-
VÀI
KỶ NIỆM SAU NGÀY GẶP HÒA THƯỢNG THÍCH MÃN GIÁC
-
TẠI
LOS ANGELES
Một ngày hạnh ngộ với Hòa
Thương Thích Mãn Giác đã khấc trong lòng tôi những ấn tượng sâu đậm và
những kỷ niệm khó quên. Hòa thượng Thích Mãn Giác và tôi chưa bao giờ gặp
nhau nhưng đã từng biết nhau ngang qua những thông tin của giới văn nhân,
nghệ sĩ hoặc các bậc tăng ni. Tôi được biết rằng Hòa thượng không chỉ là
một vị cao tăng mà còn là một giáo sư lỗi lạc, một nhà thơ đã để lại nhiều
bài thơ đầy Thiền vị, một người yêu chuộng văn chương nghệ thuật.
Năm 1995, tôi có dịp sang
vùng California đúng mùa Phật đản. Tôi đã từng nói chuyện về những nét đặc
thù của cách tán tụng kinh kệ trong truyền thống Phật giáo Việt Nam tại
nhiều nơi như chùa Xá Lợi, Thiền viện Vạn Hạnh tại thành phố Hồ Chí Minh,
chùa Trúc Lâm tại Villebon bên Pháp, chùa Linh Sơn tại Đài Loan … nên khi
nghe tôi đến Cali, Hòa thượng Thích Mãn Giác có thư mời tôi nói chuyện về
đề tài trên tại ngôi chùa Việt Nam ở Los Angeles, nơi thầy trụ trì. Tôi
rất sung sướng có dịp gặp được người mà tôi ngưỡng mộ qua tên tuổi nhưng
chưa từng được diện kiến bao giờ. Tôi cũng có phần ngạc nhiên và hơi e
ngại vì biết rằng Los Angeles là một thành phố có nhiều người Việt tị nạn
quá khích.
Hôm đó, thầy làm lễ và
thuyết pháp từ sáng và đến mười một giờ. Thầy giới thiệu tôi nói chuyện về
đề tài tán tụng kinh kệ trong truyền thống Phật giáo. Trong cử toạ, ngoài
các Phật tử đến từ Los Angeles, Santa Ana và các thành phố lân cận, còn có
ông Khai Trí, nhạc sĩ Phạm Duy và những người bạn rất quen thân với tôi.
Đây cũng là lần thứ nhứt tôi nghe lời giới thiệu từ một người mới gặp tôi
lần đầu mà nước mắt của tôi lưng tròng, vì không ngờ rằng người ấy biết rõ
việc tôi làm và bằng lời văn chải chuốt đầy chất thơ, Hòa thượng đã giới
thiệu về tôi một cách rất nồng hậu như sau:
“Cuộc gặp gỡ của chúng ta với
giáo sư Trần Văn Khê hôm nay là một hạnh ngộ. Chúng ta là những đứa con
Việt Nam vì hoàn cảnh phải sống tại nhiều nơi trên thế giới. Chúng ta
thường tự chất vấn không biết văn nghệ nước Việt Nam như thế nào và đang
đi về đâu. Thì hôm nay chúng ta may mắn gặp được một người dẫn đường đáng
tin cậy sẽ đưa chúng ta một chuyến về bơi lội bao dung trong biển văn hóa
nước nhà. Công trình nghiên cứu của giáo sư Trần Văn Khê đã được thế giới
công nhận, chấp nhận và lưu trữ cho thế hệ mai sau. Giáo sư đã dùng ngòi
bút vẽ lại trung thực nền văn hóa đó và bằng tài nghệ biểu diễn tinh vi đã
cho cái hồn văn hóa lung linh trên cái xác. Một người nghệ sĩ đã dựng lại
một nền văn hóa cả xác lẫn hồn là một người nghệ sĩ đích thực. Hôm nay,
chúng ta không chỉ kính trọng một nhà nghiên cứu uyên thâm mà thương quí
một người Việt Nam rất Việt Nam là giáo sư Trần Văn Khê.”
Cử tọa vỗ tay tán thưởng.
Tôi ngỏ ít lời cám ơn Hòa thượng và nói lên nỗi xúc động của tôi rồi bắt
đầu buổi nói chuyện như thường lệ. Sau đó, tôi có dành nửa giờ cho thính
giả đặt câu hỏi và có mấy câu hỏi của cử tọa vô cùng lý thú mà tôi còn nhớ
mãi đến ngày nay:
Một bà cụ tuổi ngoại
thất tuần hỏi tôi:
- “ Kinh Phật chúng ta có thể
niệm đọc, tại sao lại phải tán tụng ?”.
