Sinh Hoạt Thời Mới Vào
Sinh hoạt giáo học Phật giáo Giao
Châu thời mới vào bao gồm trong những chủ đề chính, ở đây tình bày 6
chủ đề lớn như sau: Danh Đức - Cao Tăng, Chùa Viện, Kinh điển, Sinh hoạt
tín ngưỡng, Sinh hoạt luật học, Sinh hoạt giáo học.
6.1. Danh Đức, Cao Tăng
Sinh hoạt Phật giáo được định
hình từ những bậc Danh đức, Cao Tăng, người mà có những đóng góp truyền
giáo buổi bình minh của Phật giáo Giao Chỉ (Chiao Chih), nhìn chung trong số
nầy, nhà truyền giáo Phật giáo Ấn Độ đóng vai trò nỗi bậc hơn cả.
Sự có mặt của nhà truyền giáo trên vùng đất mới (Giao Châu) cũng ví
như những cánh nhạn băng qua bầu trời mà không lưu lại dấu, vết; Cho nên
tên gọi, công hạnh bậc Danh Đức, Cao Tăng buổi bình minh Phật giáo Giao
Chỉ thật không thể biết hết. So với những gì còn được ghi nhận qua
chính sử hay còn được biết qua văn học dân gian thì đó chỉ là một phần
nhỏ. Nay xin giới thiệu những vị điển hình như sau:
Sư Phật Quang + Chữ Đồng Tử + Tiên
Dung (Vua Hùng thứ 3)
Phu nhân Bát Nàn. Công chúa Thiều
Hoa. Tùy tướng nữ Nàng xuân (Nhà Trưng 40-43)
Mâu Tử (168+)
Sĩ Nhiếp + Chu Phù + Khu Liên (160+-226),
Khâu-đà-la Ksudra + Nàng Mán (Man Nương)
+ Tu Định (180+-226)
Chi cương lương Tiếp (256+)
+ Đạo Thanh (Đạo Hinh) + Na Liên đề da Xá.
Khương Tăng Hội + nhóm đệ tử tùy
tùng của Khương Tăng Hội (200+-280)
Ma - ha Kỳ - vực (Mahajivaka).
6.2. Chùa Viện
Thông Biện dẫn lời Đàm Thiên cho
biết Chùa - Viện Phật giáo thời Khương Tăng Hội là 20 ngôi (20 ngôi Bảo
Sát), thông tin nầy chưa nói hết được thực tế về hiện trạng Chùa -
Viện lúc bấy giờ. Những Chùa - Viện tiêu biểu có mặt vào thế kỷ thứ
3 đó là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, v.v…
6.3. Kinh điển
"Giao Châu có đường thẳng thông
Thiên Trúc" cho nên trong buổi đầu thời mới vào, kinh điển Phật
giáo Giao Châu có nguồn từ Phật giáo Phương Nam và có từ rất sớm trước
công nguyên. Một số kinh điển do dịch thuật, biên soạn, trước tác thấy
có:
Bát Nhã Bát thiên tụng kinh
Tứ thập nhị chương Kinh.
An ban thủ ý kinh chú
An ban thủ ý kinh tự
Pháp kính kinh tự
Pháp kính kinh chú
Đạo thọ kinh tự
Đạo thọ kinh chú
Tạp thí dụ kinh
Cựu tạp thí dụ Kinh
Lục độ tập Kinh
Kinh v.v…
Lý Hoặc luận
Nê hoàn Phạn bối
6.4. Sinh hoạt tín ngưỡng
Khâu-đà-la + Nàng Mán, Nền tín ngưỡng
Phật Pháp Vân - Phật Việt Nam
Tín ngưỡng chủ đạo Phật giáo
Giao Châu thời mới vào là tín ngưỡng Tứ Pháp. Tứ Pháp là bốn ngôi
chùa: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện (thần Mây, thần Mưa, thần
Sấm, thần Chớp). Hiện tượng tín ngưỡng Phật Tứ Pháp, đây là một sự
kết hợp giữa tín ngưỡng Phật giáo với tín ngưỡng Vật Linh của người
Việt cổ. Trong nhóm Tín ngưỡng Tứ Pháp nổi bật nhất là tôn thờ Phật
Pháp Vân (tín ngưỡng Nàng Man-Man Nương). Đây là Tín ngưỡng dân gian có
nguồn gốc từ sử truyện Man Nương-Khâu-đà-la. Kết hợp với tín ngưỡng
Đạo Mẫu của người Việt xưa, Nàng Mán (Man Nương) đã trở thành Phật
Mẫu. Phật Mẫu-Nàng Mán có nhiều tên gọi: Phật Pháp Vân, Phật Thạch
Quang, Phật Việt Nam.
