- SƯ TRƯỞNG NHƯ THANH:
CUỘC ĐỜI và SỰ NGHIỆP
- Chùa Huê Lâm
- Một nét chữ
Tâm trong công hạnh từ thiện
- Giác Đạo
Sinh ra trong cõi trần ai, mỗi
chủng tử đã là một nghiệp dĩ, căn phần thọ nghiệp. Bình đẳng trong
đau khổ, bình đẳng trong phúc lạc, trong vòng xoay Thập nhị nhân duyên.
Cái cõi mà Nguyễn Công Trứ đã phải tự vấn: "Thoắt đã sinh ra
đà khóc chóe, trần có vui sao chẳng cười khì?" và cụ Tiên Điền
- Nguyễn Du cũng đã khẳng định:
- "Đã mang lấy nghiệp vào thân,
- Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa."
Càng thấm thía mọi khổ đau càng
tỏ rạng công ơn Đức Bổn Sư Thích-ca chọn cảnh giới Ta-bà này thị hiện,
đem giáo pháp chứng ngộ cao vời cứu độ chúng sanh. Hàng hậu sinh noi
theo dấu chân lành tiếp tục đưa nguồn phúc lạc ấy tỏa lan, dẫu vốn
mang nghiệp dĩ trần ai nhưng vừa tiến tu giải thoát đồng thời dang tay dìu
dắt đồng loại bằng nhiều hình thức, trong đó công hạnh "cứu khổ,
ban vui" là trọng tâm của những người con Phật. Từ đó, khái niệm
từ thiện được dần hiện ra theo mỗi bước tiến hóa của thời đại.
Và nó trở thành nét đặc trưng của Phật giáo, đi song hành với hình
bóng của một vị xuất gia. Ý nghĩa đó càng về sau như nghiêng hẳn về
Ni giới, khi giáo đoàn đã có mặt đầy đủ Tăng Ni. Sẽ ý nghĩa hơn khi
chúng ta biết rằng Ni giới vốn kém phước báo về mọi mặt; được xuất
gia cũng đã là một nỗ lực lớn lao và đã phải thọ giới nhiều hơn so
với chư Tăng. Vì vậy, không lạ gì khi việc từ thiện hầu như luôn được
chư Ni đặt lên hàng đầu và các vị luôn tỏ ra xuất sắc trong lãnh vực
này. Trộm nghĩ như vậy, vì chư Ni từ trong nghiệp dĩ của mình vẫn biết
lo nghĩ và thương xót đến tha nhân thì thật không còn gì cao cả hơn.
Nhận định như trên để khi đọc
những dòng viết sau đây về công hạnh của Sư trưởng Như Thanh, chúng ta
sẽ không ngỡ ngàng và đồng hóa với những ý niệm từ thiện khác, mà
đã không ít khi nó bị xem thường do những tư tưởng cơ hội gây nên.
Nét đáng quý ở Sư trưởng Như Thanh là trong thời gian hành đạo đã sớm
nghĩ đến điều đó bên cạnh nỗi lo toan lớn khác, đó là đào tạo và
giáo dục Ni chúng trở nên những người tu Phật có đủ đầy giới hạnh,
tài đức. Khi đạt đến ước mong có một Ni đoàn, có tổ chức, có hữu
ích cho Giáo hội, công việc từ thiện vẫn luôn là điều không thể thiếu
trong các chương trình nghị sự ở các kỳ Đại hội Ni đoàn. Đôi khi
chính Chư Tôn lãnh đạo Giáo hội còn tỏ ra nghi ngờ khả năng của Sư
trưởng (cũng có nghĩa là Ni giới), lúc các kế hoạch được trình lên như:
công tác thuyết giảng, tổ chức giáo dục, nghi lễ dành cho Ni giới v.v…
thì Sư trưởng Như Thanh vẫn mạnh dạn tỏ rõ quyết tâm sẽ chu toàn được
tất cả các mặt Phật sự đó.
