- Một "sự nghiệp" của
đời tôi
- HT. Thích Thiện Hoa
I. NGUYÊN NHÂN
Hoài bảo một "CÁI MỘNG"
trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện
Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938),
đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn
Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do
Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích
Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy
bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình
bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á
làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu
của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương.
Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng:
"làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ
"Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
II. SƯU TẦM TÀI
LIỆU
Từ đó, tôi bắt đầu gom góp sưu
tầm các tài liệu. Đọc trong kinh, xem trong sách, hoặc nghe những bài giảng
nào có thể làm tài liệu đóng cây thang giáo lý, thì tôi đều góp nhặt
để dành cả: nhứt là tài liệu của bác sĩ Lê Đình Thám (pháp danh
Tâm Minh) giảng cho lớp Thanh Niên Đức Dục.
III. THỜI GIAN TẬP
SỰ
Đến năm 1945, sau khi tốt nghiệp
chương trình Phật pháp, tôi trở về Nam, mở trường dạy giáo lý tại
chùa Phật Quang xứ Bang Chang, quận Trà Ôn. Số tăng, Ni đến học trên 30
vị (trong số này hiện nay còn lại, bên tăng, Thầy Thanh Từ v.v...bên
Ni, ni cô Trí Định v.v..)
Ngoài lớp giáo lý, chúng tôi còn mở
các lớp học quốc ngữ mỗi buổi sáng, để dạy cho các em ở trong làng,
số học sinh gần 150 em; dạy lớp Bình Dân Học vụ (vần chữ O) để giúp
cho đồng bào mù chữ trong những buổi tối; và mở trạm y tế giúp cho đồng
bào bệnh hoạn trong làng.
Muốn làm việc lớn, trước phải
làm việc nhỏ, muốn đi xa trước phải từ nơi gần. Nhơn có lớp giáo
lý, số học chúng trên 30 vị, tôi bắt đầu tập sự, đem thí nghiệm chương
trình Phật học phổ thông (thang giáo lý) mà chúng tôi (cây đã
ôm ấp cái mộng từ lâu), để chờ cơ hội tốt, một hoàn cảnh rộng
rãi hơn, sẽ đem ra thực hiện (thời gian tập sự, chờ đợi gần 8 năm
trường).
Trước nhất, tôi soạn từng dàn
bài, rồi đem ra giảng dạy cho học chúng. Tôi bắt họ ký chú kỹ lưỡng.
Sau khi giảng xong, tôi bảo họ làm bài đem tôi sửa, rồi viết lại thành
từng tập sách nhỏ để cho tín đồ mượn xem, như quyển Đạo Phật, tam
qui, Ngũ giới, Tứ nhiếp pháp, Lục độ v.v...
IV. THỜI GIAN THỰC
HIỆN
Đến năm 1952, đướng giao thông
được dễ dàng, tôi được các bạn đồng song, Thượng toạ Thích Thiện
hoà (Giám đốc Phật học Đường N.V.), Thượng toạ Thích Nhựt
Liên (Tổng Thư ký Giáo Hội Tăng Già Nam Việt) và Thượng Toạ Thích
Quảng Minh (Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt) đến thăm và mời
tôi về sàigòn để chung lo Phật sự.
Quí Thượng Tọa khuyên tôi rằng:"
Cái đèn treo trên cao, thế nào yến sáng cũng chiếu xa hơn".
Vì nguyện vọng hoằng dương chánh
pháp, vì muốn thống nhất Phật sự và vì tình bạn xa cách nhau trên 8 năm
trường muốn sum hiệp, nên tôi hoan hỉ nhận lời. Từ đây, tôi bắt đầu
thu xếp mọi công việc, để chờ ngày lên đường.