Tôi trả lời:
- “Trong truyền thống Phật gíao
các nước châu Á, “tụng kinh” là đọc lớn lên những câu kinh với những thanh
giọng trong lời kinh được cách điệu hóa và phù hợp với năm âm trong âm
giai ngũ cung. Mỗi chữ trong câu kinh được đệm theo bằng tiếng mõ và có
một cao độ nhất định; chỉ có những chữ thứ bảy trong một câu kinh thất
ngôn thì được đệm hai tiếng mõ. “Tán” có nghĩa là khen. Một bài “tán”
thường có nét nhạc đặc thù. Một chữ trong câu kinh có thể tán thành hai,
ba giọng khác nhau và giữa các chữ có những chữ đệm, thường là những mẫu
âm để làm cho nét nhạc và tiết tấu câu kinh thay đổi. “Tụng” và “tán”
không phải để cho người nghe khen mình “tụng” giỏi “tán” hay mà để giúp
cho người Phật tử nhờ nét nhạc và nhịp điệu được đi vào một trạng thái tâm
hồn bình tĩnh và sáng suốt để hiểu rõ nghĩa câu kinh và thấm nhuần giáo lý.
Sau đó, tôi minh họa cho bà cụ câu kinh “Dương chi,
tịnh thủy” trong bài tán để ca ngợi Đức Phật Bà Quan Âm thì bà cụ
nhìn nhận rằng nếu đọc thường thì không thể nào bốn chữ “Dương chi, tịnh
thủy” thấm vào tâm can của bà bằng cách nghe bốn chữ đó theo lối “tán”.
Hòa thượng Thích Mãn
Giác nhìn tôi mỉm cười và gật đầu. Sau câu chuyện, tôi được thụ trai với
thầy tại chùa. Thầy rất vui nói với tôi:
- “Giáo sư không phải người
Phật tử đi tu nhưng rất rành về các cách tán tụng. Giáo sư lại phân tích
rõ ràng những nét đặc thù của tán tụng đến người thường ngày tán tụng như
chúng tôi cũng thấy được cái hay và sự công dụng của tán tụng thì công
việc làm đó tôi thấy rất bổ ích cho sự hiểu biết của người Phật tử.”
Tôi cũng có bạch với Hòa
thượng rằng:
- “ Mặc dầu tôi không phải là
Phật tử nhưng tôi rất có duyên với đạo Phật. Đề tài nghiên cứu trong đời
tôi là âm nhạc truyền thống Việt
Nam
nói chung. Năm 1965, tôi có được cơ duyên viết một bài về cách tán tụng
trong truyền thống Phật gíao Việt Nam để góp mặt với các loại nhạc tôn
giáo khác trên thế giới trong quyển Từ điển Bách khoa về Âm nhạc tôn
giáo. Sau đó, tôi có dịp sang Nam Triều Tiên (tức là Hàn quốc) và
Nhựt Bổn để so sánh cách tán tụng trong truyền thống Việt Nam với phong
cách “hissori” và “ chissori” của Triều Tiên và “shomyo” của Nhựt Bổn”.
Hòa thượng rất vui và nói
rằng:
- “ Giáo sư không chỉ nhìn
truyền thống tán tụng với đôi mắt Việt Nam mà cả với đôi mắt của con người
châu Á so sánh, đối chiếu với truyền thống của nước khác để hiểu và thương
thêm truyền thống của nước mình. Thất là điều đáng quí !”
Câu chuyện hôm đó không
những đi trong đề tài Phật gíao mà còn mở rộng ra đến lãnh vực văn chương,
thi ca và âm nhạc. Đến nay, tôi còn nhớ rõ buổi sáng ngày Phật đản năm
1995 và câu chuyện với Hòa thượng.
Tám ngày sau đó, tôi được
nhiều người Phật tử hưởng ứng và mời tôi nói chuyện về đề tài này tại ngôi
chùa Liên Hoa toạ lạc trong quận Cam. Nơi này xa đường xe qua lại. Buổi
nói chuyện được tổ chức vào tám giờ tối, khí trời mát mẻ. Tâm của tôi và
của thính giả đều được ổn định. Tôi đã được dịp giới thiệu bài
Nam xuân
trong nhạc Tài tử miền Nam với hai cách khác nhau: đờn cho thính giả nghe
chơi giải trí và đờn với thiền vị.
Lần gặp gỡ với Hòa thượng
Thích Mãn Giác cho tôi được dịp gặp một người mới quen mà hiểu nhau như
người đã quen lâu. Buổi nói chuyện tại Los Angeles lại gợi cho tôi thêm
nhiều đề tài suy nghĩ về cách tán tụng nhờ những câu hỏi được đặt ra và
hôm đó đã gây một ấn tượng sâu sắc trong cuộc đời nghiên cứu của tôi.
Sáng nay, tôi vừa
được biết tin Hòa Thượng mới viên tịch. Tôi ngồi ôn nhớ lại những kỷ niệm
ngày đó và xin ghi lại nơi đây thay cho lời hoài niệm của tôi đối với vị
cao tăng mà tôi kính trọng và ngưỡng mộ, và thương quí như một người tri
kỷ, tri âm. Xin nghiêng mình cầu cho giác linh của Hòa thượng mau về nơi
Cực lạc.
Bái
biệt,
Trần Văn Khê
(21-10-2006)
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/ht_ManGiac.htm