Sư trưởng Như Thanh xuất thân từ
một gia đình danh gia vọng tộc ở đẳng cấp trên trước xã hội, xuất
gia chẳng vì gặp nghịch cảnh chướng duyên mà bằng cả ý lực tự
giác, nương thừa chính phước báo gia đình, có điều kiện vươn tới tri
thức Phật học. Tận dụng khôn khéo thuận lợi gia đình để tìm cầu Phật
đạo, rõ Sư trưởng là một mẫu người hiếm có, để từ đó lòng tận
tụy vì đạo, vì tương lai Ni chúng mai hậu của Sư trưởng, cũng như tất
cả những thành quả đạt được, rất đáng trân trọng trong một ý nghĩa
trọn vẹn.
Trong quá trình tu học, Sư trưởng
lại có một thuận duyên hiếm hoi khác nữa là đã có được những bước
chân theo chiều dài đất nước, tìm cầu tham học và gặp gỡ không ít Chư
Tôn Đức khả kính, kể cả được chiêm bái các thánh tích Già-lam. Nhờ
vậy có lẽ đã un đúc ý chí Sư trưởng, tạo nên nét đặc trưng mà Chư
Tôn Đức hay ví von là một "Nữ tướng". Cũng nhờ đó, theo những
bước chân nhẫn nại là chung quanh biết bao thảm cảnh loạn ly, đau
thương của chiến tranh trong một đất nước triền miên chịu phần cộng
nghiệp. Khi ước nguyện lớn chưa tròn, cũng như tự lượng đạo lực
chưa cao, Sư trưởng dồn nén nỗi chạnh lòng đó vào một góc trái tim, hứa
hẹn một ngày dang tay thể hiện. Thế nhưng, khổ đau nào hẹn, từ thiện
nào chờ khi nhân thế "Kỷ hồi sanh, kỷ hồi tử; sanh tử du du vô định
chỉ" luôn diễn ra khốc liệt. Tuy vậy, như Lục tổ Huệ Năng nói:
"Ngột ngột bất tu thiện, đằng đằng bất tạo ác." Như thế,
khi Sư trưởng Như Thanh còn đang ngổn ngang nỗi đau luôn canh cánh bên
lòng ấy, cũng có nghĩa là Sư trưởng đã làm được điều thiện - điều
thiện không nói ra - Tâm không tạo ác đã là điều thiện. Sự thôi thúc
nhờ đó thêm vững tâm bằng một đồ án tương lai nhất quyết đạt thành.
Trong công quả tu hành, công hạnh từ
thiện đã thấm từ trong máu thịt Sư trưởng tự bao giờ, khi gặp thuận
duyên được bộc phát như lẽ đương nhiên mà chính tự thân Sư trưởng
không nghĩ tới. Đó là ý nghĩa từ thiện đúng nghĩa, không câu nệ mang
tính cách phong trào thi đua. Một bài học rất lớn lao cho những ai chưa thật
tâm hiểu và hành động vẹn tròn cho từ thiện. Chúng ta sẽ thấy chi tiết
này qua hình ảnh của Sư trưởng ngay giữa lúc chưa đạt thành mong ước
hợp nhất Ni chúng, ngay giữa lúc Giáo hội Tăng Già chưa hình thành. Đó
là hệ thống giáo dục mang tên KIỀU ĐÀM được bắt đầu khai sinh vào
thập niên 50 (1952). Các em thiếu nhi nhà nghèo, hiếu học được học hành
miễn phí tại đây. Từ nhân tố này, hệ thống trường KIỀU ĐÀM được
chính bàn tay Sư trưởng nhân rộng, phát triển khắp mọi nơi và đã đi vào
sử liệu Giáo dục-Từ thiện của Giáo hội. Ở những nơi điều kiện
cơ sở vật chất không có hoặc các Ni viện chật hẹp, Sư trưởng vẫn tổ
chức được những lớp học với mục đích tương tự, dù chỉ năm mười
em học. Một cố gắng rất đẹp hữu ích quần sanh. Khi chưa có tài chánh
để thực hiện công việc từ thiện, thì bằng tâm huyết sẵn có, nhân lực
sẵn có, Sư trưởng đã làm từ thiện bằng cách đó, nói theo thuật ngữ
giáo dục đương đại là "Công tác từ thiện mang ý nghĩa thế hệ."
