...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Ni trưởng Như Thanh: một bậc
chân tu, một nhà thơ đạo và nhà nghiên cứu Phật học tầm cỡ
- Thích Nhật Từ
Tôi may mắn được diện kiến Người một lần duy nhất,
vào năm 1990, tại Chùa Huê Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy, tôi làm
trợ lý cho thầy Thích Phước Cẩn trong việc vận động phiên dịch và
ấn hành Phật Quang Đại Từ Điển. Tôi được Người ân cần khích lệ
và truyền trao những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời tu học và làm việc
Phật sự của Người, trong hơn năm mươi năm qua. Lúc ấy, Người đã
tròn 80 tuổi. Sức khỏe của Người còn khá tốt. Tinh thần của Người sáng
suốt khác thường. Giọng nói của Người thật từ tốn, nhẹ nhàng. Lời
dạy của Người ngắn gọn, đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc. Tinh thần
và năng lực làm việc của Người làm cho tôi vô cùng kính phục. Phong
thái thoát tục và cuộc đời của Người đã ảnh hưởng rất nhiều đến
sự tu học và làm việc của tôi, từ dạo đó. Người là một trong những
bậc tôn đức đã để lại nhiều ấn tượng không bao giờ quên được về
cách tu, cách sống và cách nghiên cứu, sáng tác và làm việc, trong tâm
trí và tinh thần của những đàn hậu tấn. Đối với tôi, Người như
người mẹ tinh thần không giới hạn thế hệ, là tấm gương chói sáng
cho việc tu học và phụng sự Phật pháp, là một bậc tôn túc, trưởng lão
do đạo đức và trí tuệ, là người hiến dâng trọn đời mình cho sự
nghiệp truyền bá chánh pháp, làm lợi lạc nhân sanh. Tôi kính nhớ Người
như kính nhớ đến một bậc chân tu, một nhà thơ đạo, một nhà nghiên cứu
sáng tác Phật giáo và một người thể hiện sống động tinh thần Bồ-tát
đạo.
Ni Trưởng như thanh, bậc chân tu
Xuất thân trong một gia đình kính tin Ba ngôi báu, Ni Trưởng
sớm nhận chân ra được bản chất của cuộc đời, quyết chí xuất trần,
khi tuổi thanh xuân vừa chớm nỡ. Sau khi xuất gia với Sư tổ Pháp Aᮬ Ni
Trưởng nối gót các bậc tổ đức, vân du đây đó để tầm cầu chánh
pháp, tham học với các bậc cao tăng thạc đức, ở mọi miền đất nước
lúc bấy giờ. Song song với việc tu học trong những năm tháng đầu, Ni
Trưởng còn tham gia xây dựng Chùa cho chư Ni có nơi an tâm tu học. Sau khi nắm
vững được tinh yếu và cốt lõi của chánh pháp, Ni Trưởng bắt đầu dấn
thân vào sự nghiệp giảng dạy, khai mở giới trường, xây dựng các trung
tâm giáo lý cho Ni, mở trường tiểu học miễn phí cho cho các trẻ em
nghèo hiếu học. Để đạo tạo và phát triển Ni giới Phật giáo Việt
Nam, Ni Trưởng đã vận động và thành lập Ban quản trị Ni bộ Nam Việt.
Công đức thành lập Ni bộ Bắc tông miền Nam Việt Nam này chắc chắn
được Ni đoàn và Phật giáo Việt Nam trong thời hiện đại ghi nhớ và
trân trọng. Người còn chấn tích quang lâm làm Hòa thượng đường đầu
cho 15 giới đàn sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na và tỳ-kheo-ni tại Thành phố
Hồ Chí Minh và tại các tỉnh thành lân cận, từ năm 1946 cho đến năm
1994.
Trong suốt cuộc đời hoằng pháp, Người không hề tham
gia vào chính sự, không cần đến sự hỗ trợ của bất kỳ chính thể
nào, ấy thế mà mỗi hành vi, lời nói của Người đều thấm nhuần
chất yêu nước, thương dân; và khuynh hướng cũng như cách thế làm đạo
của Người đều mang tính tùy duyên bất biến và phương tiện quyền xảo.
Cuộc đời của Người cho chúng ta thấy rằng cần gì phải tham gia chính
trị mới yêu nước? Cần gì đến sự ủng hộ của chính thể này hay
chính thể nọ mới gọi là tùy duyên? Với cuộc sống thanh cao, thoát tục
và hạnh nguyện độ sanh của Người, ai dám nói Người là không yêu nước,
không bảo vệ quốc gia, không vận dụng phương tiện để đưa giáo pháp
của đức Phật đi vào sự sống của quần chúng Việt Nam? Cuộc đời của
Người là cuộc đời của một vị chân tu, tự mình thắp đuốc lên
mà đi. Hạnh nguyện của Người là tự thắp sáng đuốc của mình rồi
truyền đuốc và 蠭òi đuốc cho người khác.
