm.
Từ năm 2004 đến nay chính phủ Thái
Lan đã thỉnh cầu Liên Hiệp Quốc, hằng năm, tổ chức lễ Phật Đản tại
Thái Lan.
Điều đó nói lên tầm quan trọng của
Phật Giáo đối vớí nhân loại về những phương diện như lòng từ bi, khoan
dung, tinh thần bất bạo động, sự chung sống hòa bình giữa các dân tộc
không phân biệt chủng tộc, Tôn Giáo, màu da hay phái tính.
Tinh thần bất bạo động , từ bi,
khoan dung trong Phật Giáo được đặc biệt coi trọng như những phương
cách hửu hiệu diệt trừ những nguyên nhân sâu xa gây ra chiến tranh,
khủng bố.
C- Những nhân vật
và những Giáo Hội nỗi tiếng trên thế giới có công truyền bá Phật Pháp
và duy trì hòa bình
- Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh
Từ những sáng tác và công tích mà
Thiền Sư đã vận động hòa bình cho Việt Nam, Mục Sư Martin Luther King,
Jr., người tranh đấu cho nhân quyền nỗi tiếng thế giới tại Hoa Kỳ, đã
đề cử Thiền Sư Nhất Hạnh ứng viên cho giải thưởng Nobel hòa bình năm
1967.Mục Sư đã nói “Tôi không biết được một ai xứng đáng hơn vị tăng
sĩ lỗi lạc từ Việt Nam nầy” (I know of no one more worthy … than this
gentle monk from Vietnam).
Những cuộc vận động hòa bình,
thuyết giảng về Phật Pháp (thầy thường giảng về phương pháp thực hành
Chánh Niệm và Quán Niệm Hơi Thở), viết và xuất bản nhiều sách rất nổi
tiếng về Phật Giáo, cũng như tổ chức những thiền viện khắp mọi nơi
trên thế giới, hướng dẫn nhiều người tu tập của Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh (có trụ sở là Làng Mai tại miền nam nước Pháp) rất được thế giới
Phương Tây hâm mộ, kính nể một vị tăng sĩ Việt Nam.tài ba đức độ.
Thiền Sư Nhất Hạnh là một trong
những vị có công lớn trong việc truyền bá Phật Giáo Việt Nam vào các
nước Tây Phương.
Từ những năm chiến tranh Việt Nam
đang diễn ra khốc liệt, thầy đã viết những lời ca như: “kẻ thù ta đâu
có phải là người, giết người đi rồi ta ở với ai”, “kẻ thù ta tên nó là
hung ác, kẻ thù ta tên nó là bạo tàn” v.v…
Đó là những thông điệp, tư tưởng
nhân bản, hòa bình đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi tầng ớp người Việt
Nam và thế giới, nó cổ động tích cực cho sự chung sống thương yêu hòa
hợp không phân biệt tôn giáo, màu da hay chủng tộc.
- Hòa
Thượng Tinh Vân (người Trung Quốc)
Những hoạt động truyền bá Giáo Lý
Phật Giáo của Phật Quang Sơn do Hòa Thượng Tinh Vân sáng lập (năm
1967) và lãnh đạo tại Đài Loan đã có trên 120 chi nhánh khắp thế giới
rất được tòan thế giới ngưỡng mộ, kính trọng và quan tâm.
Tổ đình Phật Quang Sơn tại Đài Loan
có thể nói là một trong những quần thể tự viện Phật Giáo vĩ đại, tiên
tiến, hiện đại nhất trên thế giới về mặt khoa học kỷ thuật hiện
nay.Giáo Hội nầy đã thành lập nhiều cơ sở đồ sộ hiện đại khác trên
khắp thế giới.
Tại Úc Đại Lợi, Giáo Hội đã thành
lập chùa Nam Thiên trên một diện tích 26 hect-ta, một quần thể gồm
nhiểu tòa lầu liên kết nhau có chánh điện và các tòa lầu đông tay nam
bắc, có tháp 9 tầng, hồ sen , khách sạn, thư viện, nhiều giảng đường,
viện bảo tàng, thiền đường, hội trường hội nghị quốc tế có đủ tiện
nghi hiện đại tầm cở quốc tế v.v… Đây là một ngôi chùa vĩ đại nhất và
hiện đại nhất về phương diện kiến trúc, áp dụng khoa học kỷ thuật tiên
tiến nhất tại nam bán cầu hiện nay.
Hòa Thượng Tinh Vân thường nói:
“Phật Giáo phải là hiện đại, tiến bộ và sinh động, nó không phải là
một bức tranh u sầu, ảm đạm và buồn chán.Phật Giáo cần có giới trẻ và
giới trẻ cũng cần có Phật Giáo”.
Ngài là một trong những vị có công
đầu trong việc áp dụng những phương tiện khoa học kỷ thuật tiên tiến
nhất hiện đại nhất vào những sinh hoạt Phật Giáo ngày nay.
- Hòa Thượng Tuyên Hóa (người Trung Quốc) (1918-1995)
Vạn Phật Thánh Thành do Hòa Thượng
Tuyên Hóa thành lập (1974) tại Hoa Kỳ và nhiều chi nhánh tại các nước
khác là một trong những Giáo Hội rất nỗi tiếng tại các nước phương tây
đã có công kiến tạo môi trường chung sống hòa hợp không phân biệt Tôn
Giáo và chủng tộc.
Trong khuôn viên Vạn Phật Thánh
Thành tại California rộng 488 mẫu đất có trên 70 tòa lầu cao lớn hiện
đại, có đủ tiện nghi cho trên 20000 người cư trú tu học.Ngài đã áp
dụng Lục Đại Tông Chỉ để làm phương châm điều hành trung tâm nầy như
sau: không tranh, không tham, không tìm cầu, không ích kỷ, không mưu
cầu tự lợi, và không nói dối.
-
Pháp Sư Nikkyo Niwano (người Nhật Bản) (1906-1999)
Giáo Hội Phật Giáo Rissho Kosei-Kai
do pháp sư Nikkyo Niwano sáng lập và lãnh đạo.Pháp sư Nikkyo Niwano là
một nhà lãnh đạo Phật Giáo thế giới rất nỗi tiếng đã có công vận động
hòa bình cho thế giới nhiều thập niên qua.