Khi Giáo hội Tăng Già Nam Việt
hình thành (1952), Ni Bộ Nam Việt cũng được ra đời, thì công việc từ
thiện vẫn được đặt trọng tâm và mang tầm vóc lớn hơn cho cả miền
Nam lúc bấy giờ.
Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống Nhất được khai sinh, thì tầm vóc hoạt động thêm rộng, từ vĩ
tuyến 17 trở vào. Đó cũng là giai đoạn hệ thống trường học từ thiện
KIỀU ĐÀM phát triển rộng rãi nhất, như năm 1967 có nơi từ trường Mẫu
giáo Kiều Đàm được mở rộng thành trường Trung học Kiều Đàm (từ lớp
1 đến lớp 9, hệ 12 năm). Chiến tranh không chịu thua để hạn chế bớt
phần nào các con số nạn nhân, đã phải khiến Sư trưởng Như Thanh, vốn
cũng không nhường bước trước đau khổ trần ai, đã thành lập thêm
hình thức Ký nhi viện và rồi đến Cô nhi viện, cũng mang tên Kiều Đàm
- Vị Thánh mẫu của Ni giới. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí.
Điều đặc biệt trong công tác từ
thiện của Sư trưởng Như Thanh là tính độc lập, tự lực rất cao, không
chịu lệ thuộc vào bất kỳ một tổ chức hay các thế lực nào. Nhờ vậy,
Sư trưởng rất vững vàng tiến bước bằng chính khả năng tự có của
mình. Ngoài các nguồn hỷ cúng của tín thí, các nhà hảo tâm, phần lớn
nguồn kinh phí có được để hoạt động là các cơ sở tự túc kinh tế
do chính Sư trưởng điều hành và quản lý. Ngay cả khi ở cương vị cao
trong tổ chức Ni Bộ Bắc Tông, Sư trưởng vẫn bằng ý chí đó, khả năng
đó điều hành công tác từ thiện mang đặc tính của Ni bộ, tránh được
điều có thể tránh, rất dễ làm lu mờ thiên chức của một người thực
thi công hạnh từ thiện. Vì thế, kể từ ngày bắt đầu công hạnh từ
thiện cho đến tận hôm nay, Sư trưởng Như Thanh vẫn bảo toàn được
thanh danh của mình một cách trong sáng. Đến đây có một thoáng suy nghĩ rằng,
cho đến tận thời điểm gần nhất, các mặt hoạt động từ thiện đã
rầm rộ, ở các nơi, các tổ chức và cả tận ngõ các nhà tư nhân… mà
Sư trưởng Như Thanh không có mặt? Tuổi già sức yếu sẽ không là lý do
thu mình hiện tại, bởi giờ đây uy tín, đức độ và cả đến các cơ sở
trực thuộc của Sư trưởng đã được đều khắp, hoặc có thể là đã
đến lúc phải đúc kết các hoạt động này của Sư trưởng? Theo người
viết bài này, hai khả năng đó đều không có cơ sở kết luận. Như vậy
vấn đề được đặt ra sẽ là: Từ thiện như thế nào mới mang đủ đầy
ý nghĩa. Điều đó, ngay từ đầu bài viết này đã được phân tích.
Sẽ cụ thể hơn bằng các con số
choáng ngợp sau đây Sư trưởng Như Thanh đã làm và làm được ngay giữa
lúc chiến tranh loạn lạc, trong lúc một cánh tay, trí huệ khác của Sư
trưởng vẫn đang nặng phần trách nhiệm cho giáo dục Ni tài, cho tổ chức
Ni bộ mà không có được một nguồn cung cấp nào, mặc dù điều đáng
trân trọng là Sư trưởng không đòi hỏi, không tham vọng. Các con số tuy
chưa được thống kê đầy đủ vẫn đủ sức bật dậy ý nghĩa tích cực
như sau:
- Năm 1961, mở phòng thuốc Nam miễn
phí, mỗi tháng điều trị khoảng 600 bệnh nhân.
