- TIỂU SỬ
- HÒA THƯỢNG THÍCH HUỆ HƯNG
- Môn
đồ pháp quyến
-
Trưởng Ban Tăng Sự Trung
Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
-
Trưởng Ban Phật Giáo Chuyên
Môn Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
-
Hiệu Phó Trường Cao Cấp Phật
Học Việt Nam.
-
Phó Ban Trị Sự Thành Hội
Phật Giáo Thành Phố Hồ Chí Minh.
-
Tổng Lý Hội Đồng Quản Trị
Tổ Đình Ấn Quang.
-
Viện Chủ Tu Viện Huệ
Quang.
Hởi ơi! Đàn truyền giới thiếu
thầy Hòa Thượng
Chùa Huệ Quang vắng bóng Tôn sư
Mây trắng phủ đầy trời Bát
Nhã
Hoa Đàm rơi rụng cả lối về.
I. THÂN THẾ:
Hòa thượng
Pháp húy NGỘ TRÍ, đạo hiệu THÍCH HUỆ HƯNG, thế danh NGUYỄN THÀNH CHẨM,
thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử sư tổ Vạn An, Sa Đéc.
Ngài sanh năm
Đinh Tỵ (1917), tại làng Mỹ Thọ, Quận Cao Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp, thân
phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần
Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới
Sa Di Ni.
Hòa thượng là
con trưởng trong gia đình gồm bảy anh em. Ngài hướng dẫn dìu dắt các em
bước vào lộ trình giãi thoát sau này như:
1/ Thượng tọa Thích Huệ Viên, trụ trì
chùa Sơn Bửu (Vũng Tàu).
2/ Thượng tọa
Thích Minh Cảnh, trụ trì Tu viện Huệ Quang, chánh đại diện Phật giáo Quận
Tân Bình, giảng viên trường Cao cấp Phật học Việt Nam.
3/ Ni sư Thích
Nữ Như Trí, (đã viên tịch năm 1978).
4/ Ni sư Thích
Nư Như Diệu, trụ trì Tu viện Diệu Đức, Quận Bình Thạnh.
II. XUẤT GIA:
Vốn sanh trong
gia đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tin ngôi Tam Bảo, sâu trồng
nơi ruộng phước Tăng già, Hòa thượng sớm nhận thức cảnh trần gian
ảo mộng, cuộc đời giả huyễn vô thường. Rồi một hôm, đi tham
phương các thắng tích danh lam, đến núi Sập để tìm nơi tu dưỡng, Hòa
thượng quyết chí ăn chay trường, hằng ngày lo niệm Phật tụng kinh. Cơ
duyên hội đủ, âu ngày xưa đã sẵn nhân lành đến cửa Phật Vạn An, Ngài
được Tổ sư cho thế phát năm 1938, vừa tròn 21 tuổi.
Từ đó yên
phận tu trì, trau giồi kinh luật, gần gũi Thầy hiền bạn tốt, mong chờ
ngày dự tuyển Phật trường.
Năm 1942, Tổ
Vạn An khai đàn trao giới, Hòa thượng chánh thức thọ Sa Di. Vốn thông
minh sẳn có và lòng khát ngưỡng Đại thừa, ngày đêm tinh tấn tu hành,
lo phụng trì chánh giới.
Năm 1943, Tổ
Vạn An biết Hòa thượng là bậc Pháp Khí Đại Thừa, xứng đáng ngôi
Long Tượng của Phật pháp bèn quyết định cho thọ Tỳ Kheo Bồ Tát Giới
tại chùa Viên Giác ở Vĩnh Long. Sau đó ở lại chùa này an cư tu học kinh
luật trong mười tháng rồi qua chùa Phước Duyên, Mỹ Tho.
Năm 1945, Hòa thượng đến học tại Phật
học đường Lưỡng Xuyên, Trà Vinh được 6 tháng. Vì tình hình chiến sự
trong nước, Ngài trở về học với Hòa thượng Hành Trụ tại chùa Long
An, Sa Đéc.
Cuối năm
1947, Ngài cầu học với Hòa thượng Thích Trí Tịnh tại Phật Học Đường
Liên Hải, Sài Gòn.
III. HÀNH ĐẠO:
Năm 1951, vì thân tâm bì quyện, Hòa thượng
dưỡng bệnh tại chùa Giác
Nguyên,
Khánh Hội, Sài Gòn đồng thời dạy
kinh cho Tăng chúng. Cũng tại chùa Giác Nguyên này, Ngài phiên dịch kinh Duy
Ma Cật và Kim Cang Giảng Lục.
Năm 1954, với
hòai bảo “Hoằng pháp là nhà, lợi sanh là sự nghiệp”, Hòa thượng đã
phụ giúp Hòa thượng Thiện Hòa, Viện Chủ Tổ Đình Ấn Quang giảng các
bộ kinh Đại thừa.
Năm 1955, Hòa
thượng làm Phó Liên Trưởng Hội Cực Lạc Liên Hữu do Hòa thượng Thích
Trí Tịnh làm Chánh Liên Trưởng.
Năm 1956, Ngài
sang Nam Vang dạy khóa hạ tại chùa Chuẩn Đề, khi trở về Ngài được mời
làm trụ trì chùa Kim Huê, Sa Đéc.