Tháng 4 năm 1972, Pháp Sư là người
Nhật đầu tiên được bầu làm chủ tịch Hiệp Hội Tôn Giáo và Hòa Bình Thế
Giới (WCRP).Với chức vụ nầy và nhiều chức vụ lãnh đạo Tôn Giáo thế
giới và Nhật Bản Ngài đã tích cực vận động cho hòa bình thế giới trong
đó Việt Nam.
Hiện
tại Phật Giáo đang phát triễn rất mạnh trên khắp thế giới.Số tín đồ
qui y theo Phật Giáo có số phần trăm tăng trưởng lớn nhất so với sự
tăng trưởng của các tôn giáo khác.
D- Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Thế Giới
Trên thế giới hiện nay có Giáo Hội
Tăng Già Phật Giáo Thế Giới (The World Buddhist Sangha Council – WBSC,
Địa chỉ liên lạc của hội tại Taipei, Đài Loan), do chư Tăng lãnh
Đạo.Giáo Hội nầy được thành lập vào tháng 5 năm 1966 tại Colombo, Tích
Lan.
Trong những phương châm hoạt động
có ghi : “Tán thành, ủng hộ mọi hoạt động về tự do và hòa bình cho thế
giới qua đóng góp của Tăng Già”.Giáo hội có chừng 123 chi nhánh tại 39
quốc gia trên khắp các châu lục.
E- Giáo Hội Liên Hửu Phật Giáo Thế Giới
Giáo Hội Liên Hửu Phật Giáo Thế
Giới (The World Fellowship of Buddhists – WFB, địa chỉ liên lạc của
Giáo Hội tại Bangkok, Thái Lan), do cư sĩ lãnh đạo.
Giáo Hội nầy được thành lập ngày
25-5-1950 tại Tich Lan.Mục tiêu hoạt động của Giáo Hội gồm 5
điểm.Trong đó điểm thứ hai có ghi: “Siết chặc tình hửu nghị, đoàn kết
và thống nhất giữa các quốc gia Phật Giáo.” Điểm thứ tư: “Tổ chức và
đưa các hoạt động Phật sự vào trong các lĩnh vực xã hội, giáo dục, văn
hóa.” Điểm thứ năm: “Mang lại hòa bình, an lạc và hạnh phúc đến cho
hành tinh nầy và sẵn sàng liên kết với những tổ chức khác có cùng
đường hướng.” …
Giáo Hội đã thành lập được 135 chi
nhánh tại 40 quốc gia trên khắp các châu lục.
Năm 1970 Giáo Hội nầy được UNESCO
của Liên Hiệp Quốc thừa nhận là một tổ chức phi chính phủ, trở thành
thành viên thường trực trong ban cố vấn của UNESCO trong vấn đề giáo
dục, văn hóa, xã hội theo quan điểm của Phật Giáo.
Đó là hai Giáo Hội Phật Giáo Thế
Giới có tầm cở lớn nhất và số thành viên đông nhất và có uy thế lớn
nhất của Phật Giáo trên thế giới hiện nay.
Phật Giáo trên khắp thế giới đã áp
dụng những kỷ thuật tin học hiện đại, truyền thông đại chúng tiên tiến,
kỷ thuật in ấn, xuất bản tân tiến nhất vào việc truyền bá Phật Pháp
rất hửu hiệu.
Phật Giáo đã được các tôn giáo lớn
và toàn thể nhân loại trên toàn cầu xem như là một tôn giáo ôn hòa,
không hề gây chiến tranh với các tôn giáo khác.
Tất cả đó là những CƠ HỘI rất tốt
để Phật Giáo có thể đạt đến những THÁCH THỨC góp phần giải quyết những
khủng hoảng, những nan đề nhất trên thế giới hiện nay.
III- NHỮNG THÁCH
THỨC MÀ PHẬT GIÁO ĐÃ VÀ ĐANG TÍCH CỰC GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT
A - Chiến tranh,
khủng bố và hòa bình
- Nói về chiến tranh thì từ xưa đến
nay có những loại chiếntranh như:
- Chiến tranh giữa các bộ tộc,
chiếm đoạt lãnh thổ, thành lập quốc gia..
- Chiến tranh giành thuộc địa.
- Chiến tranh giành thi trường.
- Chiến tranh giải phóng, giành độc
lập.
- Chiến tranh ý thức hệ, bành
trướng chủ nghĩa.
- Chiến tranh Tôn Giáo.
- Chiến tranh lạnh.Chiến tranh nóng
v.v...
Chiến tranh sẽ
không còn nữa nếu ta thương yêu người khác, tôn trọng mạng sống người
khác như tôn trọng mạng sống của chính bản thân mình.Nói rộng ra là
các dân tộc khác không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, thương
yêu nhau, tôn trọng mạng sống của nhau như tôn trọng mạng sống của
chính mình.Thương yêu mọi người như thương kính cha, mẹ ta, thương yêu
mọi người như thương yêu anh em ruột cùng một nhà, như thương yêu vợ,
chồng, con ta, tôn trọng tự do căn bản của mỗi người trong đó có sự tự
do theo một tôn giáo nào hay tự do chuyễn đổi tín ngưỡng, tôn giáo mà
họ đang theo…
Mọi người tôn trọng chính kiến
của nhau.Chia đều những lợi lộc mà ta đang và sẽ được thừa hưởng.Cố
gắng giải quyết những tranh chấp dù là tranh chấp về bất cứ vấn đề nào
bằng đường lối thảo luận tìm phương cách giải quyết trong ôn hòa không
dùng bạo lực.
Không một dân tộc hay một tôn
giáo nào vì sự bành trướng ảnh hưởng, mở rộng đất đai, hay nhân danh
bảo vệ hạnh phúc cho riêng dân tộc mình, tôn giáo mình mà áp bức những
người khác phải tuân thủ những nguyên tắc do mình đưa ra.
Nếu tất cả chúng ta, những người
đang sống chung trên hành tinh nầy mà tôn trọng những nguyên tắc như
vừa nêu trên thì chúng ta vĩnh viễn sống trong hòa bình không còn
chiến tranh hay bị khủng bố nữa.