Người sống trong thế gian để mà vượt lên trên thế gian. Người ở
trong đời để mà độ đời. Người mộc mạc và bình dị trong cách sống
để giúp mọi người nhận ra được cái siêu tuyệt của chánh pháp trong
thế sự thường tình. Không có chánh pháp và chân lý nào tồn tại ngoài
thế gian cũng như không có việc làm nào của Người là không nhằm hướng
đến sự lợi lạc cho tha nhân và cộng đồng xã hội. Nhớ đến Người
là nhớ đến một bậc chân tu làm chói sáng đạo giải thoát bằng cuộc
sống bình dị, thanh cao; làm ích nước, lợi đời bằng hành vi chánh
pháp. Người bình dị nhưng cao vĩ, trong đời nhưng vượt lên trên đời,
để cho đời ca tụng.
Ni Trưởng Như Thanh, một nhà thơ
đạo
Sáng tác thơ đạo là một trong những nét nổi bậc của
Ni Trưởng. Đối với Ni Trưởng, thơ không phải là trò tiêu khiển mà là
một phương tiện hữu hiệu, một lợi khí sắc bén để truyền đạo, để
đem giáo lý vào lòng người. Với sáu tập thơ Hoa Đạo, Hoa Thiền, Hoa
Thanh Lương, Hương Hoa Bát-nhã, Hoa Đạo Hạnh và Phẩm Chất Người
Con Phật, được làm và xuất bản trong những thời điểm khác nhau, Ni
Trưởng đã giới thiệu một cách sống động những lời dạy cao siêu của
đức Phật dưới hình thức của những vần thơ giản dị, thanh thoát, nhẹ
nhàng, mang hồn sắc Việt Nam. Thơ của Ni Trưởng mang một chí nguyện xuất
trần, vào đời độ sanh. Thơ của Ni Trưởng là tất cả tâm tư, tình cảm,
kinh nghiệm và thể nghiệm của một người đã trải qua quá trình tu tập
nhiều gian khó, truyền lại cho người đọc những chất liệu của tình thương
yêu, lượng thứ bao dung, những chất liệu của chánh pháp đã tinh chế,
để tất cả cùng nhau thở cùng nhịp thở an lành trong bầu khí quyển của
chánh pháp. Thơ của Người đậm đà tình quê hương dân tộc và thấm nhuần
hương vị đạo đức.
Từ những bài thơ đầu tay vào năm 1932 cho đến những bài
thơ cuối cùng trong những năm gần viện tịch, trải dài trong khoảng thời
gian hơn 60 năm, tinh thần thơ của Người như nguồn mạch tuôn trào, thấm
nhuần chất đạo, đậm đặc tinh hoa, mang mác ân tình, dồi dào đạo lực,
ấp ủ chí khí, dào dạt tình thương, nuôi lớn hạnh nguyện, và đậm đà
chất ngụ ngôn và triết lý sống. Thiên nhiên và mọi sự vật hiện tượng
đối với Người không chỉ là nơi để thưởng ngoạn mà còn là công cụ
để chuyển tải đạo, mô tả đạo một cách sống động. Từ hình ảnh
của người nông dân mộc mạc, chú lái đò thân thương, ông phú ông bủn
xỉn, cho đến con chim sáo, chim hoàng oanh, con tôm, con tép, con ếch, con lừa,
và ngay cả hình ảnh của chiếc lồng, của viên ngọc, của sóng, của nước,
của trời và biển…đều được Người vận dụng nhuận nhuyễn để diễn
tả chân lý trong những cái bình thường. Thơ của Người lúc thì sử dụng
các thể thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, khi thì sử dụng lục
bát và song thất lục bát và ngay cả thể tự do nhưng tất
cả đều mang đậm chất liệu Việt Nam, thuần ngôn ngữ và tâm tình của
người Việt Nam. Thơ của Người khi thì chứa đựng các ẩn dụ triết
lý, các so sánh ví von, lúc thì khéo sử dụng các phương pháp tương phản,
liệt kê, tất cả nhằm hướng cho người đọc nhận ra được tinh hoa áo
nghĩa của lời Phật dạy trong đời thường, như duyên khởi, nhân quả tương
ứng, tội phước phân minh, trau dồi đạo đức, đa văn, thiền định và
trí huệ…Đây là việc làm đáng học hỏi, đáng được trân trọng. Người
xứng đáng với tên gọi một nhà thơ đạo, một nhà thơ lớn của Ni giới
Việt Nam, một nhà thơ của Phật giáo Việt Nam và là một nhà thơ tầm cở
của dân tộc Việt Nam hôm nay và mai sau.