Đầu năm 1953, sau Tết Nguyên đán,
ngày mồng 8 thánh Giêng, 8 thầy trò chúng tôi quảy hành lý lên đường
...Đến Sàigon vào chùa Ấn Quang, sau khi thu xếp chỗ ăn ở tạm xong, quí
Thầy giao phó cho tôi hai gánh nặng, là "Giáo dục và Hoằng pháp" (vừa
làm trưởng ban giáo dục GHTGNV kiêm Đốc giáo PHĐNV và vừa làm trưởng
ban Hoằng pháp GHTGNV). Rồi quí thầy đua nhau xuất dương.
Suốt một thời gian, trên 10 năm
trường, đông sông tây đục, cả ngày chỉ lo dạy học, diễn giảng rồi
huấn luyện cán bộ trụ trì và giảng viên, hết khoá Hạ đến khoá Đông,
con người tôi như con vụ.
Mặc dù công việc quá bận rộn,
nhưng cái chí nguyện "đóng cây thang giáo lý" đã ôm ấp từ lâu,
tôi không hề xao lãng. Ban ngày dạy học, ban đêm soạn bài, dịch kinh. Hết
giờ dạy cho Tăng, Ni ở các học đường, rồi đến dạy cho lớp Như Lai
Sứ giả và Cư sĩ. Ngoài ra còn làm các Phật sự khác, việc Giáo hội, việc
lễ lược, tổ chức, thù tạc v.v...Một ngày đêm, chúng tôi làm việc thẳng
thét 4 buổi (sáng, chiều, tối và khuya).
Mỗi tuần, tối thứ tư hoặc là tối
thứ năm, tôi mở lớp dạy giáo lý tại chùa Ấn Quang (Phật học đường
NV) rồi đến chùa Phước Hoà (trụ sở của hội Phật học NV)
để dạy Phật pháp cho quý Phật tử cư sĩ, tức là lớp "Phật học
Phổ thông". Tôi bắt đầu thực hiện "cái mộng" này vào năm
1953.
Soạn từng bài, đem ra dạy, rút
kinh nghiệm rồi chúng tôi mới viết kỹ lại thành tập. Đúng 10 bài làm
một khoá học.
Mỗi năm chúng tôi mở 2 khóa hoặc
3 khóa (trừ 2 năm 1963 và 1964 gặp lúc Pháp nạn nên không mở khoá học
Giáo lý được) . Ngoài chương trình Phật học Phổ thông, chúng tôi
còn dạy Bản đồ tu Phật (Phật học cương yếu, 10 Tôn phái) và
Duy Thức học v.v...
Sau khi rút kinh nghiệm bản thân, từ
phương pháp dạy (nghệ thuật trình bày) và bài vỡ được tu chỉnh
rồi in thành tập, chúng tôi mở khoá huấn luyện cho các cán bộ Diễn giảng,
mỗi khoá 10 bài. Sau khi huấn luyện chu đáo, nắm chắc kết quả, chúng
tôi mới cử quí vị giảng viên, đi giảng các Tỉnh Hội Phật học, mỗi
nơi 10 đêm, rồi trở về thụ huấn 10 bài khác. Như thế, chúng tôi cử
các vị đi mỗi năm ba kỳ, sau nhũng ngày nghỉ học tại Phật học đường
NV (mỗi năm nghỉ học 3 kỳ, mỗi kỳ 1 tháng).
Khoá giảng được kết quả tốt
đẹp, thính giả mỗi ngày mỗi đông, nên giảng viên thêm hào hứng và
rút tỉa nhiều kinh nghiệm. Nhờ thế, giảng viên tiến đến mức chuyên
môn, cầm được nghệ thuật diễn giảng, giảng rất hấp dẫn. Người
nghe cũng thích thú ! Nhờ thế, chúng tôi gây được phong trào học giáo
lý từ Đô thành đến các tỉnh, trong mấy năm vừa qua ở miền Nam.