Khi đã chắc chắn những nguyên
nhân gây chiến tranh, khủng bố không còn nữa thì những vũ khí nguyên
tử, vũ khí sát thương hàng loạt cần phải hoàn toàn hũy bỏ vì không còn
cần thiết phải giử lại chi nữa.Chúng ta sẽ vĩnh viễn sống trong hòa
bình.
B - Bảo vệ môi
trưòng sống của hành tinh
Tất cả nhân loại
chúng ta đều ý thức rằng hành tinh của chúng ta đang sống đây chính là
khu vườn, là nhà cửa, là hương, là hoa, là bóng mát, là không khí, là
nước ngọt để ta uống hằng ngày thì không một ai quên trách nhiệm phải
bảo vệ môi trường sống của chúng ta cả.
C - Vấn đề
toàn cầu hóa, giải quyết nạn nhân mãn
Toàn cầu hóa là
chúng ta đang kiến tạo một đại gia đình trên hành tinh của chúng ta.
Khoa học kỷ thuật
phát triễn cao độ cho chúng ta những phương tiện truyền thông rất hiện
đại tiện lợi siêu cao tốc, giao thông tiện lợi nhanh chóng v.v…Những
điều đó đưa con người trên hành tinh nầy đến gần nhau hơn, truyền đạt
tin tức, ý tưởng nhanh chóng và chính xác hơn.Những vấn đề giao lưu
được giải quyết nhanh chóng hơn.Thế nhưng tất cả những quyền tự do căn
bản của con người phải được tuyệt đối tôn trọng.Kế đến là những món
lợi về kinh tế phải được phân phối một cách đồng đều và hợp lý.
Nạn nhân mãn phải
được tiêu trừ một cách có khoa học.Vì những nước nghèo, kém mở mang
lại là những nơi có sinh suất cao.Những nơi đó chậm phát triễn, nhân
lực còn là sức lao động chính để tạo ra của cải và no ấm cho gia đình
họ.Do đó việc sinh nhiều con như là một phương cách giúp họ làm tăng
sức lao động của họ.Bởi lẽ đó đã góp phần làm tăng nạn nhân mãn.Các
nước giàu, tiên tiến cần phải ra sức giúp đở những nước nghèo kém mở
mang mới mong giải quyết được vấn nạn nầy.
D - Vai trò
của các Tôn Giáo
Tôn Giáo nào cũng
có mục tiêu là đem lại hạnh phúc cả phương diện vật chất và tinh thần
cho con người.Giúp con người giải thoát khỏi những khổ đau ràng buộc
họ.
Thế nhưng trong quá
khứ và đang diễn tiến đến hiện tại, có những người khi hăng say đi
giảng đạo khuyên mọi người thực hành giải thoát khỏi khổ đau để được
hạnh phúc, họ lại rơi vào tình trạng là đi bành trướng Tôn Giáo của
họ.Họ muốn Tôn Giáo mình phải có nhiều người theo, phải tranh dành đất
sống riêng, thậm chí vỏ trang tranh đấu để lập ra quốc gia riêng cho
Tôn Giáo mình.
Những người nào dám
cải đạo để theo Tôn Giáo khác sẽ bị họ trù dập, xử cho những bản án
nghiêm trọng, nặng nề nhất, hoặc có những hình phạt dã man v.v… Như
thế là những người đó đã nhân danh bảo vệ và phát triển Tôn Giáo mình,
tức là có đầu óc bè nhóm, mong cầu lợi lộc riêng cho Tôn Giáo mình mà
cướp đoạt đi tự do của người khác, khiến những người bị hại đó đau khổ
bởi sự ràng buộc, bức bách triền miên.Vì tình trạng như thế khiến cho
thảm trạng thánh chiến, khủng bố, chiến tranh bùng nổ với những lý do
là để bảo vệ Tôn Giáo mình chống lại kẻ thù.
Chiến tranh Tôn
Giáo từ đó đã xảy ra triền miên khó chấm dứt.
Nhóm người nầy vì
suy nghĩ nông cạn đã đánh mất mục tiêu cao thượng của Tôn Giáo là phải
giúp con người mưu cầu hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau.
Như trên đã dẫn
chứng Phật Giáo là Tôn Giáo lấy Từ Bi, Trí Tuệ, bất bạo động làm
phươnng châm hành đạo để đưa con người đến hạnh phúc, an vui.Do đó
Phật Giáo luôn luôn tỉnh thức góp phần giải quyết những vấn nạn của
thời đại một cách hửu hiệu.Người Phật Tử luôn luôn theo lời Phật dạy
là thương yêu tất cả muôn loài.Tôn trọng mạng sống của tất cả chúng
sinh.Luôn luôn hành Bồ Tát Đạo quên mình mà tìm mọi phương tiện để tạo
hạnh phúc cho con người.Thương yêu đồng loại, đoàn kết, giúp mọi người
giải thoát khỏi khổ đau để mưu cầu hạnh phúc.
Lịch sử đã chứng
minh Phật Giáo đã và đang đóng góp đem lại hòa bình, hạnh phúc cho
nhân loại.Phật Giáo tuyệt đối không gây ra chiến tranh Tôn Giáo.Không
gây ra khủng bố.Không phá hoại môi trường hay giành đất sống riêng cho
Tôn Giáo mình.Phật Giáo đi đến đâu là hòa mình với các Tôn Giáo khác
một cách hài hòa và nhân ái.Phật Giáo đã chung sống hài hòa với các
Tôn Giáo mới du nhập vào những nơi mà Phật Giáo đã có mặt lâu đời.
Bởi những lý do nêu
trên Phật Giáo đã và đang tích cực góp phần giải quyết hửu hiệu những
vấn nạn nan đề của thời đại mới hiện nay.
IV - NHỮNG ĐỀ
NGHỊ:
Từ những CƠ HỘI mà
Phật Giáo đã và đang có, để thực hiện những THÁCH THỨC CỦA THỜI ĐẠI
MỚI nầy, chúng tôi xin có những đề nghị như sau:
1/ NGÀY HỘI ĐA VĂN HÓA, CHUNG SỐNG HÀI HÒA
Phật Tử chúng ta
hãy vận động tại mỗi quốc gia tổ chức NGÀY LỄ HỘI ĐA VĂN HÓA, CHUNG
SỐNG HÀI HÒA.Mỗi cộng đồng sắc tộc tham gia vào các tiết mục văn nghệ,
trình diễn những văn hóa đặc thù của mỗi sắc tộc mình.Tạo môi trường
thuận lợi gần gủi các sắc tộc, các Tôn Giáo khác nhau để gây tình đòan
kết, thông cảm, hòa giải những dị biệt để cùng chung sống hòa bình.
