Dẫn nhập
Vào năm 1951, tôi được
Thầy Thích Trí Thủ mời giảng dạy tại Phật Học Đường Bảo Quốc về môn
“Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Giảng Yếu”. Sau đó, giảng khóa nầy lại
được trình bày tại PHĐ Hải Đức – Nha Trang. Chương trình chỉ được giới
hạn trong thời gian ngắn và đơn giản. Những bài giảng nầy về sau được
bổ khuyết với những tư liệu mới của những nhà nghiên cứu Phật Học
Nguyễn Huệ Chi, Lê Mạnh Thát, Trần Quốc Vượng Trần Văn Giáp, Thiền sư
Nhất Hạnh và các Tập san của Société Des Etudes Indochinoises... Phần
sau đây được trích trong các khóa giảng đó. Thiền Lâm Tế do ngài
Nghĩa Huyền (801-967) lập năm 850 đời nhà Đường. Dòng Thiền nầy đã
truyền sang Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Ở Việt Nam, tính đến nay
đã đến đời thứ 43. Tuy nhiên, khi du nhập VN, do ngài Nguyên Thiều thì
đã vào đời thứ 33. Bài nầy trình bày hai giai đoạn lịch sử đó.
Hai Phái Và Năm
Dòng Thiền
Thiền Tông được truyền sang
Trung Quốc từ đời Lương Võ Đế. Những phải đợi đến khi ngày Huệ Năng
dẫn đạo, sức phát triển mới hùng mạnh. Ngài Huệ Năng từ khi lên làm
Lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nổi
tiếng hơn hết là Ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc và Ngài Hành Tú ở Thanh
Nguyên. Hai Ngài này là mở đầu cho hai phái Thiền Tông là phái Nam
Nhạc và phái Thanh Nguyên.
Phái Nam Nhạc về sau
lại chia làm hai dòng là: Lâm Tế và Quy ngưỡng. Phái Thanh Nguyên
lại chia làm ba dòng là: Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn.
Sau đây là lược đồ của hai
phái và năm dòng Thiền tông ở Trung Hoa.
I.- Ngài Hoài Nhượng ( Ở
Nam Nhạc )
1.- Lâm Tế 2.- Quy Ngưỡng
II.- Ngài Hành Tú (Ở Thanh
Nguyên): 3.-Tào Ðộng, 4.- Vân Môn, 5.- Pháp Môn
1.-Dòng Lâm Tế
a) Sự truyền thừa
của dòngthiền Lâm Tế, tuần tự như sau:
- Hoài Nhượng Thiền Sư
- Ðạo Nhứt Thiền Sư (họ Mã,
tục gọi là Mã Tổ)
- Bách Trượng Thiền Sư (Hoài
Hải)
-
Huỳnh Nghiệt
Thiền Sư (Hỳ Vân)
-
- Lâm Tế
Nghĩa Huyền.
b.- Sự truyền pháp (thiền
cơ) của Thiền Lâm Tế
Khai tổ Lâm Tế (850) là
ngài Nghĩa Huyền (801 – 867) đời nhà Đường, trụ trì viện Lâm Tế, phủ
Trấn Châu, tỉnh Hà Bắc, thuộc hệ thống Nam Nhạc. Sau đó được phát huy
thêm qua những công trình xiễn dương của những thiền sư nổi tiếng như
ngài Tồn Tưởng, ngài Tuệ Ngung và nhất là ngài Diên Chiểu và ngài Sở
Viên. Ngài Sở Viên (987 – 1040) hoạt động ở triều Tống Chân Tông và
Tống Chân Tông.` Càng bành trướng, Thiền Lâm Tế Trung Quốc lại nẩy
sinh nhiều hệ phái khác: Ngài Tuệ Nam lập ra dòng Thiền Hoàng Long,
ngài Phương Hội lập ra dòng Thiền Dương Kỳ. Hai tông phái nầy hợp với
5 Thiền phái trên của Lâm Tế được gọi là “Ngũ gia thất tông”.
Sự truyền pháp của phái
Thiền tông khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như trong
phái Lâm Tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hết to lên,
mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ
Ngài Huỳnh Nghiệt Thiền sư:
Để cầu giác ngộ, một hôm
Ngài Lâm Tế hỏi Huỳnh Nghiệt:
- Sao gọi là đại ý Phật
pháp?
Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy
thiền trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm Tế một cái. Ba lần Ngài Lâm
Tế hỏi, thì ba lần được dánh như thế.
Ngài Lâm Tế lấy làm bối rối,
không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với Ngài Ðại Ngu Thiền sư,
nhờ thế Ngài Lâm Tế mới ngộ được tôn chỉ của Ngài Huỳnh Nghiệt. Từ đó
về sau, dòng Lâm Tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp
đánh và hét ấy.
Ngài Lâm Tế nói: "Có khi
hét một tiếng như bữu kiếm kim cương vương , có khi hét một tiéng như
sư tử giậm chân, có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi
hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét". Do thế nên người
đời gọi là "Lâm Tế tứ yết " (bốn tiếng hét của Lâm Tế).
Dòng Lâm Tế sau lại chia
làm hai nhánh: Dương Kỵ và Huỳnh Long. Từ
đời Tống về sau, dòng Lâm Tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền
tông trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm Tế.