Cứ theo cái đà này mà tiến, hết
khoá thứ nhất đến khoá thứ hai, rồi tiếp đến khoá thứ ba và thứ tư
v.v...Bắt đầu từ năm 1953 đến nay (1965) là 13 năm tôi đã hoàn thành
được 12 nấc thang Giáo lý; nghĩa là 12 khoá "Phật học Phổ
Thông". Nếu cộng với 5 năm hoài bảo cái mộng trên, và thời gian tập
sự 8 năm, tất cả là 25 năm trọn.
V. NỘI DUNG
Trong thời gian trên, ngoài bộ
"Phật học Phổ thông" 12 tập, chúng tôi còn soạn bộ "Bản
đồ tu Phật " 10 tập, "Duy thức học" 6 tập và các loại
sách khác, như Bài học ngàn vàng v.v...tất cả là 10 loại, gần 80 thứ .
Nội dung bộ "Phật học Phổ
thông", chia làm 12 khoá:Từ khoá I đến khoá IV, nói về "Ngũ thừa
Phật giáo" và những vấn đề cần biết như nhơn quả luân hồi, Đạo
Phật v.v...Khoá V, năm bài đầu nói vể Lịch sử truyền bá của Phật
giáo, từ Ấn Độ sang Trung Hoa đến Việt Nam và các nước Phật giáo, ba
bài tiếp nói về Đại cương Phật giáo (10 tôn phái), 2 bài sau nói về
"Nhơn sanh và vũ trụ" là hai vấn đề rất quan trọng. Khoá thứ
VI và VII là Đại cương kinh Lăng nghiêm, khoá thứ VIII là kinh Viên giác, 2
bộ kinh này thuộc về tánh tôn và được ca tụng nhiều nhứt trong Thiền
môn. Khoá thứ IX là Duy thức học (Luật Đại thừa Bá pháp, Bát thứ qui
cũ, Duy thức Tam thập tụng, A Đà Na thức, và luận Nhơn Minh). Khoá thứ X
và XI là luận Đại thừa khởi tín, một bộ luận có tiếng tăm trong Phật
giáo. Duy thức học và luận Khởi tín, thuộc về Tướng Tôn. Thế là từ
khoá I đến khóa XI, có thể giúp cho độc giả hiểu được căn bản giáo
lý là Ngũ Thừa Phật giáo, Tánh Tôn và Tướng Tôn, cùng những vấn đề
quan trọng trong Phật giáo. Đến khóa thứ XII là kinh Kim Cang Bát Nhã và
Tâm kinh, thuộc về Tánh không tôn, để giúp cho hành giả muốn lên cao phải
cởi mở rủ bỏ những gì nặng nề đã mang từ lâu.
Chúng tôi chia ra 12 khoá, từ thấp
đến cao giúp cho qúi Phật tử dễ học; cũng như cây thang có 12 nấc để
cho người dễ leo.
VI. LỢI ÍCH
Bộ "Phật học Phổ thông"
và các loại sách "Phật học tùng thư" của chúng tôi từ khi được
phổ biến đến nay, đã đem lại các lợi ích như sau:
1. Truyền bá giáo lý được sâu rộng
trong quần chúng
2. Giúp cho rất nhiều Phật tử hiểu
biết Phật pháp để tu hành
3. Giúp cho Tăng, Ni các Phật học
viện mau hiểu giáo lý
4. Giúp tài liệu cho quí Giảng sư
và Giáo sư để giảng dạy giáo lý
VII. NHỮNG YẾU
TỐ ĐỂ THÀNH CÔNG TRONG VIỆC SÁNG TÁC VÀ PHIÊN DỊCH
1. KHẢ NĂNG
Muốn làm công việc gì trước tiên
cần phải có đủ "khả năng" về công việc ấy. Như người muốn
sáng tác và phiên dịch giáo lý, tất nhiên phải có đủ khả năng về việc
này, phải có một học lực khác, cả nội điển lẫn ngoại điển,tương
đương với công việc, mới vcó thể làm được.