Tổ chức hội thảo, giao lưu văn
hóa, tìm hiểu phong tục tập quán của các cộng đồng cùng chung sống
trên một quốc gia.Tổ chức những tiết mục có nội dung cần thiếc cho sự
chung sống hài hòa.
Tại Úc Đại Lợi họ đã chọn ngày
21-3 dương lịch hàng năm để tổ chức những lễ hội CHUNG SỐNG HÀI HÒA
trên tòan quốc rất thành công.Do đó mà xã hội Úc tránh được những nạn
kỳ thị chủng tộc và Tôn Giáo, đồng thời cũng tránh được những tác động
xấu có thể gây ra tai họa khủng bố, chiến tranh.
2/ BAN ĐẠI DIỆN LIÊN TÔN GIÁO từng quốc gia và QUỐC TẾ
- Phật Tử đứng ra vận động thành
lập Ban Đại Diện Liên Tôn Giáo
(từng quốc gia), tổ chức hội nghị liên tôn giáo (2 năm một lần) tại
mỗi quốc gia để hội thảo, trao đổi ý kiến, tìm ra những điểm bất đồng
quan điễm về nhiều mặt giữa các tôn giáo, các sắc tộc.Đúc kết những ý
kiến và đề ra những phương án giải quyết những xung đột tôn giáo, sắc
tộc (nếu có) hoặc những vấn đề của quốc gia có liên quan đến Tôn Giáo,
gởi đến chính quyền trung ương và địa phương đề giải quyết.
- Thành lập
Ban Đại Diện Liên Tôn Giáo
Thế Giới, tổ chức đại hội quốc tế (4 năm một
lần) giữa các đại diện các Tôn Giáo, hội thảo những đề tài trọng điểm
liên quan đến những vấn đề cấp bách của thế giới phải trực diện giải
quyết.Tìm ra những quan điểm dị, đồng giữa các tôn giáo, các sắc tộc,
đề ra phương hướng giải quyết chung.Đúc kết ý kiến và những phương án
giải quyết vấn đề gởi đến các chính quyền quốc gia liên hệ, các cơ
quan Liên Hiệp Quốc liên hệ.
- Mục đích là thông
tin, hòa giải và hòa hợp, tương kính lẫn nhau, hiểu biết nguyện vọng
của nhau để cảm thông, đòan kết, giúp đở nhau duy trì hòa bình và
thịnh vượng chung cho nhân loại.
- Ban Đại Diện Liên Tôn
Giáo Thế Giới nên cử phái đoàn đến những điểm
nóng trên thế giới đang có tranh chấp để tìm phương cách hòa giải
trong tinh thần hài hòa tương kính lẫn nhau.
3/ Đặc san LIÊN TÔN GIÁO tại mỗi quốc gia .
- Xuất bản tờ Đặc
San Liên Tôn Giáo tại mỗi quốc gia.Mỗi Tôn Giáo cử đại diện vào ban
biên tập của tờ báo, phát hành định kỳ 3 tháng một lần.
- Mỗi tôn giáo viết
bài bất cứ thể loại nào về tôn giáo mình để đóng góp cho tờ báo, nói
lên lập trường và đưa ra những phương án giải quyết tất cả những vấn
đề có liên quan đến các Tôn Giáo, hướng đến sự hài hòa chung sống hòa
bình.
4/ NGÀY KIẾN TẠO MÔI TRƯỜNG SỐNG
- Chọn một ngày
thích hợp trong năm, động viên mọi tầng lớp người tham gia làm sạch
biển, sông, công viên, đường phố v.v… và trồng cây, hoa nơi thích hợp
để làm tốt môi trường sống của chúng ta.
- Trường hợp nầy đề
nghị BAN ĐẠI DIỆN LIÊN TÔN GIÁO tại mỗi quốc gia vận động quần chúng
tích cực tham gia ngày nầy.
5/ ĐẠI HỘI THANH THIẾU NIÊN PHẬT TỬ TẠI MỖI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ
Tại mỗi quốc gia,
Giáo Hội Phật Giáo nên tổ chức ngày đại hội thanh thiếu niên Phật Tử
(2 NĂM MỘT LẦN).
Trên thế giới, kêu
gọi các Giáo Hội Phật Giáo Thế Giới liên kết để tổ chức đại hội thanh
thiếu niên Phật Tử định kỳ (4 NĂM MỘT LẦN) và luân phiên tại mỗi quốc
gia.
Vào ngày 13
tháng 4 năm 2006 tại Hàng Châu Trung Quốc đã tổ chức hội thảo quốc tế
về đề tài: “Một thế giới hài hòa khởi sự từ nội tâm”, có trên một ngàn
vị học giả gồm cả Tăng Ni, các giáo sư, tiến sĩ, chuyên viên từ trên
30 quốc gia về tham dự. Đại hội bế mạc tại Châu Sơn (gần Hàng Châu)
ngày 16 tháng 4.
Đây là đại hội Tôn
Giáo quốc tế lớn nhất kể từ khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc lên nắm chính
quyền tại Trung Hoa.
6/ TỔNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Trên phương diện
quốc tế đã có GIÁO HỘI TĂNG GIÀ PHẬT GIÁO THẾ GIỚI do tăng sĩ lãnh
đạo.
GIÁO HỘI LIÊN HỬU
PHẬT GIÁO THẾ GIỚI do cư sĩ lãnh đạo.
Tại mỗi quốc gia nên theo đó mà tổ
chức.Như vậy mới phát huy toàn năng lưc của Phật Tử trên mọi lãnh vực
kể cả lãnh vực chính trị.Mục đích là đoàn ngủ hóa tầng lớp Phật Tử tại
gia để hậu thuẩn cho tầng lớp Phật Tử có năng lực có chổ dựa để tham
gia mọi lãnh vực của quốc gia kể cả thành lập đảng chính trị trên lập
trường Phật Giáo.