- Năm 1966 mở phòng thuốc Tây miễn
phí, cũng với con số xấp xỉ 600 bệnh nhân đến khám và điều trị.
- Năm 1975, mở phòng châm cứu miễn
phí, mỗi tháng hơn 300 bệnh nhân được điều trị.
- v.v…
Về mặt hướng nghiệp, trước nhu
cầu của rất đông người dân nghèo đang rất khó khăn và mờ mịt ngày
mai do chiến cuộc gây ra, Sư trưởng đã cho tổ chức lớp dạy đan len miễn
phí tại chùa Huê Lâm I (năm 1966), lớp dạy cắt may miễn phí cũng tại chùa
Huê Lâm I (năm 1968) v.v…
Tất cả, kể cả các trường Cô
nhi viện, Ký nhi viện, đều do chư Ni đứng ra đảm trách. Điều này nói
lên công lao dạy dỗ, đào luyện Ni tài của Sư trưởng đã có kết quả
và đã có không ít chư Ni thành danh trong nhiều lãnh vực, góp phần làm lợi
lạc cho ngôi nhà chung Phật giáo. Rất hiếm hoi tìm gặp được một mẫu
người nhiệt thành, đa năng và có bản lãnh như Sư trưởng Như Thanh, càng
hiếm hoi hơn khi vừa thể hiện một vị chân tu có đầy đủ oai nghi tế
hạnh, vừa lo lắng tổ chức, vừa ổn định Ni đoàn bằng tri thức như vậy.
Theo con số báo cáo vào thời điểm
1972, ở cương vị Vụ trưởng Ni Bộ Bắc Tông, Sư trưởng Như Thanh đã
điều hành, quản lý, tổ chức Ni giới trực thuộc gồm có 136 tự viện,
50 tịnh thất và 989 Ni chúng, từ vĩ tuyến 17 trở vào. Trong cương vị này,
Sư trưởng không áp dụng phương cách từ thiện của riêng mình mà còn mở
ngõ, tùy nghi cho Ni chúng của tự viện ở các Tỉnh – Miền hoạt động.
Nhờ vậy, hầu hết Ni bộ các nơi đều có trung bình một Ký nhi viện,
Cô nhi viện và phòng phát thuốc miễn phí như: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng
Nam, Quảng Ngãi (miền Vạn Hạnh); Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận
(miền Liễu Quán); Tuyên Đức (miền Khuông Việt); Bình Dương, Gia Định
(miền Khánh Hòa); 11 quận Sài Gòn (miền Quảng Đức); Định Tường, Sa Đéc,
Vũng Tàu (miền Huệ Quang) v.v… Mỗi một Cô nhi viện trung bình không dưới
150 em. Cá biệt có nơi đến 400 em, như Cô nhi viện Tây Lộc (Thừa Thiên).
Ký nhi viện cũng trung bình không dưới 100 em. Bên cạnh ba mặt nổi bật
đó, có nơi còn thành lập được cả Viện dưỡng lão với trên dưới 50
cụ đến tá túc nương thân. Ngoài ra, như một định luật tất yếu, tất
cả các nơi đều có thành lập một đoàn từ thiện, thường xuyên đi ủy
lạo đồng bào chiến nạn. Tổng số các cơ sở từ thiện trực thuộc Ni
bộ do Sư trưởng Như Thanh tổ chức là:
- 41 Ký nhi viện (với 7.132 em)
- 6 Cô nhi viện (với 1.125 em)
- 4 Viện dưỡng lão (với 340 cụ)
Mặt trái cuộc đời là khổ đau,
được thể hiện bằng những con số lạnh lùng ấy, chỉ riêng của Phật
giáo, cụ thể hơn của Ni Bộ Bắc Tông Vụ, đủ để khẳng định điều
đó, ai sao tránh khỏi nỗi chạnh lòng. Huống lại là các bậc tu hành, khiến
các vị thêm một vai nặng oằn bận bịu giữa chốn trầm luân. Và để
hoàn thành các nhiệm vụ đó, ngoài bổn tánh chơn tâm từ bi, Sư trưởng
còn phải đích thân can thiệp với Bộ xã hội, với các tổ chức để gởi
Ni chúng theo học các kiến thức về dưỡng dục nhi hoặc các lớp tập huấn
tâm lý trị liệu.