2. BỀN CHÍ
"bến chí" là một yếu tố
cần nhứt trong mọi công việc, nhứt là việc sáng tác và phiên dịch.
Công việc này đòi hỏi rất nhiều sự ‘cần cù,rị mọ", ngồi cặm
cụi suốt ngày đêm trên bàn viết, từ tháng này đến năm nọ. Người không
bền cnhí, không thể đeo đuổi được lâu dài. Nếu chỉ do hứng thú nhứt
thời, thì chỉ viết hoặc dịch được một vài quyển mà thôi.
3. SỨC KHOẺ
"Sức khoẻ" cũng là một yếu
tố cần thiết trong mọi công việc. Nếu làm việc gì mà thiếu sức khoẻ
thì khó thành công miễn mãn. Sức khoẻ kém, cố nhi6en thân thể mõi mệt,
tinh thần bì quyện, không minh mẫn sáng suốt, không thề ngồi lâu, để
phiên dịch hoặc sáng tác.
4. THÍCH THÚ
Làm công việc gì, mặc dù có khả
năng sức khoẻ và bền chí, nhưng nếu không thấy "thích thú" thì
cũng khó mà thành tựu, nhứt là việc phiên dịch và sáng tác. Có cảm thấy
thích thú, mới vượt qua được sự khó khăn cực khổ, mài miệt nơi bàn
viết ngày đêm, không chán.
Người sáng tác hoặc phiên dịch,
khi thực hiện được một tác phẩm nào, tự cảm thấy vui mừng và thích
thú, không khác gì anh nghèo cất được cái nhà mới. Phải có thích thú
như thế, mới làm được việc này.
5. TIÊU CHUẨN
PHIÊN DỊCH VÀ SÁNG TÁC
Người xưa nói: "Văn tức là
người". Đúng như thế. Người tánh tình như thế nào, thì viết văn
cũng như thế ấy.
Viết văn hay diễn giảng ai cũng muốn
cho nhiều ngườiđọc và dễ hiểu. Nhưng trái lại, khi viết hay giảng, phần
nhiều người muốn nói thật cao siêu khó khăn, làm cho người đọc và
nghe phải mệt trí ! như thế không khác gì người muốn đi tới mà hai
chân lại bước lui. Thật ra, điều đó là do ảnh hưởng tánh tình, cũng
khó mà thay đổi.
Chúng tôi nhắm vào tiêu chuẩn:
khoa học (rõ ràng thứ lớp), Đại chúng (Phổ thông, bình dân)và Dân tộc
(sắc thái Việt nam), nên những kinh sách, mặc dù khó đến đâu, qua sự
phiên dịch hoặc sáng tác của chúng tôi, cũng đều làm cho người đọc
được dể hiểu và rõ ràng.
Theo sự kinh nghiệm của chúng tôi
trên mười năm nay về việc trước tác và phiên dịch, nếu tác phẩm nào
thiếu ba điểm trên (Khoa học, Đại chúng và Dân tộc) thì khó có thể phổ
biến sâu rộng trong quảng đại quần chúng.
6. TẠO HOÀN CẢNH
THÍCH HỢP
Hoàn cảnh là một trong những yếu
tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Chúng ta nên hay hư,
hay hay dở, đa số đều do ảnh hưởng hoàn cảnh tốt hay xấu. Chúng tôi
làm được một vài công tác về phiên dịch và sáng tác, là do chúng tôi
tự tạo ra một hoàn cảnh thuận tiện, để nó thúc đẩy chúng tôitrên
công việc này.
