Thầy Mãn Giác đã viên tịch. Khi
những dòng chữ này được in ra, tang lễ Thầy đã hòan tất. Nhưng các kỷ niệm
về Thiền Sư Thi Sĩ Huyền Không vẫn còn lưu lại trong lòng những người từng
có cơ duyên phùng ngộ với Thầy, và dấu ấn của các công trình văn hóa do
Nhà Sư Học Giả Thích Mãn Giác để lại sẽ còn in sâu vào nền học thuật Phật
Giáo nhiều thế hệ sau.
Tôi may mắn có một số kỷ niệm với
thầy Mãn Giác. Bên này, khi ở California, từ thời 1990 trở đi, tôi mới có
cơ duyên tiếp cận với Thầy. Còn như thời ở quê nhà trứơc 1975 thì cách
nhau vời vợi, lúc đó Thầy đã là một cây cổ thụ trong chốn tùng lâm Phật
Học, còn tôi chỉ là một sinh viên Đại Học Văn Khoa ngơ ngác, khù khờ, cứ
nhìn Thầy nào cũng hệt như các nhân vật huyền thoại bước ra từ trang sách.
Cầm sách Thầy học, ngẩng lên nghe Thầy giảng… là vui rồi, dù thực sự không
hiểu bao nhiêu. Và thực sự, nhiều thập niên sau, tôi mới biết rằng lúc đó
mình không hiểu gì hết về Phật Học dù là phải học thuộc lòng biết là bao
nhiêu trang giấy.
Lúc đó, Thầy Mãn Giác dạy ở Văn
Khoa và đã là Phó Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh. Một đôi khi, tôi và mấy
tên bạn rủ nhau sang Vạn Hạnh chơi. Thường thì mấy tên đi vòng vòng các
tầng lầu Vạn Hạnh, rồi lại kéo nhau vào Thư Viện, rồi lại rủ nhau vào quán
cà phê kế sát bên hông trường, nơi chúng tôi phì phèo thúôc lá…
Và rồi kháo nhau, rằng kia là nhà
thơ Bùi Giáng, hay rằng kia là Thầy Tuệ Sỹ, hay nhắc rằng hỗi nãy, trên
Thư Viện nơi một góc là Sư Cô Thích Nữ Trí Hải. Rồi lại thắc mắc, sao đi
mấy vòng, suốt cả buổi trưa mà không thấy Thầy Minh Châu đâu cả, hay là
không rõ nhà thơ Phạm Công Thiện còn trụ nơi đây không hay là đang ở bên
trời Âu… Rồi chúng tôi lại chúi đầu vào các trang dầy đặc chữ của Tập San
Tư Tưởng hầu hết là thứ ngôn ngữ bí hiểm, thỉnh thỏang lại ngó ra con
đừơng Trương Minh Giảng trứơc mặt với khu chợ ồn ào bên kia đường, phía
đối diện Vạn Hạnh. Rồi lại nhíu mày, thắc mắc với nhau rằng tại sao đại
học Phật Giáo này phải xây đối diện với ngôi chợ ồn ào kia, mà lại nằm
ngay bên một dòng sông nứơc đen. Có vẻ như chẳng phong thủy tí nào cả.
Giữa những khói mù thơ mộng của chữ nghĩa đó, hình ảnh Thầy Mãn Giác chỉ
đơn giản là bình dị, hiền lành, uyên bác, và tất nhiên là cao vời vợi đối
với bọn sinh viên mới lớn.
Chỉ ra tới hải ngọai, tôi mới có
dịp gần Thầy Mãn Giác. Lần đầu lên Chùa Việt Nam Los Angeles thăm Thầy là
năm 1990. Điều nhận xét lớn nhất: Thầy Mãn Giác lúc nào cũng quan tâm về
quê nhà. Những quan tâm đó lúc nào cũng hiển hiện qua các câu hỏi của Thầy
về tình hình, về Phật Giáo, và qua cả các trang tạp chí Phật Giáo Việt Nam
mà anh Châu Thọ giúp Thầy gánh vác.
Đêm Thứ Ba 17-10-2006 vừa qua,
lên Chùa Việt Nam Los Angeles để viếng tang Thầy, tôi lại được một cơ
duyên lớn, khi nghe Thầy Thích Nguyên Hạnh kể lại một số kỷ niệm về Thầy
Mãn Giác.
Giữa tiếng tụng kinh và chuông mõ
của một số Thầy và hàng chục Phật Tử vọng lên từ sân chùa, Thầy Nguyên
Hạnh kể cho tôi và chị An Nguyễn Kiều Mỹ Duyên trong căn phòng khách của
chùa ở lầu hai với giọng trầm ấm và từ tốn rằng Thầy Mãn Giác trứơc khi
viên tịch đã dặn dò Thầy Nguyên Hạnh rằng "hãy tùy duyên hành Phật sự."