Dẫu biết rằng từ thiện cũng
tương đồng một cách tu và bố thí Ba-la-mật là lý tưởng xả thân, nhưng
bằng cách nhìn cảm hoài, người viết bài này vẫn không sao thoát được
ý nghĩ con đường tiến tu giải thoát của các vị như thêm nỗi lao xao, gập
ghềnh và như xa hơn, bước chậm hơn. Thật đáng trân trọng biết dường
bao, khi nghĩ đến những điều ngược lại.
Có thể, người viết chưa có diễm
phúc tìm gặp được hình ảnh của một người làm từ thiện có bản
lãnh, có kiến thức tổ chức như Sư trưởng Như Thanh. Nếu không là thế
thì "sổ vàng", "kêu gọi", "vận động"… kèm
theo là cả một kế hoạch có trống chiêng hỗ trợ. Chợt nhớ, người học
Nho có nói câu: "Cầu nhơn bất như cầu kỷ – Nhập sơn cầm hổ dị,
khai khẩu kháo nhơn nan." Đại ý nói: Mong cầu kêu gọi kẻ khác
không bằng mong cầu kêu gọi chính mình – Vào núi bắt hổ còn dễ, mở
miệng ra nhờ người khác rất là khó.
Như đã trình bày, công tác từ thiện
nơi Sư trưởng Như Thanh đã vượt lên trên những khái niệm bình thường,
đã trở nên máu thịt gắn liền trong cơ thể. Hạnh từ thiện đó không
chờ cơ hội, không nhóm họp cờ xí, và tất nhiên không mong được ai
trao bằng tưởng lệ. Nhận thức được cái khổ đau ngay từ nơi ta đang
dung thân thọ nghiệp và tận dụng ngay cái hoàn cảnh khổ đau đó, biến
nó thành nguồn phúc lạc phụng sự lại cho chính tha nhân – một ý lực
tự tại. Đó chính là cái TÂM tha lực nào phải tìm đâu xa và mong cầu
ở ai, bởi "Chúng sanh chi tâm du như đại địa, ngũ cốc, ngũ quả tùng
đại địa sanh. Như thị tâm pháp, cập ư Như Lai" (Kinh Tâm Địa
Quán). Và lớn hơn, cái tâm đó còn "Dĩ thử nhơn duyên tam giới,
duy tâm tam danh chi địa" (Kinh Pháp Hoa - phẩm Tùng Địa Dõng Xuất).
Từ cõi trời Sắc Cứu Cánh, Đức Thế Tôn từng dạy chúng ta như thế.
Tôi chẳng dám làm một người như
Kinh Hoa Nghiêm nói "Tâm như công họa sư, họa chủng chủng ngũ ấm…",
chỉ dám lạm bàn về ý thức công hạnh từ thiện, bởi dù sao không có
nó (Vong thất Bồ-đề tâm, tu chư thiện pháp, tức vi ma nghiệp) tất cả
đều trở nên vô nghĩa. Ngược lại "Năng quán tâm giả, cứu cánh giải
thoát. Bất năng quán tâm giả, cứu cánh trầm luân." Vì vậy Sư trưởng
Như Thanh phải chăng đã dừng lại công hạnh từ thiện đúng lúc, nhưng vẫn
không ngừng được cái tâm chủ ấy mà vẫn bảo toàn hạnh nguyện lớn
lao "Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bổn hoài?" và biết đâu từ
nét đẹp vô ngôn hiện nay, Sư trưởng Như Thanh đã thực hiện được điều
lý tưởng "Truyền đăng tục diệm, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân
đức" để từ đây nhân tố được sáng lên từ điều không viết
nên lời:
- Sanh sanh bất khả thuyết
- Sanh bất sanh bất khả thuyết.
Giác Đạo