Tín ngưỡng Phật Pháp Vân đã đi
vào lòng người dân Việt qua nhiều thế kỷ; định hình từ thế kỷ thứ
3 mà cho đến nhà Nguyễn (1802-1945), nó vẫn còn ngự trị trong trái tim
dân Việt. Từ Gia Long (1802-1820), Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị
(1840-1847), đến Tự Đức (1847-1884), các triều nhà Nguyễn vẫn còn tôn
sùng tín ngưỡng Phật Tứ Pháp: Pháp Vân (Mây), Pháp Vũ (mưa), Pháp Lôi (Sấm),
Pháp Điện (Chớp) qua việc cầu mưa, cầu tạnh, thảy đều ứng nghiệm
như Đại Việt sử ký toàn thư, Châu bản triều Nguyễn đã ghi.
Phật Pháp Vân đã chiến trọn tâm
hồn dân Việt qua bao đời. từ giới bình dân cho đến giới trí thức, từ
dân giả cho đến cung đình, từ vua quan đến quí tộc. Nhà nhà, người
người đều qua cửa ngõ Phật Pháp Vân mà về với Phật để Phật Pháp
Vân chính là Phật Việt Nam như lời ca truyền miệng: "Giao Chỉ có Luy
Lâu. Luy Lâu có chùa Dâu. Dù ai đi đâu về đâu, đến ngày Mùng Tám
(tháng tư) hội Dâu nhớ về". Và "Dù ai buốn bán trăm nghề, đến
ngày mùng tám thì về hội Dâu".
Bên cạnh đó, việc tôn thờ tín
ngưỡng Avalokitesvara Bồ-tát Quán Thế Âm cũng chiếm địa vị trọng yếu
trong sinh hoạt tu học của Tăng, Tín đồ đương thời, điều đó được
biết qua những sự kiện khảo cổ học còn lại ngày nay.
Mặt khác, tính thần bí trong Thiền
học Khâu-đà-la + Nàng Mán là do dung hợp giữa Phật giáo quyền năng với
tín ngưỡng Vật Linh bản xứ, đây là nhằm đáp ứng một nhu cầu xã hội
trong bối cảnh Giao Châu tự trị.
Từ những sự kiện trên đây cho
chúng ta một nhận định rằng: Khâu-đà-la Ksudra là người "lật đá
khơi ngòi giếng" nền thiền học Tâm Tông cho Phật giáo Giao Chỉ; là
người đóng góp bước đầu cho Thiền học Phật giáo Viễn Đông khi ông
mở bày, chỉ cho thấy (khai, thị) điều tâm yếu Phật Pháp cho đệ tử tại
gia (Ưu bà Tắc) Tu Định. Để tiếp theo sau đó, Khương Tăng Hội là người
phát triển lớn mạnh thiền học Giao Châu (25-220). Điều mà trong lời sấm
ngài An Thế Cao đã từng tiên đoán: “tôn ngô đạo giả cư sĩ Trần Tuệ,
truyền thiền kinh giả tỳ kheo Tăng Hội” ấy vậy.
6.5. Sinh hoạt thiền học
Thiền học Khâu-đà-la + Tu Định,
Nền Thiền học Tâm tông
Khâu-đà-la, người có những đóng
góp bước đầu cho thiền học Phật giáo Viễn Đông (Far-East). Ksudra là
tên tiếng Phạn (Sanskrit) của vị Tăng Ấn Độ. Ksudra phiên âm đọc là
Khâu-đà-La; là người đặt chân truyền giáo trên đất Giao Chỉ (old
Vietnam) vào những năm 190+ Ấn Độ. Ksudra sách Lĩnh Nam trích quái
gọi là Ca-la-chi-lê hay Gia-la-đồ-lê, nó có nghĩa là Ông "thánh da
đen" (Mecha).
Qua các nguồn tư liệu như: Lĩnh
Nam trích quái, tư phả chùa Đại Thiền, Thánh Tích thực lục, Pháp Vũ thực
lục, Báo Cực truyện, Tứ Pháp phả lục, Cổ châu pháp vân phật bản hạnh
ngữ lục, Pháp Vân Hậu Phật (sử thơ) v.v... ta thấy mấy điểm cần trình
bày về Khâu-đà-la như sau:
Ở Lĩnh Nam trích quái, tích truyện
đã bị lược đi quá nhiều chi tiết quan trọng, nên cốt truyện không
còn ý nghĩa (Nguyễn Đăng Thục _ Lịch sử tư tưởng VN, T I .tr 230)
Ở Tư phả chùa Đại Thiền, vì mục
đích cung cấp thông tin về tín ngưỡng Nàng Mán (Man Nương) nên hầu như
người viết truyện đã loại ra ngoài phần truyện về Tu Định, bỏ qua
nhiều đoạn mà trong đó có đoạn Khâu-đà-la ban pháp ngữ cho Tu Định, một
pháp ngữ hết sức quan trọng.