Trường hợp Việt Nam
nên chấp nhận thực trạng có nhiều Giáo Hội.Hiện tại có GIÁO HỘI PHẬT
GIÁO VIỆT NAM, GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT.
Hàng Phật Tử Tại
Gia nên đứng ra thành lập GIÁO HỘI PHẬT GIÁO LIÊN HỬU do Phật Tử tại
gia đứng ra lãnh đạo, điều hành.Vì nếu Giáo Hội nào cũng do Tăng Ni
lãnh Đạo thì hàng Phật Tử tại gia sinh ra ỷ lại vào Tăng Ni không thể
phát huy toàn diện năng lực của họ.Thêm nữa là có những lãnh vực mà
chỉ có Phật Tử tại gia mới có thể tham gia hoạt động một cách tích cực
được.Chư Tăng Ni bị hạn chế bởi giới luật của hàng xuất gia thanh tịnh
không thể tham gia vào tất cả những sinh hoạt thế tục.
Cả ba Giáo Hội nầy
nên họp lại thành lập TỔNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM.Giáo hội nầy
chỉ làm công việc cố vấn, và góp ý giải quyết những sự bất hòa trong 3
Giáo Hội trên.Những quyết định của Giáo Hội nầy chỉ có tính cách cố
vấn, hòa giải, không có tính cách cưỏng chế bắt buộc các đương sự phải
khuất phục tuân theo.Vì những tranh chấp có tính cách nghiêm trọng đã
có luật pháp quốc gia giải quyết.
7/ CHÍNH ĐẢNG PHẬT TỬ TẠI CÁC QUỐC GIA CÓ ĐÔNG TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO
Tại các quốc gia có đông tín đồ
Phật Giáo nên:
Vận động thành lập
một chính đảng (khi có thể được) để quy tụ Phật Tử có năng lực tham
gia vào lãnh vực chính trị quốc gia, phản ảnh trung thực nguyện vọng
của đa số dân chúng , góp phần hửu hiệu trong việc kiến tạo môi trường
sống, hòa giải hòa hợp giữa những nhóm sắc tộc, Tôn Giáo, những bất
đồng chính kiến để tạo ra môi trường tốt cho việc chung sống hòa bình,
diệt trừ những mầm móng chia rẽ, bất hòa, hiểu lầm có thể là những
nguyên nhân gây ra nạn kỳ thị, khủng bố, chiến tranh.
Trường hợp Nhật Bản
đã có chính đảng Phật Tử, tiếng Nhật gọi là Komeito (Đảng Công Minh),
thành lập năm 1964.Hiện nay đảng nầy đứng hàng thứ ba sau đảng Tự Do
Dân Chủ (đảng cầm quyền) và đảng Xã Hội.
8/ THÀNH LẬP QUỶ TỪ THIỆN PHẬT GIÁO tại mỗi quốc gia và quốc tế
Mỗi Giáo Hội Phật
Giáo tại mỗi quốc gia và quốc tế nên thành lập QUỶ TỪ THIỆN.
Qua QUỶ TỪ THIỆN
nầy chư Tăng Ni và hàng cư sĩ Phật Tử có nhiều cơ hội để gần gũi tầng
lớp người nghèo khổ ở khắp mọi nơi, từ thành thị đến thôn quê, từ
người Kinh đến các bộ tộc ít người sống những nơi rừng núi xa nền văn
minh của nhân loại.
Phật Tử đem tình
thương và những nhu cầu thiết yếu để cứu giúp những người cần chúng ta
giúp đở về phương diện vật lực và trí lực.Giúp họ mưu cầu hạnh phúc,
thoát khỏi khổ đau.
9/ NHỮNG ĐẠI HỌC PHẬT GIÁO và HỆ THỐNG TRUNG TIỂU HỌC BỒ ĐỀ
A- Thành lập ủy ban vận động kiến
tạo thêm 3 Đại Học Phật Giáo tại Việt Nam:
Đại Học Phật Giáo tại Cấn Thơ
Đại Học Phật Giáo tại Huế
Đại Hoc Phật Giáo tại Hà Nội
Tại Việt Nam trong
tương lai tối thiểu phải thành lập thêm 3 đại học nói trên.Hiện nay
Phật Giáo đang tái kiến tạo Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn.Nhưng theo
nhu cầu giáo dục và truyền bá giáo lý Phật Đà cần được phổ cập đến mọi
tầng lớp người Việt vì nó sẽ đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho mọi
người.
Trường hợp Nhật Bản
hầu hết những đại học công lập như Đại học Tokyo, Đại học Kyoto
v.v..đều có phân khoa Phật học.Ngoài ra mỗi Tông phái đều có đại học
Phật Giáo riêng.Các nước tiên tiến khác cũng tổ chức giáo dục tương tợ
như thế.
Đề nghị các tổ chức
Phật Giáo Việt Nam và Phật Tử trên khắp thế giới hổ trợ cho những công
trình xây dựng đại học nêu trên.
B- Vận động phục
hoạt hệ thống Trung, Tiểu Học Bồ Đề
- Vấn đề giáo
dục hay bấc cứ lãnh vực nào trong xã hội cũng phải có các thành phần
đối lập mới phát triển tốt và tự kiểm soát lẫn nhau để tránh tình
trạng độc quyền tiến đến những tệ nạn và thoái hóa.
Trong lãnh
vực giáo dục cũng phải có hệ thống trường tư song song với hệ thống
trường công.Cả hai phải tự do cạnh tranh với nhau mới phát triển tốt,
tiến bộ và bền vững.
- Trong chương
trình trung học của các lớp 10, 11, 12 nên dạy những môn tâm lý nam,
nữ, chọn bạn đời, trong thời kỳ yêu đương trước khi lập gia đình, sinh
hoạt và trách nhiệm của người vợ, người chồng, kinh nghiệm và phương
pháp nuôi dạy con … Làm thế nào để kiến tạo một mái ấm gia đình hạnh
phúc, thịnh vượng…
- Bởi lẽ đó đề
nghị Phật Tử tích cực vận động tái phục hoạt hệ thống Trung Tiểu Học
Bồ Đề tại Việt Nam.