Trước nhất, chúng tôi mở ra một
lớp học giáo lý hằng tuần (bắt đầu năm 1953 đến nay, mỗi tuần vào
tối thứ tư hoặc tối thứ năm), và soạn chương trình giáo lý từ sơ cấp
đến cao đẳng. Mỗi tuần tôi soạn một bài giáo lý để dạy. Và tôi phải
nghiên cứu cách dạy (nghệ thuật trình bày) mỗi bài phải dạy thế nào
cho hấp dẫn, người học dễ thâu thập và thích thú. Vì thế mà người
học mỗi ngày mỗi đông và bắt buộc tôi mỗi tuần phải soạn ra một
bài để dạy. Một năm tôi mở day hai hoặc ba khoá (trước hạ, giữa hạ
và sau hạ). Nhờ thế mà bài vở mỗi ngày thêm nhiều và nghệ thuật giảng
dạy mỗi ngày càng thêm điêu luyện
Sau khi đã có sẵn một số tài liệu
về giáo lý, và nắm chắc kết quả về sự giảng dạy ở trong tay rồi,
chúng tôi liền mở ra các lớp huấn luyện cán bộ: Giảng sư, Trụ trì
và Như Lai Sứ giả để huấn luyện về chuyên môn của chúng tôi.
Sau khi được huấn luyện thuần thục,
nắm chắc sự thành công trong tay, các vị cán bộ được cử đi các Tỉnh
hội Phật học mở khoá dạy giáo lý, mỗi nơi 10 đêm. Người học mỗi
đêm càng đông. Người dạy mỗi ngày thêm hào hứng. Nhờ thế mà chúng
tôi gây được phong trào học giáo lý trong các năm vừa qua ở miền Nam.
Không gì thích thú bằng: bài mình soạn có người dạy, sách mình viết
có người đọc. Hoàn cảnh này thúc đẩy chúng tôi phải cố gắng biên
soạn, để cung ứng nhu cầu về giáo lý cho quí Phật tử bốn phương
7. SÁNG KIẾN
với "sáng kiến", công việc
của chúng ta dù cũ cũng thành mới mẻ. Trong khi giảng dịch hay viết, nếu
không có một đôi chút sáng kiến thì người nghe hay đọc cảm thấy khô
khan, buồn mãn. Trái lại, nếu chúng ta có sáng kiến thêm vào, thì người
đọc cảm thấy như thưởng thức được vài phần hương vị mới lạ. Chúng
tôi xin dẫn một vài bằng chứng điển hình: Bộ Đại thừa Bá pháp minh
môn là một bộ luận đã có từ nghìn xưa, người đọc rất khó hiểu.
Nhưng chúng tôi có sáng kiến, căn cứ vào đó, sáng tác quyển TU TÂM, làm
cho người đọc dễ hiểu và thích thú._ kinh Lăng nghiêm đã có mấy nhà dịch
ra chữ Việt, nhưng bản dịch của chúng tôi, vì có đôi phần sáng kiến
và sáng tác, nên được nhiều người thích đọc, vì rõ ràng và dễ hiểu.
Bởi thế nên "sáng kiến" không những rất cần trong việc phiên dịch
và sáng tác, mà còn rất cần trong mọi công việc và mọi hoàn cảnh.
8. KẾ HOẠCH VÀ TỔ
CHỨC
phàm làm việc gì có kế hoạch và
biết tổ chức thì công việc mới thánh tựu dễ dàng. Trên đoạn thứ 6
nói về hoàn cảnh, chúng tôi đã nói một vài khía cạnh về sự tổ chức
việc làm của chúng tôi. Đến đây chúng tôi nói rõ thêm, để giúp ích
phần nào cho những người bạn muốn đi theo con đượng của chúng tôi.
Theo đúng kế hoạch và tổ chức,
chúng tôi chia công việc ra làm 3 phần như sau: Biên soạn, Xuất bản và phổ
biến (phát hành).