Khâu-đà-la với Tu Định
Đoạn văn ghi lời Khâu-đà-la khai
thị (mở lời chỉ dạy) cho Tu Định, nhiều sách ghi có khác đôi chút,
đoạn văn như sau: Ở Báo Cực truyện Sư nói:
"Vì lo sàng cám để tìm gạo,
người ta quên trời tối, thành ra mất lối, đầu óc mù mịt. Khi đầu
óc mù mịt, người ta trở thành lãnh đạm đối với tất cả, với bậc
hiền giả cũng như kẻ tầm thường. Con nay đã thâm nhập chánh pháp của
ta, thế là con có túc duyên. Gái A Nan của con sẽ được một ân huệ lớn
trong đạo. Khi nó gặp người tế độ, nó sẽ trở thành một pháp khí
quan trọng. Con hiểu ý ta không? Đạo nguyện của con sẽ được ấn khả
như thế .
Trong đoạn văn trên, nếu loại
riêng ra một bên về tính chất tín ngưỡng bản địa Việt Nam, qua quá
trình thời gian, đã ít nhiều pha lẫn với tín ngưỡng Phật giáo, còn lại
phần cốt lõi của pháp ngữ thiền: "Vì lo sàng cám để tìm gạo…"
Lời Thiền nầy của Ksudra chính
là một loại hình Lời thiền (thiền ngữ) sớm nhất có nguồn gốc từ
Phật giáo Luy Lâu lại có mặt trên diễn đàn Phật giáo Việt-Hoa, điều
mà, với Trung Quốc thì phải đợi đến 200 năm sau, hiện tượng kinh thiền
của Phật giáo Trung Quốc mới được Huệ Viễn (334-416), thỉnh mời Giác
Hiền (Phật-đà Bạt-đà-la_ Buddhabhadra: 359-429) về núi Lô dịch kinh Thiền.
Từ đó, Trung Quốc mới mở ra con đường Thiền học có phong cách riêng
và cho đến khi Đạo Sanh (thế kỷ 5) viết sách đốn ngộ thành Phật luận;
rồi đến Huệ Năng (thế kỷ 7) thì Thiền học mới chính thức định hình
cao trào "truyền riêng ngoài giáo lý, chẳng dựng lên [mô hình định sẳn
bằng] tiếng nói, chữ viết, [cốt yếu là] chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật". Lâu đài tâm tông Phật giáo Trung Quốc bắt nguồn từ
Huệ Viễn bên cạnh đó Phật giáo Luy Lâu qua Khâu-đà-la đã có những đóng
góp một phần không phải nhỏ vậy.
Thiền học Khương Tăng Hội, Nền
Thiền-Mật dung hợp
Thiền học Anabanna- An ban vốn là
thiền quán niệm hơi thở, là thiền sổ tức quán. Nó có nguồn từ Thiền
Nguyên thủy thì nay với Khương Tăng Hội Anabanna được giới thiệu qua cách
nhìn là Thiền Đại thừa của chư Phật để cứu độ chúng sinh đang trôi
nổi. (An ban là Đại thừa của chư Phật để cứu độ chúng sinh đang phiêu
trầm).
Điểm thứ 2 là trong khi cảm hóa
chúa Ngô ở Nam Kinh-Giang Đông, ngài Tăng Hội đã biểu hiện những nét Phật
giáo thần bí điển hình là việc cầu xá lợi. Việc nầy dù nó được
giải thích như là "mượn sức thần để rộng tỏ uy thiêng trên mảnh
đất mới khai hóa như đất Ngô và nhất là với mẫu người bạo ngược
như Tôn Quyền, thì qua đó cũng cho thấy tính chất thần bí của loại thiền
học nầy. Như vậy, Thiền học Khương Tăng Hội vừa mang tính chất đại
thừa cũng vừa có nét thần bí. Hay nói cách khác, thiền hoc Khương Tăng Hội
là Thiền-Mật dung hợp. Nó đóng vai trò chủ đạo trong sinh hoạt Phật giáo
chẳng những trong buổi đầu thời mới vào mà còn tạo ảnh hưởng nhất
định làm mô hình mẫu học lý cho nhiều thế hệ người xuất gia về sau
nữa. Sắc thái Thiền-Mật dung hợp trải qua nhiều thế hệ được biểu
hiện ở Pháp Thuận, Không Lộ, Giác Hải, Đạo Hạnh (họ Từ) và hầu như
nó đóng một phần lớn chi phối sinh hoạt tu học của người xuất gia
qua suốt chiều dài lịch sử Phật giáo Việt Nam. Từ đây vấn đề vị tổ
thiền học đầu tiên của Phật giáo Việt Nam được đặt ra. Ai là vị Tổ
thiền học đầu tiên của Phật giáo Việt Nam?
