Sư trưởng Như Thanh với sự hình thành và phát triển
NI BỘ NAM
VIỆT
Trần Hồng Liên
1.
Sau sự chiếm đóng của Pháp ở Nam kỳ, cuối thế kỷ XIX, đạo Phật
miền Nam đi vào tình trạng suy thoái toàn diện, kéo dài đến đầu thế kỷ
XX. Đây cũng là giai đoạn manh nha trong bản thân Phật giáo, trong tâm
tư các tu sĩ hết lòng vì đạo pháp và dân tộc những đòi hỏi bức bách phải
đi đến sự thay đổi, phải bắt tay xây dựng lại một nền Phật giáo mới, cần
thiết phải nâng cao nhận thức cho người tu về cả hai mặt đạo và đời.
Muốn vậy, điều cần làm ngay là thành lập phong trào chấn hưng Phật giáo,
thực hành cho được ba việc lớn: Chỉnh đốn Tăng-già, kiến lập Phật học
đường, diễn dịch và xuất bản kinh sách Việt ngữ.
Song song với sự
ra đời phong trào chấn hưng Phật giáo là sự hình thành của các Hội Phật
học. Sự xuất hiện của Nam kỳ nghiên cứu Phật học hội vào năm 1931 mở ra
một giai đoạn mới trong sinh hoạt Phật giáo ở miền Nam. Đây là Hội Phật
học đầu tiên trong cả nước ra đời ở Sài Gòn. Tiềm lực và những bước phát
triển đầu tiên xuất phát từ các trường học mang tên trường Gia giáo, có
mặt ở Nam bộ từ năm 1927. Đa số là những Ni trường như Ni trường Giác
Hoa (1927) do sư cô Hồng Nga tổ chức tại Bạc Liêu, thu hút trên một trăm
Ni tham dự … là Ni trường đầu tiên ở Nam bộ. Từ đây cùng với nhiệm vụ tu
học của mình, trong hàng ngũ Ni giới, các Sư cô như Diệu Tấn, Diệu Tịnh,
Diệu Thuận, Huệ Tâm, Như Hoa, Diệu Tánh (Như Thanh) đã thao thức, trăn
trở suy nghĩ về vai trò của những cống hiến của giới này cho đồng đạo,
cho đạo pháp. Đó là những tiền đề cho sự phát triển của một tổ chức Ni
giới đầu tiên ở Nam bộ: Ni Bộ Nam Việt và đó cũng là những điều
kiện lịch sử- xã hội, đã thúc đẩy một Ni cô hãy còn khá trẻ bước vào con
đường xây dựng và cũng cố tổ chức Ni giới đầu tiên ở Nam bộ: Sư trưởng
Như Thanh.
2.
Sau sự thành công của Ni trường Giác Hoa ở Bạc Liêu, năm 1933, sư
cô Diệu Tịnh, đệ tử Hoà Thượng Như Nhãn, đã viết bài đăng trên báo Từ Bi
Âm, kêu gọi chấn hưng, tổ chức cho Ni giới Nam bộ. Tại Sa Đéc, chùa Giác
Linh khai mở lớp Gia giáo cho Ni chúng, Sư cô Huệ Tâm đã đóng góp nhiều
Phật sự quan trọng, đưa đến việc sắc tứ chùa của vua Khải Định, mang tên
Sắc Tứ Tân Hoà Tự. Các trường hương ở Giác Hoàng (1933) tại Bà Điểm;
trường hương ở Thiên Bửu (1934) tại Lái Thiêu; trường Ni Vạn An (1940)
ở Sa Đéc; Ni học đường Vĩnh Bửu (1940) Mỏ Cày – Bến Tre; trường Ni Linh
Phước (1941) tại Sa Đéc; Ni trường Bảo An ( 1941 ) Cần Thơ…
Qua việc khai mở
các lớp học, Ni trường dành cho Ni giới, chư Ni được đào tạo tại đây đã
dần dần trở thành những vị Ni lỗi lạc, có tài đức và một số là những
người lãnh đạo trong tổ chức Ni giới đầu tiên ở Nam bộ sau này (1956),
Như các Ni tiền bối Diệu Tịnh, Diệu Tấn, Diệu Kim, Diệu Ngọc, Như Hoa,
Diệu Ninh, Diệu Tánh (Như Thanh)... những vị này có điều kiện tham học
nhiều nơi. Ngoài các lớp gia giáo ở Nam Bộ, các Ni còn đi ra Bắc, Huế,
đi sang Nhật Bản như sư cô Diệu Ninh vào năm 1969 để tham dự khoá tu
Thiền.