10/ THAM KHẢO VÀ THỰC HÀNH NHỮNG ƯỚC NGUYỆN CỦA PHẬT TỬ
Đặc cử những ủy
viên chuyên môn để tìm hiểu và đúc kết những nhu cầu, sáng kiến và ý
kiến xây dựng Phật Giáo Việt Nam (cả trong lẫn ngoài nước) trong thời
đại hiện nay.Đúc kết những nhu cầu và sáng kiến thành những báo cáo và
đề ra phương án thực hiện.
Kiểm điểm về oai
nghi, phương cách hành đạo và cách xưng hô của chư Tăng Ni đối với
Phật Tử tại gia và những người không phải Phật Tử để tránh tình trạng
Phật Tử càng lúc càng xa rời các chùa và chư Tăng Ni.
Mở những lớp huấn
luyện Trụ Trì, dạy môn Tâm Lý Học Thông Thường, tâm lý quần chúng, Tâm
Bệnh Lý Học và môn cố vấn Sinh Hoạt Gia Đình, môn So Sánh các Tôn Giáo
v.v…
Đề nghị Giáo Hội
Phật Giáo tại mỗi quốc gia nên xem xét lại những pháp môn tu do các
tăng sĩ sáng tạo ra, xem xét kỷ có hợp với lời Phật dạy không, có đem
lại an lạc, giải thoát, giác ngộ cho người hành trì hay không.Vì có
nhiều pháp môn tu quá chú trọng đến hình thức lập dị bên ngoài khiến
mọi người nhìn vào thấy rất khó chịu…Chính những điều đó khiến cho
những tôn giáo khác có cái nhìn không có thiện cảm đối với Phật
Giáo.Cũng chính những điều kỳ quăc đó gây chướng ngại cho sự phát
triễn của Phật Giáo.
Cố vấn về giáo dục
con em trong gia đình theo tinh thần Phật Giáo.
Cố vấn về hạnh phúc
lứa đôi, hòa giải những mối bất hòa trong gia đình Phật Tử góp phần
tạo dựng hạnh phúc theo giáo lý Phật Giáo.
Giáo Hội nên mở ra
những lớp dạy về tâm lý cho nam và nữ trước khi lập gia đình, sinh
hoạt gia đình và nuôi dạy con v.v…
Ngày đại Lễ Phật
Đản và ngày Lễ Vu Lan hằng năm nên tổ chức tại một địa điểm rộng lớn
tại mỗi thành phố như sân vận động, công viên chẳng hạn, bao gồm có
những triễn lãm thú vật, nông sản phẩm, hát xiệt, chiếu phim v.v...và
những trò chơi hợp với mọi tầng lớp quần chúng, đó là dịp tốt để nhiều
thành phần dân chúng có thể tham dự tham dự.Đây là nhân duyên tốt để
những ai chưa hiểu Phật Giáo có dịp gần gủi với những sinh hoạt của
Phật Tử chúng ta hơn.
V- KẾT LUẬN
Để tóm kết lại
những ý chính trong bài viết nầy, sau đây xin trích dẫn vài câu nói
của Đức Phật để làm nỗi bậc giá trị của Phật Giáo trong thời đại mới
ngày nay.
Có một hôm một vị
đệ tử Phật hỏi : “Ngài có phải là Thượng Đế không?”.
Đức Phật trả lời “
Không” .Hỏi : “là bậc Thánh phải không?” .Trả lời: “ Không”.
Vậy Như Lai là
người thế nào?” .Đức Phật đáp: “Ta là người đã giác ngộ”.
Trong những lời đối
đáp đó ta hiểu được rằng: Ngài là ánh sáng vô biên và lòng từ vô hạn
muốn dẫn đắt chúng sinh thoát khổ để được an vui hạnh phúc và giải
thoát, giác ngộ.
Đức Phật thường dạy
rằng: “Giáo lý của Như Lai không gì khác ngoài lời dạy cuộc sống là
khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ” .Do đó những lời dạy của Đức
Phật rất thực dụng và có tính cách khoa học, luôn luôn liên hệ đến sự
sống và sự phát triễn về cả hai phương diện vật chất để thỏa mãn những
nhu cầu của sự sống bình thường và tâm linh là yếu tố chủ đạo để hướng
dẫn chúng ta luôn luôn hướng thượng để đạt đến chân lý giải thóat mọi
ràng buộc khổ đau.
Khi đức Phật sắp nhập diệt Ngài đã
dạy chúng ta qua lời nhắn nhủ A Nan như sau: “Này A Nan! Hãy tự thắp
ngọn đuốc cho chính mình.Hãy quay về nương tựa nơi chính mình.Đừng tìm
nơi nương tựa nào khác ở bên ngoài.Hãy nắm vững chân lý làm ngọn đèn
soi sáng cho mình.Hãy nắm vững chân lý làm nơi nương tựa cho mình.Hãy
tinh tấn để tự giải thoát”.
Nếu dẹp bỏ bản ngã “của Ta” hoặc
“không phải của Ta” để tiến đến “NGUYÊN LÝ ĐỒNG NHẤT BẢN THỂ CỦA CUỘC
SỐNG” theo tinh thần Vô Ngã, Bình Đẳng, Từ Bi, Trí Tuệ như lời Phật
dạy thì chúng ta không còn lo có nạn chiến tranh, khủng bố, phá hoại
môi sinh, vũ khí nguyên tử hay chiến tranh toàn diệt nữa.
Nếu được như thế, nhân loại chắc
chắn, vĩnh viễn sống trong hòa hợp, hòa bình, an vui hạnh phúc.
* Ghi chú:
Đây là bài tham luận trong buổi hội thảo Quốc Tế “PHẬT GIÁO TRONG THỜI
ĐẠI MỚI : CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC” , do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh vào hai ngày 15, 16 tháng 7 năm
2006.
Lâm Như Tạng.
LÂM NHƯ TẠNG
Năm 1943 Ông sinh ra tại Quảng
Ngãi .
Năm 1967 tốt nghiệp Cao Ðẵng Phật
Học tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Saigon.
Năm 1968 đậu Tú Tài hai.Sinh viên
Ðại Học Luật Khoa Saigon và Phật Khoa tại Ðại Học Vạn Hạnh.
Năm 1969 vào tháng 12 du học Tokyo,
Nhật Bản.
