- Đường
đi không gió, lòng sao lạnh!
- Tưởng niệm HT. Thích Thiện Siêu
Thôi thế
là từ nay, trong kiếp này, chúng con mất đi một bậc thầy, một bậc Bạn
lành trên đường tu học. Từ nay, con biết hỏi ai mỗi khi gặp những vấn
đề nan giải khi đọc kinh luận đại thừa? Con như còn nghe văng vẳng từ
âm của Ôn giải thích những “tính giác diệu minh, bản giác minh diệu”
trong kinh Lăng nghiêm, Tánh không trong Trung luận, và bao nhiêu khúc mắc
khác nữa trong Phật pháp. Ôn chỉ dạy vắn tắt: tin được cái Không thì
tin được tất cả, mà không tin cái Không thì không tin bất cứ gì. Con
nghiệm thực là hết sức đúng. Có những lúc Ôn trả lời bằng sự im lặng,
và sau đó con tự giải đáp được những gì muốn hỏi, bằng một cách
không ngờ. Đấy là trường hợp một lần con thỉnh ý Ôn về câu “bất
sanh pháp tướng” trong kinh Kim cương nghĩa là gì? Ôn im lặng. Nhưng trong
cái im lặng đó con cảm nhận được một điều gì như đã là giải đáp.
Sáng hôm
nay trên đường đi, con vừa nhìn bầu trời bao la vừa nhẩm đọc kinh Kim
cương theo hơi thở, cảm thấy vô cùng sung sướng. Đường vắng xe vì
còn quá sớm, cảnh vật đồng quê như một bài kinh không lời, một bản
nhạc vô thanh, một bức tranh vĩ đại không người vẽ. Có gì để bận tâm
về sống chết vui khổ dở hay mê ngộ giữa cuộc chiêm bao này? Tất cả
dàn trải ra trước mắt, không quá khứ vị lai nên hiện tại cũng không
luôn. Có phải pháp tướng là vậy không, khi mình còn khởi lên ý niệm sống
chết mê ngộ phải quấy vui buồn, còn thấy có quá khứ vị lai hiện tại?
Tất cả các pháp bản lai như thị, nếu thấy mọi sự vật, tướng trạng,
mà không khởi lên một ý niệm này nọ - thế là không sanh pháp tướng ?
Ai chửi ai
khen mình cũng coi như nhau không bận tâm phân biệt - thế là không sanh
pháp tướng?
Người thế
này người thế khác- mình không khen người này tốt chê người kia xấu,
thế là không sanh pháp tướng?
Họ đối với
mình trước khác sau khác, mình vẫn như không - thế là không sanh pháp tướng?
Có người
lúc có tiền cư xử khác lúc không tiền, lúc thành đạt cư xử khác lúc
hàn vi - mình không cần để ý, thế là không sanh pháp tướng?
Nghe, đọc,
những lời vô nghĩa phi lý thường được lặp đi lặp lại hàng ngày cũng
tảng lờ như không, đừng bực mình, đừng phê phán, thế là không sanh
pháp tướng?
Không xem
cát bụi chỉ là cát bụi vì từ cát bụi mà có ra thế giới, thế là
không sanh pháp tướng?
Thấy thế
giới cũng là phi thế giới, vì được kết hợp từ những vi trần, thế
là không sanh pháp tướng?
Cái hiện tượng
kết hợp ấy là bất khả tư, bất khả nghì, bất khả thuyết, đừng nói
do một thượng đế kết hợp, như thế là không sanh pháp tướng?
Một lần
thấy được Vô sanh, cũng đã bõ công bao đời trầm luân đau khổ, đừng
ngại chi lên thác xuống ghềnh - không lên thác xuống ghềnh làm sao thấy
được vô sanh - thế là không sanh pháp tướng?
Thấy mình đúng thì sai, thấy mình sai họa
may đúng, vì sự thực vốn vô ngã, trong đó không có mình - thế là không
sanh pháp tướng?
Vân vân và
vân vân. Nhưng nói ra nhiều chuyện như thế là đã sanh pháp tướng rồi.
Không nói gì cả mới tạm nói lên ý nghĩa “không sanh pháp tướng”, không
khởi lên một ý niệm gì về sự vật, vì một móng tâm động niệm đã
là lạc xa chân lý. Bởi thế mà Ôn đã im lặng khi con thỉnh vấn ý nghĩa
câu kinh Kim cương: “Tu bồ đề, bồ tát ư nhất thiết pháp ưng như thị
tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng.” Con tạm diễn
dịch câu ấy ra như sau- không biết đúng không: Này Tu bồ đề (hay này,
Trí hải) bồ tát đối với tất cả chuyện trên đời, hãy biết như vậy,
thấy như vậy, tin hiểu như vậy, đừng khởi lên một khái niệm gì cả.