Những năm
1939-1945 tại Gia Định, Ni trường do sư cô Diệu Tấn khai mở tại chùa Kim
Sơn (Phú Nhuận ) đã góp phần đào tạo các vị lãnh đạo Ni bộ sau này.
Ngoài số Ni sinh tại chỗ, Sư cô Diệu Tấn còn gởi một số Ni ra Huế và về
Cao Lãnh học. Điều này đã góp phần vào việc tạo ra mối quan hệ gắn bó
giữa các Ni trường, các lớp Gia giáo, tạo cho việc hoằng pháp được đẩy
mạnh và góp phần vào sự hình thành tổ chức Ni giới những năm sau đó.
Năm 1947, dưới
sự lãnh đạo và tổ chức của Sư cô Diệu Tánh, Ni viện Huê Lâm (quận 11,
Chợ Lớn) được khai mở, thực sự trở thành một trung tâm đào tạo Ni giới
trên mọi lĩnh vực: hoằng pháp, từ thiện xã hội, tạo tiền đề vững chắc
cho sự ra đời một tổ chức tại đây bằng một Đại hội thành lập Ni Bộ Nam
Việt vào năm 1956.
3.
Như vậy, từ sau phong trào chấn hưng Ni giới do Sư cô Hồng Thọ
(Diệu Tịnh) phát khởi, thể hiện qua hai câu thơ:
Trời chơn
hiện rõ bóng viên quang,
Rung chuông
thức tỉnh hàng Ni giới…
Từ
1927 đến 1956, gần 30 năm nhen nhúm ấy, Sư cô Diệu Tánh đã dày công đi
hoằng truyền lý tưởng hợp nhất Ni giới về một mối, đưa chư Ni vào một tổ
chức. Với hoài bão đó, suốt 30 năm dài, từ Sài Gòn, sư cô Diệu Tánh đã
lặn lội không quản ngại về miền Tây, gặp gỡ trao đổi với từng vị Ni ở
những chùa quê hẻo lánh, để tìm người cùng tâm nguyện. Từ Mỹ Tho, Cai
Lậy, Sa Đéc, Cần Thơ, Rạch Giá, Cà Mau, Châu Đốc… Đến đâu, sư cô cũng âm
thầm khuyến khích, cổ động, nêu lên vai trò của Ni giới và sự cần thiết
có một tổ chức Ni giới trong giai đoạn hiện nay. Chương trình hoạt động
lại được sư cô đưa ra bàn bạc, trao đổi với quý sư cô Diệu Kim ( chùa
Bảo An - Cần Thơ ), Như Huệ ( chùa Vĩnh Bửu – Bến Tre ), Hữu Chí ( chùa
An Hoà – Châu Đốc ), Liễu Tánh ( chùa Phật Bửu – Tiền Giang ), Như Hoa
(chùa Phước Huệ – Sa Đéc), Tâm Nhàn (chùa Giác Thiên – Vĩnh Long )… đã
toàn tâm đồng ý, đồng lòng với hoài bão tha thiết và hợp lý ấy. Bên cạnh
sự hỗ trợ hết lòng của quý chư Ni, sư cô còn được sự đồng tình chấp
thuận và ủng hộ của chư tăng trong giáo hội Tăng già Nam Việt, của đức
Pháp Chủ và Hoà thượng Trưởng ban trị sự ( cố Hoà thượng Thiện Hoà ).