1. Phần biên soạn và phiên dịch_
Chúng tôi lập "Phật học Tùng thư", chia ra làm 10 loại sách
sau đây: 1. Kinh, 2. Luật, 3. Luận, 4. Phật học Phổ thông, 5. Bài giảng,
6. Phật học giáo khoa, 7. Giáo lý dạy Gia đình Phật tử, 8. Tạp luận, 9.
Sự tích, 10. Kinh tụng (các nghi thức tụng niệm)
Tất cả 10 loại sách này, gồm 80
thứ, phân chia làm 8 bộ:
1. Bộ Phật học Phổ thông, 12
khoá (hay Cây thang giáo lý, 12 nấc)
2. Bộ Bản đồ tu Phật, 10 tập
(Đại cương Phật giáo:10 tôn phái)
3. Bộ Duy thức học, 6 quyển (các
sách vở chánh tông của Duy thức)
4. Phật học Giáo khoa các trường
trung học Bồ Đề (từ đệ Thất đến đệ Nhất)
5. Giáo lý dạy Gia đình Phật tử
(sắp thức hiện)
6. Nghi thức tụng niệm (kinh Nhựt
tụng Đại bổn vá Tiểu bổn v.v...)
7. Tám quyển sách quí, bài học
ngàn vàng v.v...(tạp luận)
8. Sự tích
Các bộ sách này, sắp có thứ tự
và theo hệ thống từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, lám cho ngư6ời đọc
được dễ hiểu, nhưcây thang có nhiều nấc , khiến cho người leo lên cao
không khó (muốn rỏ hệ thống tổ chức và nội dung của mỗi bộ sách
nói trên, xin quí vị xem quyển "Muc lục kinh sách" của hương Đạo
xuất bản").
2. Phần xuất bản_ Chúng tôi tổ
chức một cơ quan xuất bản gọi là "nhà xuất bản Hương Đạo",
để xuất bản kinh sách của chúng tôi phiên dịch và sáng tác từ trước
đến nay.
Từ hai bàn tay trắng, chúng tôi chỉ
lấy công làm lời, lấy lời làm vốn. Ban đầu in từ quyển ách nhỏ, như
Tu Tâm, lần đến các tập Phật học Phổ thông v.v...Ngoài sự trả tiền
in cho nhà in và bút phí, chúng tôi rất tiện tặn, không dám tiêu xài.
Dành dụm cho tới ngày nay, nhà xuất bản Hương Đạo của chúng tôi, được
một kho sách gần 80 thứ.
3. Phần Phổ biến _ Như đoạn
trên, trong phần thứ 6 nói về hoàn cảnh, chúng tôi có nói sơ lược: sau
khi đã có sách vở rồi, chúng tôi mở lớp giáo lý tại Thủ Đô dạy
theo chư6ơng trrình chúng tôi đã soạn. Rồi chúng tôi huấn luyện cán bộ
đi các tỉnh, cũng dạy theo tài liệu nói trên. Ngoài ra, chúng tôi còn gởi
các nhà phát hành kinh sách ở Trung và Nam để họ phổ biến sâu rộng
trong quần chúng. Nhờ thế, mà giáo lý được phổ biến và giúp cho sự
xuất bản được dễ dàng và sự phiên dịch sáng tác khỏi bị khủng hoảng.
9. KINH NGHIỆM
mỗi khi chúng ta làm một việc gì,
dù thất bại hay thành công đều là một bài học cho chúng ta rút kinh nghiệm,
để làm việc sắp đến
về việc sáng tác phiên dịch, xuất
bản và phổ biến, trên 10 năm nay, chúng tôi rút rất nhiều kinh nghiện về
sự thất bại cũng như thành công. Gặp thành công, chúng tôi giữ y như thế
mà tiến. Gặp thất bại chúng tôi rút kinh nghiệm để sửa chữa. Mỗi
khi ra một quyển sách hay giảng một bài nào, chúng tôi dọ hỏi dư luận
quần chúng, tìm hiểu những phê bình chỉ trích hơn là lời khen ngợi. Nhờ
thế mà chúng tôi gặt hái được những thành quả hôm nay.
10. TRÌNH BÀY TƯ
TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG QUA PHƯƠNG PHÁP TÂY PHƯƠNG
Chúng tôi vào chùa từ thuở bé, lo
học giáo lý nhà Phật, chỉ hấp thụ tư tưởng Phật giáo đông phương.