Thầy Nguyên Hạnh có cơ duyên thân
cận với Thầy Mãn Giác từ hơn 50 năm, khoảng đâu từ năm 1955. Những năm sau
này, Thầy Nguyên Hạnh sang Texas và thành lập Trung Tâm Phật Giáo - Chùa
Việt Nam ở thành phố Sugar Land. Tuy xa thật xa, nhưng chuyện gì quan
trọng thì Thầy Mãn Giác cũng kể, và hội ý với vị sư thế hệ sau này. Thầy
Nguyên Hạnh gọi Thầy Mãn Giác bằng danh xưng “Ngài,” nhưng nơi đây ghi lại
bằng chữ “Thầy” cho thân mật, như trong những ngày tôi lên thăm Thầy.
Giữa hương trầm thơm xông ngát
khắp chùa, Thầy Nguyên Hạnh kể Thầy nhìn thấy Thầy Mãn Giác có hai điều
nổi bật:
Thứ nhất, Thầy Mãn Giác nặng lòng
với quê hương; cứ hễ nói về quê hương là Thầy Mãn Giác lại xúc động.
Thầy Nguyên Hạnh hỏi tôi rằng có
biết Thầy thích nhất hai câu thơ nào của Thầy Mãn Giác không. Tôi nghĩ
ngay tới hai câu,
"Mái chùa che chở hồn dân tộc,
nếp sống muôn đời của tổ tông…"
Tôi vừa nói lên chữ "Mái chùa…"
thì Thầy Nguyên Hạnh cười từ bi, lắc đầu, "Không phải."
Hóa ra, Thầy Nguyên Hạnh thích
nhất là hai câu:
"…Thương xuân tuyết trắng trên
đầu núi,
Nhớ nứơc làm sao nở nụ cười…"
Thứ nhì, Thầy Nguyên Hạnh nói
tiếp, rằng Thầy Mãn Giác lúc nào cũng ôm ấp hòai bão làm đẹp cho đạo, và
chuyện nào làm đẹp cho đạo là Thầy Mãn Giác không bao giờ từ chối…
Thầy Nguyên Hạnh kể rằng, vào
ngày 20-4-1975, Thầy Nguyên Hạnh đã theo dòng người từ Huế chạy vào Sài
Gòn. Lúc đó, cả nứơc hỗn lọan, xáo trộn, hoang mang. Lúc đó, đã nghe là có
nhiều người đã bỏ chạy khỏi Sài Gòn. Lúc đó, Bắc Quân đã tràn ngập nhiều
tỉnh Miền Trung và miền Đông Nam Bộ.
Sài Gòn khi đó, đầy những nỗi lo,
với tin đồn dồn dập hàng ngày đi kèm với dòng ngừơi từ các tỉnh ven biển
Miền Trung chạy tới, đổ vào. Thầy Mãn Giác nói với Thầy Nguyên Hạnh rằng
vị Phó Đại Sứ Nhật Bản tại Việt Nam, nguyên là bạn thân thời Thầy Mãn Giác
du học Nhật Bản, tới nói rằng Tòa Đại Sứ Nhật sẵn sàng lo giấy tờ đưa Thầy
sang Nhật, và xa gần nói rằng Miền Nam VN sắp mất.
Thầy Mãn Giác hỏi ý Thầy Nguyên
Hạnh, và được Thầy Nguyên Hạnh phân tích ra các diễn biến có thể là xấu
nhất và tốt nhất. Thầy Nguyên Hạnh nói rằng Thầy nghĩ rằng Thầy Mãn Giác
nên đi Nhật, để sau này mới giúp nhiều cho Phật Giáo và đồng bào.
Thầy Mãn Giác lúc đó trầm ngâm,
chỉ nói là để nghĩ lại. Hôm sau, khi Thầy Nguyên Hạnh tới thăm, Thầy Mãn
Giác mới nói, "Thôi, ta nghĩ rồi. Bây giờ ra xứ người chỉ là dân vong quốc
thôi. Bây giờ, vui hay buồn, vinh hay nhục thì cùng chia sẻ với quý Thầy,
với dân mình thôi…" Và như thế, Thầy Mãn Giác đã ở lại.
Cho tới năm 1977, Thầy Mãn Giác
mới vượt biên.
Tiếng tụng kinh nơi sân chùa đã
ngưng. Đêm đã khuya. Giọng Thầy Nguyên Hạnh vẫn từ bi, trầm ấm, vang giữa
đêm thanh vắng, "Với tôi, chuyện gì cũng qua đi, nhưng tôi muốn giữ tấm
lòng của Ngài với quê hương, với Phật Giáo. Ngài Mãn Giác lúc nào cũng nói
với tôi về ước mơ về thăm Việt Nam, thăm các chùa xưa, thăm Đại Học Vạn
Hạnh cũ…"
Khi bước tới cổng chùa, tôi quay
về hứơng căn phòng nơi để kim quan của Thầy Mãn Giác, chắp tay, cúi đầu
chào, và trên đường lái xe về Quận Cam, vẫn nghe âm vang hai câu thơ Thầy
Nguyên Hạnh vừa đọc:
Thương xuân tuyết trắng trên đầu
núi,
Nhớ nứơc làm sao nở nụ cười…
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/ht_ManGiac_2.htm