Tất
cả những nhân tố nội lực và ngoại sinh ấy, hơn 30 nhen nhúm, đã có cơ
duyên để thành tựu. Lời hiệu triệu của Sư cô Diệu Tánh như tiếng chuông
báo giờ khắc, thời điểm đã chín muồi, nhân duyên đưa đến việc thành lập
tổ chức Ni giới đã hội đủ:
“… Nếu chị em chúng ta không đoàn kết lại để cứ rời rạc mãi, thì chẳng
khác chi những đứa con không cha mẹ, anh chị, bơ vơ giữa biển đời sóng
gió, tự mình đã bỏ rơi mình ra khỏi ngoài đoàn thể vậy. Một lần nữa,
chúng tôi xin đem tất cả tâm thành trông mong chi” em sau khi tiếp bức
thư này, hãy quay về với tất cả chị em Ni chúng để cùng dìu dắt nhau lên
đường giải thoát cho xứng đáng một vị Thích nữ…”
Ngày
06 và 07 tháng 10 năm 1956, Đại hội thành lập Ni Bộ Nam Việt được tổ
chức tại chùa Huê Lâm. Sư cô Diệu Tánh là trưởng ban tổ chức. Trong bản
tuyên ngôn của Ni chúng Nam Việt, với lời lẽ tràn đầy nhiệt huyết. Sư cô
đã làm toát lên ý chí mạnh mẽ và quyết tâm xây dựng tổ chức:
“Cuộc đại hội này mới mở màn sáng suốt trong tinh thần đoàn kết của Ni
chúng vừa thân mật, vừa hùng biện cho một đoàn thể biết giữ gìn giá trị
cao quý của mình. Trong những ngày tươi sáng trang nghiêm, cuộc Hội nghị
đã thâu hoạch một thành tích xứng đáng cho Ni giới miền Nam . Tiếp tục
trên bước diễn hành, mỗi người Ni sẽ là một gương lành sáng chói trong
giáo hội Ni. Tất cả bản dự thảo công tác sẽ là một bức gấm sắp dệt thành
do bàn tay siêng sắng của Ni chúng đáng kính yêu…”
Đại hội kết thúc
sau khi đã thông qua một văn bản nội quy Ni chúng bộ gồm 26 điều khoản.
Nội dung đã được phát hành rộng rãi vào năm 1957. Ni bộ được thành lập.
Trãi qua 4 nhiệm kỳ (1956-1957), Sư trưởng Như Thanh (Sư cô Diệu Tánh)
đều ở cương vị lãnh đạo Ban quản trị Ni bộ. Nhờ đó, hoạt động của Ni
giới ngày càng khởi sắc và phát triển.
4. Với cơ cấu tổ chức hợp lý, Sư trưởng Như Thanh đã cùng nhiều Sư bà
trong Ban quản trị tiến hành đồng loạt nhiều nội dung hoạt động phong
phú, thiết thực cho việc định hướng tu tập của Ni chúng bằng cách đề ra
tu tập nội hướng, lấy tinh thần Giới Định Huệ làm giá trị căn bản, chủ
trương kết hợp Thiền-Tịnh song tu. Đây là một phương pháp tu hành được
đa số tán đồng, thể hiện sự thích ứng với tính chất của Phật giáo Việt
Nam, là sự tổng hợp của ba yếu tố Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông.