Năm 1975 tốt nghiệp cử nhân Kinh Tế
Chính Trị học tại Ðại Học Meiji , Tokyo, Nhật Bản .
Năm 1977 tốt nghiệp Phó Tiến Sĩ Chính
Trị Học (Master’s Degree in Political Science) tại Ðại Học Meiji,
Tokyo, Nhật Bản .
Năm 1983 tốt nghiệp Tiến Sĩ Chính Trị
Học (Doctor of Philosophy in Political Science) tại đại học Meiji,
Tokyo, Nhật Bản .Nghiên cứu về so sánh hiến pháp tại đại học Tokyo,
Nhật Bản.
Năm 1986 định cư tại Sydney, Úc Ðại
Lợi.Nghiên cứu về hiến pháp và chính trị Úc Ðại Lợi tại đại học
Sydney.Tất cả những bằng cấp tại Việt Nam và tại Nhật Bản được chính
phủ Úc Ðại Lợi công nhận tương đương với bằng cấp tại Úc.
Năm 1990 Ðậu hai bằng thông dịch: (Việt
- Anh, Anh - Việt) và (Nhật - Anh, Anh - Nhật).
Năm 1987 đến hiện tại làm việc tại Bộ
Tư Pháp của tiểu bang New South Wales, Úc Ðại Lợi.Giảng Sư thĩnh giảng
tại Ðại Học New South Wales, Sydney, Úc Ðại Lợi.
Phó Tổng Vụ Trưỡng Tổng vụ Văn Hóa
Giáo Dục thuộc Hội Ðồng Ðiều Hành GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Ðại Lợi và
Tân Tây Lan.
Những tác phẩm chính
:
1.
So Sánh Hai Chế Ðộ Chính Trị của Anh và Hoa Kỳ - Tokyo 1977 (bằng
tiếng Nhật).
2. Tự Ðiển Vietnamese – Japanese – Ede (Lâm Như Tạng và T.Shintani
etc.) – Tokyo 1981.
3- Nghiên Cứu về Ðiều
Chín Hiến Pháp Nhật Bản - Tokyo 1983 (tiếng Nhật).
4- Những Ðặc Ðiểm
Trong Phương Pháp Quản Lý Xí Nghiệp tại Nhật Bản - (bằng tiếng Việt và
tiếng Anh) - Sydney 1988 .v.v…
5- Thức Thứ Tám (xuất
bản tại Đức Quốc 2005).
6- Đang viết về Sử
Phật Giáo Nhật Bản và Tịnh Độ Pháp Môn Luận.
Về thơ :
1.
Gởi Về Quê Mẹ - Tokyo 1978.
2.
Hạnh Phúc Từ Ðây (Như Tạng và Ngọc Bích) – Tokyo 1982.
3.
Những Bước Thời Gian – Tokyo 1984.(CD do Hồng Vân ngâm thơ)
4.
Trọn Vẹn Một Tình Yêu – Sydney 1991.(CD do Hồ Điệp ngâm thơ )
5.
Con Ðường Cảm Thông (truyện thơ) .Sydney 1996.(2CD do Hồng Vân, Mai
Hiên,
6.
Ngô Đình Long ngâm thơ)
7.
Trên Nữa Ðời Ði (xuất bản tại Ðức Quốc năm 2004).(2CD do Thúy Vinh,
Hồng Vân, Đòan Yên Linh, Ngô Đình Long, Tô Kiều Ngân ngâm thơ).
8.
Đi Giữa Rừng Mơ (sẽ xuất bản).
Hiện đang cọng tác với các báo Viên
Giác tại Ðức Quốc và Pháp Bảo tại Sydney; các trang mạng trên
Intertnet như : www.quangduc.com, www.viengiac.net, www.
buddhismtoday.com ,
http://exryueurope.free.fr , v.v...
Summary of the Conference Paper :
CONCEPTS CONCERNING CHANCES
AND CHALLENGES TO BUDDHISM IN THE NEW ERA .
By
Lâm Như Tạng Ph.D
From the perspective of a Vietnamese
Buddhist who has lived for long periods of time in Japan and
Australia, these are my opinions on the subject of “CHANCES and
CHALLENGES to BUDDHÌSM in THE NEW ERA”
A no violence
morale:
Just as saint Mahatma Gandhi once
said “An eye for an eye makes the whole world blind” .
“There are many causes that I am
prepared to die for but no causes that I am prepared to kill for” .
A saint, with this no violence
morale, who had been successful in his struggle for the independence
of India.
The self-immolation of the
Bodhisattva Thich Quang Duc was, still is and will always be a radiant
halo reaching, and shining light upon the darkest nature of human
kind.
Chances:
As the Dalai Lama, a representative
figure of compassion and tolerance within a Buddhists’ mentality,
would often say: Friends, we should do our best to help others.If this
is not within our capabilities then, at least, we must not harm or
hurt others in any way.
An important event that has been
officially recognised by The United Nations Organization “Vesak day is
a great event of humanity”, and has been a yearly ceremony since 1999
.
The Most Venerable Thich Nhat Hanh
has and is still continuing to advocate for peace in Viet Nam as well
as world peace.He said : “Our enemies are not people, but if we kill
them off who are we to live with?”
The Most Venerable Tinh Van (a
Chinese monk) has contributed to the modernisation and application of
advancing science and technology to daily activities and functioning
of Buddhism around the world.
The Most Venerable Tuyen Hoa (a
Chinese monk), has brought about the peaceful, harmonious, and non
negative discriminate ways of life.
Mr Nikkyo Niwano (of Japanese
origin) is a well respected leader of religions and a well known
advocate of world peace.
The World Buddhist Sangha Council,
The World Fellowship of Buddhists along with many other organisations
across the world are working together to create opportunity, to
participate and actively solve and appease the complex conflicts that
still plague our world today.
Challenges:
The Buddhist society have and are
actively continuing to contribute to the efforts to resolve such
challenges as war, terrorism, as well as the creation and promotion of
peace, protecting environment rights, resolving globalisation
problems, to resolve calamities brought upon humanity …etc
In consistent with being one of the
largest and most influential religions in the world, Buddhism has
demonstrated involvement in many of the areas above, so as to resolve,
and or alleviate any sufferance associated with the catastrophe or
calamities that have been bestowed upon mankind.