Ni Trưởng như thanh, nhà nghiên cứu
sáng tác tầm cỡ
Nói đến Ni Trưởng là nói đến người suốt đời tận
tụy với sự nghiệp bút nghiên cho Phật giáo và cho đàn hậu tấn. Ni Trưởng
đã khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào độ tuổi thanh xuân, cái tuổi mà
người đời còn say mê trong hưởng thụ vật chất và vui chơi. Sớm ý thức
và giác ngộ lẽ đạo siêu thoát, Ni Trưởng đã ròng rã suốt gần 60 năm,
sáng tác, dịch thuật và sớ giải các kinh điển quan trọng của Phật giáo
Đại thừa. Đây là một tấm gương mà không phải một vị cao ni nào,
một bậc tôn túc nào cũng có thể làm được. Các sáng tác của Ni Trưởng
nhắm vào các chủ đề nghiên cứu khác nhau, cho các đối tượng khác
nhau, để xiển dương chánh pháp của đức Phật. Về lịch sử, có thể kể
đến các tác phẩm Lược sử Phật Thích-ca và Lược sử Kiều-đàm-di
mẫu. Về nghi thức tụng kinh, có thể kể đến các quyển
Nghi thức tụng niệm, Nghi thức niệm hương và Nghi thức phóng sanh.
Về các sách cẩm nang, có thể kể đến các quyển Cẩm nang người Phật
tử (cho Phật tử tại gia), Giới đức kiêm ưu (cho người xuất
gia) và Phật pháp giáo lý (cho cả hai đối tượng tại gia và xuất
gia).
Trong mười năm cuối đời, Ni Trưởng đầu tư vào việc
giới thiệu và sớ giải các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa
như các tác phẩm Hành Bồ-tát đạo (3 tập), Bát-nhã cương yếu
(2 tập) và Duy thức học. Các tác phẩm này có giá trị nghiên cứu
rất cao, không những về phương diện cung cấp tri thức Phật học mà còn
ở phương diện truyền trao kinh nghiệm tu tập Phật học. Cách tiếp cận
và sớ giải của Ni Trưởng trong các phẩm trên rất đặc biệt, mang tính
chiều sâu và toàn diện. Chúng có thể được xem như những sách căn bản
và tiêu chuẩn cho việc nghiên cứu và tu học Phật pháp.
Ngoài các sáng tác trên, Ni Trưởng còn tuyển dịch nhiều
tác phẩm căn bản và quan trọng trong Phật giáo, nhằm đáp ứng cho việc
nghiên cứu và học hỏi của tăng ni và Phật tử lúc bấy giờ. Các dịch
phẩm ấy liên quan đến tư tưởng bát-nhã như Hai mươi bốn bài kệ
bát-nhã, đến tinh hoa cũng như sự giống và sự khác nhau giữa thiền
và tịnh độ như Thiền tông cương yếu và Thiền tông và Tịnh
độ tông, đến phương pháp tu tập hữu hiệu như Tinh thần tu dưỡng,
đến tinh thần nhập thế và hoạt động xã hội như Hộ quốc nhân vương
và Hưng thiền hộ quốc và liên quan đến tiêu chí khôi phục và chứng
hưng đạo Phật như Làm thế nào để chấn hưng Phật giáo.
Ngoài các dịch phẩm tiêu biểu trên, Ni Trưởng còn xuất
bản sáu tuyển tập thơ đạo, tổng cộng gần 1000 bài thơ với nhiều thể
loại khác nhau, do Người sáng tác ngay sau khi mới xuất gia và cho đến những
năm cuối đời. Ni Trưởng còn là Tổng biên tập và Chủ biên của hai tạp
chí Phật học mang tên Hoa đàm và Nhân cách, để khích lệ ni
chúng sáng tác và truyền bá chánh pháp, dưới dạng thức văn học và phương
diện hành đạo thực tiễn.