Khái niệm gì thế? Tức là bốn kiểu chấp ngã khác nhau: ngã tưởng, nhân
tưởng, chúng sinh tưởng, thọ giả tưởng. Ngã tưởng như xưng “tôi”
và thấy thực có cái tôi chứ không chỉ như phương tiện. Đấy là ngôi
thứ nhất trong văn phạm. Có ngôi thứ nhất tức phải có ngôi thứ hai:
“nhân tưởng” là người đối diện với mình - như gọi “anh, chị, em…” và “chúng sinh tưởng”
là ngôi thứ ba, chúng nó - quan niệm về những người khác,
chúng sinh khác nhau muôn màu muôn vẻ, trong khi kỳ thực tất cả đều tùy
nghiệp mà giả hiện, trên bản thể không có sai khác - tự tánh của mọi
chúng sinh đều là chân không. Và kiểu chấp ngã cuối cùng là “thọ giả
tưởng” tức quan niệm thời gian, cho rằng đời người có một thọ mạng
- trong khi phải thấy nó chỉ hiện diện trong một hơi thở, không có thời
gian. Mãi mãi chỉ có sự sống hiện tiền, không quá khứ vị lai nên cũng
không gọi là hiện tại. Thời gian, quan niệm về thọ mạng là do tâm
phân biệt. Như đối với một thanh niên hai mươi tuổi, thì sáu mươi tuổi
là già. Nhưng đối với ông già tám chín mươi thì sáu mươi lại là còn
trẻ. Kỳ thực trong giây phút hiện tiền, thanh niên hai mươi, em bé ba tuổi,
ông già sáu mươi và côá lão chín mươi – hay tất cả vạn vật hiện tiền
như súc vật, chim chóc, cây cối - đều giống nhau trong hơi thở, cùng hấp
thu ánh mặt trời, cùng hít thở không khí trong hiện tại, tất cả đều
là những giả tướng tạm thời trong chân không, “vô thọ giả”. Hơi thở
đã qua và chưa đến đều không được tính kể. Chỉ khi có cái tâm so
sánh phân biệt khởi lên mới thấy có thời gian quá khứ vị lai - và cái
thấy mỗi người một khác: Đối với thanh niên, thì em bé là quá khứ,
ông già là vị lai; đối với em bé, thanh niên là vị lai; còn đối với
ông già, cả em bé và thanh niên đều thuộc về dĩ vãng. Cái thấy mỗi người
một khác như vậy thì không thể là chân lý, sự thực muôn đời. Sự thực
muôn đời phải là: vĩnh viễn hiện tại. Và hiện tại là gì ? Là một
tia sáng bé nhỏ của vĩnh cửu đi qua tâm thức, khi có chánh niệm tỉnh
giác. Không chánh niệm tỉnh giác thì tuy ở hiện tại mà tâm không ngừng
nghĩ đến quá khứ vị lai. Và như vậy là không thực sống gì cả. Có
tâm là có ngã, và có ngã thì có thời gian quá khứ vị lai do tham. Sống
trong hiện tại, chánh niệm tỉnh giác là sống trong thiền định vô tâm,
“quá khứ không truy tầm, tương lai không ước vọng”, vì quá khứ đã
qua, tương lai chưa đến. Vô tâm, vô ngã cũng đồng nghĩa với ly tham, dù
là lòng tham sống, tham giải thoát niết bàn…
Vậy thì,
đừng sanh pháp tướng là đừng chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả- và
luôn sống trong hiện tại, chánh niệm tỉnh giác để thấy rõ cốt lõi của
thân tâm này là chân không. Đã là chân không thì không có sinh tử, khổ
vui, mê ngộ. Thấy được như vậy thì luôn ở trong niết bàn. Sự im lặng
của Ôn khi con hỏi về câu “bất sanh pháp tướng” đã làm con tự suy
nghiệm ra như thế, khi Ôn không còn nữa để con được dịp đến “trình
kiến giải”.
Ôi, mặc
dù không được diễm phúc dự vào hàng môn đồ pháp quyến trực tiếp của
Ôn, con cũng đã thưởng thức được bao nhiêu là pháp vị từ nơi thân
giáo, khẩu giáo, ý giáo của Ôn, từ lời dạy của Ôn cũng như từ im lặng
của Ôn, từ sự sống của Ôn trong lúc mạnh khỏe và nhất là trong thời
gian thọ bệnh, và giờ đây, khi Ôn đã nhập niết bàn.
Từ đây, con không còn vấn đề gì phải thỉnh vấn,
vì Ôn đã giải đáp tất cả cho con rồi, con vô cùng mãn nguyện. Nhưng
than ôi, mỗi lần nghĩ về Huế, con lại thấy lòng mình xốn xang. Thà đừng
về, để tưởng như Ôn vẫn còn ngồi dịch kinh bên cửa sổ. Thà đừng
về, để mường tượng như quý Sư bà con vẫn còn đó trong ngôi chùa tịch
mịch và sẽ đón con với những nụ cười bao la. Huế mà vắng đi những
bậc trưởng lão chân tu, thạc đức, thì ôi chao là lạnh lẽo!
Con đã lại sanh quá nhiều pháp tướng khi thấm thía một
câu thơ của Quang Dũng: “Đường đi không gió lòng sao lạnh!” Xin đê đầu
kính lễ giác linh Ôn đã nhập niết bàn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/camniem1_HTThichThienSieu.htm