Năm 1957, Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt mở khóa huấn luyện trụ trì”Như Lai Sứ Giả”
tại chùa Pháp Hội do Hòa thượng Thích Thiện Hoa làm trưởng ban và mời
Ngài đảm nhiệm Phó trưởng ban kiêm thơ ký.
Năm 1958, Hòa
thượng giảng dạy tại Phật học đường Phước Hòa, Trà Vinh.
Năm 1960, Hòa
thượng mời thượng tọa Thích Huệ Phát giữ chức trụ trì Tổ Đình Kim
Huê để Ngài yên tâm bế quan thiền định.
Năm 1962, Hòa
thượng xây dựng Thiền viện Tập Thành ở Bà Chiểu và làm giới sư Đại
giới đàn Phật học đường Nam Việt, Tổ Đình Ấn Quang.
Năm 1964, Hòa
thượng làm giới sư tại Đại giới đàn Việt Nam Quốc Tự.
Năm 1966, Hòa
thượng làm giới sư Phật học viện Cao đẳng Huệ Nghiêm.
Năm 1969, Hòa
thượng gỉang kinh Viên Giác tại chùa Tuyền Lâm. Trong thời gian này, Hòa
thượng cũng phụ trách gỉang dạy tại Phật Học Viện Cao Đẳng Huệ
Nghiêm.
Năm 1970, Hòa
thượng khai sơn Tu viện Huệ Quang rồi thường trụ và hành đạo tại đây.
Năm 1972, Hòa
thượng làm giới sư Đại giới đàn Huệ Quang, Mỹ Tho.
Năm 1973, Hòa
thượng làm giới sư Đại giới đàn Phước Huệ, Nha Trang.
Năm 1974, Hòa
thượng làm giới sư Đại giới đàn chùa Quảng Đức, Long Xuyên.
Năm 1975, Hòa
thượng làm giới sư Đại giới đàn Thiện Hòa, Tổ đình Ấn Quang.
Năm 1982, Thành
hội Phật giáo thành phố Hồ chí Minh nhiệm kỳ I đề cử Hòa thượng chức
vụ Phó ban trị sự Thành hội kiêm ủy viên giáo dục Tăng Ni.
Năm 1984, giới
sư Đại giới đàn do Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
tại Tổ Đình Ấn Quang, gỉang dạy các trường hạ do Thành hội tổ chức,
cùng giữ chức Hiệu phó kiêm giảng viên trường Cao Cấp Phật Học Việt
Nam cơ sở 2.
Năm 1987, Đại
hội Phật giáo nhiệm kỳ II, Hòa thượng được tái cử chức vụ Phó ban
trị sự Thành Hội.
Mùa an cư năm này, Hòa thượng
làm Thiền Chủ Trường hạ do Thành hội tổ chức tại Tổ Đình Vĩnh Nghiêm.
Tháng 10/1987, Hòa thượng dự Đại hội Phật Giáo toàn quốc kỳ II tại
Hà Nội. Ngài được tấn phong Hòa thượng và được đề cử làm Trưởng
Ban Tăng Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1988, giới
sư Đại giới đàn do Thành hội Phật giáo tổ chức tại Tổ đình Ấn
Quang.
Năm 1989, viện
nghiên cứu Phật học Việt Nam được thành lập, Hòa thượng được đề
cử làm Trưởng ban Phật giáo chuyên môn.
IV. SỰ NGHIỆP PHIÊN DỊCH:
Hòa thượng
đã phiên dịch: KINH DUY MA CẬT, KIM CANG GIẢNG LỤC, LƯỢC SỬ ĐỨC LỤC TỔ,
PHÁP MÔN TU CHỨNG LĂNG NGHIÊM ĐẠI ĐỊNH.
Chưa
xuất bản: KINH PHẬT THUYẾT ĐƯƠNG LAI BIẾN, KINH PHẬT THUYẾT DIỆT TẬN, TẬP TRI KIẾN
GIẢI THOÁT.
Đang
soạn dịch: KINH PHẠM VÕNG HIỆP CHÚ.
TÓM LẠI:
Cuộc đời hành
đạo và hóa đạo của Ngài rất bình dị, chơn tu thật học, nghiêm trì
giới luật, xiển dương Phật pháp bằng con đường giáo dục tại miền
Nam. Ngài thật xứng đáng là một Luật sư Giáo thọ của Tăng Ni, Phật tử
trong giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và của Tăng, Ni, Phật tử miền
Nam nói riêng vậy.
Thời gian năm
tháng, bốn đại theo duyên tăng giảm rồi ngã bệnh tại thiền sàng, chẳng
bao lâu Hòa thượng thu thần viên tịch ngày 28 tháng Giêng năm Canh Ngọ. Sống
được 74 tuổi đời và dự được 46 mùa kiết hạ.
-
Thật là:
Từ chơn như
Ngài đến ba miền
-
Nay viên tịch
trở về chín phẩm
-
Tông phong tổ
ấn gởi lại non sông
-
Giáo hội môn
đồ ngàn thu vĩnh biệt.
PHỤNG VÌ VIỆT NAM PHẬT GIÁO,
GIÁO HỘI TĂNG SỰ BAN TRƯỞNG, TỰ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG, TAM THẬP CỮU THẾ,
THƯỢNG HUỆ HẠ HƯNG, HÚY NGỘ TRÍ, NGUYỄN CÔNG HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/thichhuehung.htm