Khương Tăng Hội + nhóm đệ tử
tùy tùng của Khương Tăng Hội.
Cho đến nay các sử gia vẫn chưa nói
được hết một cách đầy đủ về Khương Tăng Hội và người kế tiếp
của dòng thiền nầy. Lôi Hà Trạch, thầy của Dương Không Lộ, theo TUTA
thì Hà Trạch là người kế thừa đời thứ 9 dòng thiền Khương Tăng Hội.
Tuy nhiên, vấn đề nầy còn đang bàn cãi. Có điều là Khương Tăng Hội
không phải là không có người tiếp nối. Ngay khi ông "đem chuông đi
đánh xứ người” sang Nam Kinh truyền giáo thì khi đọc lại lược truyện,
ta thấy với câu nói "Thầy trò Khương Tăng Hội … cùng cầu Xá Lợi
ở cung Ngô" mà lược truyện ghi lại. Qua đó cho thấy khi Khương Tăng
Hội cùng một số đệ tử lên đường sang Kiến Nghiệp truyền giáo thì
ai là người được chọn thay Hội gánh vác việc Phật nơi quê nhà Giao
Châu? Ngày nay, ta chưa có một thông tin nào về việc nầy. Một phát hiện
đầy đủ về những người tiếp nối dòng thiền Khương Tăng Hội là đề
tài đang mời gọi những nhà chuyên môn. Vấn đề nầy sẽ trình bày ở
chủ đề khác.
6.6. Sinh hoạt luật học.
Giữa kinh học với luật học,
không có sự phân kỳ rõ nét về thời điểm phiên dịch. Tuy nhiên trong buổi
đầu thời mới vào, để đáp ứng cho nhu cầu hoằng pháp, kinh điển được
phiên dịch trước. Kế đến, khi nhu cầu đào tạo người bản xứ xuất
gia mở ra thì bấy giờ việc phiên dịch luật học mới được tiến hành
và sinh hoạt luật học mới được định hình. Như vậy trong buổi bình
minh Phật giáo Giao Châu sinh hoạt luật học là chặng đường thứ hai kế
tiếp sau thời kỳ phiên dịch, khi mà thời kỳ phiên dịch đã đặt nền
tảng vững vàng thì kế tiếp sau đó là thời kỳ phiên dịch xuất hiện.
Bức tranh Phật giáo Giao Châu mô tả
sinh hoạt Luật học với những đàn tràng đầy đủ “Ba bậc Thầy”
(Tam Sư) trong nghi thức Độ Tăng (chọn người làm Tăng). Thông tin nầy có
từ tựa kinh An Ban thủ ý, đoạn "Tăng Hội nói về bậc Tam
Sư". Theo thông tin nầy thì nền luật học Phật giáo Giao Châu được
định hình khá sớm so với Phật giáo Trung Quốc. Vào thời Khương Tăng Hội
(247+), sinh hoạt luật học đã đi những bước khá dài trong sinh hoạt tu học
của Tăng, tín đồ. Trong khi đó, Phật giáo Trung Quốc phải đến những
năm 256, Đàm-ma-ca-la (Dharmakala) mới dịch Đàm vô đức yết-ma, từ
đó Tăng đoàn Phật giáo Trung Quốc mới được định hình.
Như vậy, sinh hoạt luật học Phật
giáo Giao Châu đã là nhân tố tạo nên thế hệ tiếp nối từ những bậc
Thầy của Khương Tăng Hội đến thế hệ người bản xứ như Tăng Hội và
thế hệ sau Tăng Hội. Trong sự nghiệp “tre tàn măng mọc” thì không thể
không quan tâm đúng mức vấn đề đào tạo người xuất gia tiếp nối,
trong đó sinh hoạt luật học là một nghành trọng yếu trong hoằng pháp vậy.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/phatgiaoluylau.htm