Một duyên may, năm 1941, tôi được dự thính lớp Thanh niên Đức Dục tại
Huế, do bác sĩ Lê đình thám đảm nhiệm. Bác sì là người rất giòi về
Âu học và cũng rất thâm vế Á học. Bác sĩ đem phương pháp giảng giải
của tây phương mà giảng giải phân tích nền triết học cổ học Đông
phương một cách rõ ràng rành mạch mà vẫn giữ được phần cao siêu
thâm thuý. Chúng tôi thích thú vô cùng. Mặc dù hấp thụ trong thời gian
không lâu, nhưng một khi hạt giống đã rơi vào tâm điền rồi, từ đó về
sau nó sẽ tiến hoá luôn, nức mộng, nẩy chồi cho đến khi đơm bông kết
trái.
Về sự giảng dạy cũng như sự
trước tác phiên dịch của chúng tôi, người nghe và người đọc được
dễ hiểu, rõ ràng và rành mạch là nhờ chúng tôi áp dụng được đôi phần
phương pháp Tây phương.
11. ĐẶT SÁT VẤN
ĐỀ
Một vài người bạn đến chơi và
thân mật phê bình: "Thầy không thông minh lắm, chậm chạp và ít sáng
kiến, nhưng mỗi khi có một sáng kiến nào, thì thầy đeo đuổi và làm
cho kỳ được. Điều quý nhất là thầy birết đặt sát vấn đề, biết
cân nhắc đắng đo, chọn người chọn việc, đặt đúng chỗ và dùng đúng
thời, nên thành công được nhiều khả quan".
12. KHÔNG ĐI XA MỤC
ĐÍCH
mỗi khi làm một việc gì, trước
nhất chúng tôi tự hỏi: "Mục đích để làm gì?". Sau khi hạ thủ
công việc ấy, chúng tôi luôn luôn nhắm mục đích ấy mà tiến, không
dám đi lạc đường. Như việc phiên dịch và sáng tác này, trước khi bắt
tay vào việc, chúng tôi tự vấn lương tâm: "Mục đích để làm gì?
Vì danh? Vì lợi? Hay vì hoằng pháp lợi sinh?"_ Sau khi chúng tôi quyết
định: "mục đích để phổ biến giáo lý" và may ra có lợi phần
nào, thì thiếp tục in thêm các kinh sách khác và giúp cho quí vị cán bộ
diễn giảng hay những người đang thiếu thốn chung quanh.
Vì mục đích trên, các năm đầu,
mỗi tháng chúng tôi đều có cúng dường theo bản nguyện. Sau một thời
gian thấy quí vị giảng sư được thành công trong việc diễn giảng, có
đủ phương tiện để tự túc, chúng tôi lại bớt phần cúng dường, xoay
lại để làm bút phí cho sự sửa chữa, hay tu chỉnh các tác phẩm và dịch
phẩm đã xuất bản. Đến nay, công việc tu chỉnh và xuất bản v.v...vẫn
còn tiếp tục.
Nhờ không đi sai "mục đích"
hay "bản nguyện", nẹ6n chúng tôi được toại nguyện khá nhiều.
13. BIẾT DÙNG VÀ
DÁM DÙNG TIỀN
Đành rằng: "không tiền thì
không làm được việc gì". Nhưng có tiền mà đắng đo rít rắm, tiện
tặn quá, thì cũng không làm nên việc gì lớn lao. Lại nữa, có tiền mà
không biết dùng tiền, nghĩa là dùng tiến không đúng chỗ không hợp thời,
thì có tiền chỉ thêm hại mà thôi. Trái lại, dùng tiền trúng chỗ hợp
thời thì được thành công tốt đẹp.