Taking advantage of the
opportunities, that the Buddhist society have been given to address
the challenges within this modern society, we present to you the
following suggestions:
1. Organise a day for Multicultural
Celebration of Peaceful and Harmonious living.
2. Establish a United Religion
Representative Committee, composed of representatives from all
religions.And to have a committee set up in each country as well as an
internationally combined one.
3. Establish a United Religion
Representative Committee quarterly magazine, within each country.
4. Organise a day for the creation
of positive ways of life and for the surrounding environment.
5. Organise a festival for young
Buddhists within each country and internationally.
6. Establish a congregation of
United Buddhism in Viet Nam.
7. Establish a Buddhist political
party in countries that have large populations of residing Buddhists.
8. Establish an official Buddhist
charity organisation in every country as well as an international
combined organisation.
9. Establish more Buddhist
universities as well as Buddhist high school and primary school in
Viet Nam.
10. Consult and carry out the needs
and wishes of Buddhists.
If we can be put aside selfishness
and greed, and be able to move towards a way of life with unity,
equity and equality, following the mentality of humility, compassion,
tolerance, wisdom, and non-atman (non-self) like the Buddha’s
teachings, then we will no longer have to fear the calamities of war,
terrorism, or atomic weapons and humanity will always live in harmony
and peace.
Nhu-Tang Lam, Ph.D
Justice of The Peace
1943 Born at Quang Ngai, Viet Nam
1968 High school graduate certificate
1968 HSC of Advance Buddhism Studies
1968 to 1969 Van Hanh Buddhism University,
Saigon, Vietnam
1968 to 1969 Saigon Law University, Saigon,
Viet Nam
1958 to 1978 The Buddhist monk ( Bhikshu,
Buddhist name is Thich Nhu Tang)
1975 Bachelor of Political Science, Meiji
University, Tokyo, Japan
1977 Master’s Degree in Political Science,
Meiji University, Tokyo, Japan
1983 Doctor of Philosophy in Political
Science, Meiji University, Tokyo, Japan
1983 to 1985 Comparative Constitutional
Law, Tokyo University, Tokyo, Japan
1986 to 1987 Australian Constitution and
Politic, Sydney University, Sydney, Australia.
1987 to present, the permanent officer of
Attorney General’s Department of NSW government, Sydney, Australia.
1988 Australian Government recognized all
Academic Degrees BA, MA, and Ph.D.from Japan as the same level of
Australian Academic Degrees.
1990 Two interpreting certificates in
Vietnamese and Japanese to English.
1990 The Justice of The Peace.
1994 to 1999 The Dharma Teacher of Buddhism
Philosophy, at Phuoc Hue Buddhism studies Institute, Sydney.The writer
of four monthly Buddhism magazine Phuoc Hue, Sydney, Australia.
From 1998 onwards, The Dharma Teacher of
Buddhism Philosophy, at Phap Bao Pagoda.The writer of four monthly
Buddhism magazine Phap Bao, Sydney, Australia.
1995 to present, the writer of two monthly
Buddhism magazine Vien Giac in Germany.
From 2001, contributed to the Buddhist
website
www.quangduc.com , Melbourne.
From 2002, contributed to the
Buddhist website
www.buddhismtoday.com , Viet
Nam.
From 1999 onwards, hold the position
of The Deputy Commissioner for culture and education of The Unified
Vietnamese Buddhist Congregation in Australia and New Zealand.
Published Books
1. “The political system and the
electoral procedures of the United Kingdom and the United States of
America” in Japanese, 1977, Tokyo.
2. “Vietnamese – Japanese – Ede
Dictionary” (by Nhu-Tang Lam, T.Shintani etc…) 1981, Tokyo.
3. “Article 9 of the Japanese
Constitution” in Japanese, 1983, Tokyo.
4. “Distinguishing features of the
management system of the Japanese Corporation” in Vietnamese and
English, 1988, Sydney.
5. “The eighth Consciousness”, in
Vietnamese, Vien Giac Pagoda, Germany, 2005.
Poetry books Published in Vietnamese
6. “Toward Motherland”, Tokyo, 1978
7. “Happiness from now”, Vietnam,
1982
8. “The Steps of Time”, Tokyo, 1984
9. “Poems of Complete Love”,
Sydney, 1991
10 “The Empathy Line”, Sydney,
1996
11 “Over halfway of human life has
gone”, Vien Giac Pagoda, Germany, 2004
12 “NIL” will be published in the
near future.
Buddhism Articles
Published in Vietnamese
1. “Vidyamatra siddhi castra Karika
of Vasubandhu”, 1993
2. “Cause and Effect Principle in
Buddhism”, 1994
3. “The Buddha Gaya, the Buddha
enlightened place in North India”, 1994
4. “The karma in Buddhism
Philosophy”, 1995
5. “The beginning of Japanese
Buddhist history”, 1995.
6. “The Karma in Madhyamaka –
Sastra of Nagarjuna”, 1996
7. “The Karma in Abhidharma kosa
Sastra of Vasubandhu”, 1997
8. “The Karma in the Sutras of the
Buddha” 1998
9. “Classification of the Karmas”,
1998
10.“The conditions of eighth
consciousness in Mahayana Buddhism”, 1999.
11.“The beginning of Vietnamese
Buddhist history”, 2000
12.“Classification of the Dharmas in
Buddhism philosophy” 2001
13.“The eighth Consciousness in
‘Vidyamatra siddhi castra Karika’ of Dharmapala”, 2002
14.“The attributes of the eight
consciousness”, 2003
15.“Three characters of the eighth
consciousness”, 2004
16.“Three characters of the eighth
consciousness in the Lankavatara sutra and the Sandhi-nirmocara
sutra”, 2005, etc…
Other current
research articles:
17.Australian Births, Deaths and
Marriages and relating laws
18.Vietnamese Constitutions and
Australian Constitution
19.Vietnamese Buddhist History and
Australian Buddhist History
20.Pure Land and Meditation,
theories and practices
21.The Bhikshu Precepts and the
Bhikshuni Precepts
22.Japanese Buddhist History.
Notes
[i]
Giáo sư Tiến sĩ Chính trị học.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/hoithao_5mo_uoc10dieucapthiet.htm