Với số lượng của 20 tác phẩm và 8 dịch phẩm như vừa
nêu trên về các chủ đề Phật học khác nhau, được viết và xuất bản
trong vòng 60 năm qua, mà trong số đó có 頮hiều
tác phẩm đã được tái bản nhiều lần, cũng đủ cho thấy tinh thần làm
việc không mệt mỏi, tinh thần phục vụ tận tụy và gương hy sinh cao cả
của Người, đối với Đời, đối với Đạo, đối với tăng ni Phật tử
và đối với dân tộc Việt Nam. Người quả thật xứng đáng là nhà
nghiên cứu và sáng tác Phật học tầm cở, không chỉ thuộc vào bậc nhất
nhì trong giới Ni Việt Nam trong thế kỷ 20 mà còn thuộc vào bậc xứng đáng
"ngồi riêng một chiếu" trong ni giới về gương hạnh làm việc
và sáng tác trong suốt mấy ngàn năm của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
-oOo-
Nhớ đến Người là tôi nhớ đến một vị Ni Trưởng đã
đào tạo nên nhiều thế thệ Ni sư, Sư cô mà nhiều người trong số đó
đã đóng góp không nhỏ vào sứ mạng truyền bá chánh pháp của đức Phật,
làm lợi lạc con người và dân tộc Việt Nam. Dù cho sau này, nhục thân của
Ni Trưởng không còn nữa nhưng tôi vẫn tin tưởng rằng tên tuổi, hình
ảnh và tinh thần phụng sự chánh pháp của Người luôn sống mãi trong
lòng của Ni bộ Việt Nam, trong Phật giáo Việt Nam hôm nay và mãi mãi về
sau.
Dầu cho có phải vĩnh biệt Người trong nỗi đau khó tả,
trong sự nhận thức lẽ vô thường tạm bợ, trong hoài bảo phụng sự
chúng sanh chưa trọn vẹn, nhưng với niềm tin bền vững về một tương
lai tươi sáng của Ni bộ miền Nam Việt Nam nói riêng và của Ni bộ Phật
giáo Việt Nam nói chung, tôi kính mong và tin tưởng rằng quý Ni sư và Sư cô
đệ tử của Người sẽ làm cho những giáo huấn và hành động bảo vệ
chánh pháp của Người trở thành hiện thực. Được như vậy thì nỗi
đau vô thường sẽ không còn là nỗi đau nữa mà là đầu nguồn của Phật
sự độ sanh, của an lạc, giải thoát trong thế giới tử sanh như quy luật
này.
Tôi mong sao sự ra đi của Ni Trưởng không phải là sự
mất mát cho Ni chúng mà là sự cảnh tỉnh Ni chúng nhiều hơn về
nguyên lý sanh-già-bệnh-chết, mà cố gắng nỗ lực hết mình trong sự
nghiệp hoằng pháp lợi sanh, đem ánh sánh chân lý từ bi và trí tuệ của
Phật giáo vào cuộc đời nhiều u mê, tăm tối này. Sự ra đi của Người
có chăng chỉ là bài giáo huấn cho tất cả chúng ta, những ai chỉ mới tu
tập cho bản thân mình, những ai chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ lời
kinh tiếng kệ mà chưa dấn thân vào sự nghiệp độ sanh, chưa tắm mình
trong biển Phật học, để góp phần làm sáng soi chánh pháp cho Phật tử
Việt Nam, cho văn học Phật giáo, cho dân tộc Việt Nam và cho văn hóa dân
tộc. Do đó, tôi tin rằng sự ra đi của Người sẽ là nguồn động cơ không
gì có thể cưởng lại được cho sự vươn dậy và trưởng thành của tất
cả Ni chúng tu học theo người: Hãy noi gương Người làm xán lạn chánh
pháp tại cuộc đời này, như Người đã từng khổ công thực hiện và chỉ
dạy.
Cuộc đời và hạnh nguyện của Người đã góp phần tô bồi
cho cây Bồ-đề Việt Nam mãi tốt tươi, cho cây đời Việt Nam vươn tới
sự sống an lạc, cho Phật giáo và Dân Tộc mãi mãi bên nhau. Ngưỡng mong
quý Ni sư, quý Sư cô, quý Phật tử đệ tử của Người hãy tiếp nối sự
nghiệp của Người, đem đuốc tuệ của Người truyền đi khắp nơi, thắp
sáng ngọn đèn chánh pháp khắp đó đây, để làm tỏ sáng chất liệu an
lạc, giải thoát cho bầu trời Việt Nam hôm nay và mai sau.
Thành kính vĩnh biệt Người trong thế giới diệt sanh.
Kính mong mãi gặp được Người trong gương hạnh độ sanh
thoát tục.
- New Delhi, ngày 27 tháng 11 năm 1997.
- Tỳ-kheo Thích Nhật Từ,
- cẩn bút.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/003-nhuthanh.htm
|
|