Ngoài phần nội điển, Sư trưởng còn quan tâm đến phần ngoại điển, tạo
điều kiện cho Ni chúng sống tu kết hợp được đạo và đời. Lấy hoạt động từ
thiện xã hội làm căn bản. Con số 41 cơ sở Ký nhi viện cho 7.123 cháu và
6 cơ sở Cô nhi viện cho 1.132 cháu trong thời gian chưa đầy 20 năm là
một thành quả vượt bậc của Ni Bộ Nam Việt trong hoạt động từ thiện- xã
hội. Hội từ thiện Phật giáo Việt Nam đã được thành lập bên cạnh sự ra
đời của nhiều phòng khám miễn phí, lớp dạy nghề miễn phí, tạo điều kiện
bảo đảm cuộc sống cho người dân nghèo bằng nỗ lực tự thân của chính họ.
Ngoài ra, 14 ngôi trường được xây dựng trong thời gian Ni Bộ Nam Việt
hoạt động là con số không nhỏ, nói lên định hướng của Ni chúng trong vấn
đề nâng cao dân trí cho người nghèo.
Cùng
với nỗ lực chung của Ni giới toàn miền Nam, Ni Bộ Nam Việt ngày càng
phát triển, đưa đến sự hình thành một tên gọi mới vào năm 1972: Ni Bộ
Bắc Tông. Điều đó thể hiện sự lớn mạnh và những thành quả đó từ
những suy nghĩ trăn trở, đặt nền móng vững chắc của nhiều Sư bà tiền
bối, sự hỗ trợ của hàng hàng lớp lớp Ni chúng và nhất là từ sự lãnh đạo
của Sư trưởng Như Thanh.
Thành quả của Ni Bộ Bắc Tông, mà trước hết là một hệ thống Ni đoàn đông
đảo khắp Nam bộ, xuất phát từ chiếc nôi đào tạo của Ni trường, đã góp
phần mang lại ngày càng nhiều chư Ni trụ trì tại các chùa ở Nam bộ và
thành phố là đệ tử của Sư trưởng. Những vị Sư cô ấy, với đạo hạnh khiêm
cung, với tấm lòng vị tha trời biển, hàng chục năm qua đã san sẻ và ấp ủ
nhiều cuộc đời bất hạnh quanh mình; đã góp phần lớn vào việc xua tan nỗi
khổ đau vi” chiến cuộc, nghèo đói và bệnh tật của hàng chục, hàng trăm
ngàn gia đình thiếu may mắn! Có được một hàng ngũ Sư cô như vậy chính từ
sự hình thành và phát triển của tổ chức Ni giới, chính từ những trăn trở
suy tư và quyết tâm vượt khó, vượt khổ của nhiều Sư bà và của Sư trưởng
Như Thanh. Tổ chức Ni Bộ Bắc Tông là phương tiện tốt đẹp, là lò rèn
luyện, un đúc chí kiên cường, bất khuất, là lò thử thách gian khổ và hy
sinh vì hạnh phúc mọi người, của nữ tu sĩ Phật giáo Việt Nam. Trong thời
điểm mà những giá trị về năng lực của người nữ xuất gia còn bị xem nhẹ,
phụ nữ chưa được bình đẳng với nam giới, chưa thể có điều kiện cho người
nữ xuất gia thực hiện ước nguyện lớn của mình; rời xa gia đình, bôn ba
khắp chốn, vì hạnh phúc và sự trường tồn của đạo pháp, hành động của Sư
trưởng Như Thanh trong thời điểm đó là hành động thể hiện lòng từ bi, sư
dũng cảm và một trí huệ tuyệt vời ! Với khả năng đó, sư trưởng đã nối
kết được những thuận lợi đã có, vun đắp thêm những điều kiện mới và một
quyết tâm để hoàn thành thắng lợi. Sự thành công của ý chí và quyết tâm
đó chính là sự phát triển của Ni Bộ Bắc Tông, là thành quả của nhiều
hoạt động từ thiện- xã hội, là hạt giống tình thương đã được gieo rắc và
nãy nở khắp nơi từ con người đạo hạnh khiêm cung và nghiêm trì Giới luật,
đó là Sư trưởng Như Thanh, người nữ xuất gia đã góp phần quan trọng vào
sự hình thành và phát triển của Ni bộ ở miền Nam./.