Xuyên qua các đoạn trên (phần xuất
bản và đoạn thứ 12: không đi xa mục đích) quí vị thấy chúng tôi lấy
công làm lời, lấy lời làm vốn, rất tiện tặn dành dụm và tích trữ mới
thành một sự nghiệp (một kho sách, 10 loại, gần 80 thứ). Mặc dù chúng
tôi tiện tặng tiết kiệm như vậy, nhưng vì muốn cho thành"một sự
nghiệp văn hoá" nên với việc đáng dùng như "tu chỉnh, sửa chữa"
lại các bộ sách đã xuất bản, chúng tôi dám xuất số tiền, có thể
nói gần quá sức lo của chúng tôi. Không sợ tốn kém, miễn sao thành tựu
công việc thì thôi. Nhờ thế chúng tôi thâu góp được kết quả theo ý
muốn.
VIII. GHI ƠN
Kinh chép: "Chư pháp tùng duyên
sanh". Chính thế, mặc dù chúng tôi đã có chí nguyện "đóng cây
thang giáo lý" làm chánh nhơn, nhưng nếu khôngnhờ các duyên lành, thjì
cũng khó mà thành tựu. Vậy hôm nay, công việc mà chúng tôi xem như "Một
sự nghiệp của đời tôi", có thể nói là đã hoàn thành, chúng tôi
xin thành tâm gjhi đâm công ơn sau đây:
1. Ơn Tam Bảo gia hộ;
2. Ơn quí Sư trưởng và thiện hữu
tri thức mở mang kiến thức;
3. Ơn Phụ mẩu sanh thành và ơn Đàn
na giúp đỡ;
4. Ơn Thượng toạ Thích Thiện
Hoà, Đại đức Thích Trường Lạc v.v...đã soạn giúp một số bài, khi
chúng tôi quá bận việc và vui lòng chiều theo ý muốn, để mặc tình
chúng tôi sửa chữa;
5. Ơn Đạo hữu Võ đình Cường đã
giúp tôi rất nhiều về việc tu chỉnh bài vỡ;
6. Ơn quí Phật tử đến học hằng
tuần (từ năm 1953 đến 1962) tạo hoàn cảnh để thúc đẩy chúng tôi
sáng tác và thí nghiệm chương trình giáo lý.
7. Ơn Đạo hữu Nhuận Chưởng.
Minh Phúc và ông Dương Kiều Thi v.v...đã giúp chúng tôi về việc xuất bản.
IX. HIẾN GIÁO HỘI
PGVNTN
Những tác phẩm hay dịch phẩm, của
nhà xuất bản Hương Đạo chúng tôi, sau khi tu chỉnh hoàn toàn, và trả tất
nợ nhà in rồi, chúng tôi sẽ làm lễ hiến cho Giáo Hội Phật Giáo VNTN
hay những người nối theo chí nguyện (phiên dịch và sáng tác) của chúng
tôi.
Những tác phẩm của chúng tôi, đều
không giữ bản quyền đối với quí vị nào muốn ấn tống. Nhưng, nếu
ai muốn sửa đổi nội dung hay in để kiếm lời, thì phải được sự đồng
ý của chúng tôi.
X. HỒI HƯỚNG
Tôi làm được điều lợi ích gì,
có bao nhiêu công đức đều hồi hướng:
- Trên đền đáp bốn ơn
- Dưới cứu giúp ba loài.
Cầu nguyện cho:
- Mặt trời Phật thêm sáng
- Bánh xe pháp xoay hoài
- Thế giới đều hoà bình
- Nhơn dân được an lạc
- Tôi và các chúng sinh
- Đều sanh về cõi Phật.
- Viết tại Dưỡng đường Đồn Đất sài gòn
- Quý Xuân Ất Tỵ (1965)
- Sa môn THÍCH THIỆN HOA
Tác giả viết bài này là để
biếu cho những bạn đồng "chí hướng" và "đồng hành"
trên đường "sáng tác và phiên dịch".
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/008-tth-sunghiep.htm