2.- Dòng Quy Ngưỡng
Tổ Bách Trượng Thiền sư
truyền cho Ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy Sơn đất Ðàm Châu. Ngài
Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch. Ngài Quy Ngưỡng là một
vị Thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài , không ai có thể lường
được. Ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta lấy tên Ngài
để đặt tên cho cả một dòng Thiền tông. Sự truyền đạo của Ngài củng rất
kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi thì Ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu,
hoặc vẽ tướng người, tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo.
3.-Dòng Tào Ðộng
Sự truyền thừa của Thiền
tông này, thứ tự như sau: Ngài Thanh Nguyên Thiền Sư, Ngài Hy Thiên
Thiền sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa Thượng, Ngài Dược Sơn Thiền Sư, Ngài
Vân Nham Thiền Sư , Ngài Lương Giới Thiền Sư ở núi Ðông Sơn, Ngài Bổn
Tịch Thiền Sư ở núi Tào Sơn Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu
cảnh tam muội, truyền cho Ngài Lương Giới (Ðông Sơn); Ngài Lương Giới
cũng dùng pháp này để truyền cho Ngài Bửu Tịch (Tào Sơn).
4.- Dòng Vân Môn
Sự truyền thừa của tôn này,
thứ tự như sau: a).Ngài Thạch-Ðầu Thiền sư, b).Ngài Thiên Hoàng, c)
Ngài Long Ðàm, d) Ngài Ðức Sơn, đ) Ngài Tuyết Phong, e) Ngài Vân Uyển
Thiền sư ở đất Thiền Châu, Vân Môn.
Cách truyền pháp của Ngài
Vân Uyển (Vân Môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: Ai đến
hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ ''Dám''. Nếu người cầu đạo ngần ngại
không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ ''Di''. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ
như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là ''
Nhứt tự quán '' (Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di''.
5.- Dòng Pháp-nhãn
Sự truyền thừa của tôn này,
thứ tự như sau: a) Ngài Tuyết Phong Thiền sư, b) Ngài Huyền Sang
Thiền sư, c) Ngài Xa Hán Thiền sư, d) Ngài Vân Ích Thiền sư. Phương
pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân Ích Thiền sư là đúng
sáu tướng trong kinh Hoa Nghiêm sau đây: Tổng tướng: Tức là
muốn nói đến chơn như nhứt tâm. Biệt tướng: Tức là các duyên
sanh khởi từ chơn như nhứt tâm. Ðồng tướng: Các pháp đều đồng như
nhau. Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng. Thành
tướng: Dựng lập ra cảnh giới. Hoại tướng: Vị trí không đồng tức
là hoại tướng.
Thiền Tông ở Việt
Nam
Phật Giáo Việt Nam chịu ảnh
hưởng sâu đậm của Phật Giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền
tông được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt-Nam Thiền tông củng được
xem như là một phái chính của đạo Phật. Phật giáo (nói chung) truyền
vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II Tây lịch, do các vị danh Tăng người Ấn
Ðộ và Trung Hoa, như các Ngài Ma Ha Ha Kỳ Vực, Ngài Khương Tăng Hội (người
Ấn Ðộ ), Ngài Mâu Bác (người Trung Hoa).
Có một số nhà nghiên cứu
giả định rằng: Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết
được các vị này thuộc tôn phái nào, và truyền vào Việt
Nam giáo lý gì. Nhưng chúng
ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tôn. vì Thiền tông ở Việt
Nam là do từ Trung Hoa truyền sang. Mà Thiền tông ở Trung Hoa thì phải
đợi đến đầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương-Võ-Ðế (528), tổ Bồ Ðề Ðạt
Ma mới đưa vào. Vậy Thiền tông ở Việt-Nam chỉ có thể xuất hiện vào
cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch.
Vào năm 580 (cuối thế kỷ
thứ VI), Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, làn đầu tiên truyền Thiền tông vào
Việt Nam và là vị sơ tổ về Thiền tông Việt Nam (?). Sau Ngài Tỳ Ni
Đa Lưu Chi củng có nhiều vị danh tăng khác đem truyền Thiền tông vào
Việt Nam và nhờ đó Việt Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tôn như ở
Trung Hoa. Một điều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử Việt Nam là
ngoài những phái Thiền tông ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta,
cũng có một phái Thiền tông do một vị vua sáng lập, đó là phái Trúc
Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân Tôn.
Dưới đây, chúng ta tuần tự
nói về các môn phái Thiền tôn ấy:
1.-
Phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi;
a ) Vị Sơ tổ Thiền tông ở
Việt Nam (?)
Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi,
người Ấn Ðộ là đệ tử Ngài Tăng Xán (Tam tổ Thiền tông). Lần đầu tiên
gặp tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của tổ khác thường,
ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đảnh
lễ ba lần mà tổ vẫn ngồi lim dim đôi ắt chứ không nói gì hết (thiền cơ).
Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy trong người đổi khác, như
tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy. Tổ cũng chỉ gật
đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở
thành một trong những đệ tử xuấtt sắc nhất của tổ tăng Xán.
Về sau, Tổ dạy Ngài sang
phương Nam để truyền đaọ, Ngài vâng lệnh sang Việt Nam vào khoảng cuối
thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp Vân ở tỉnh Hà Ðông.
Khi sắp thị tịch, Ngài gọi
đệ tử là Ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng:
"Tâm ấn của Phật, không
có thể mập mờ được , Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không
thiếu, không đến không đi không được, không mất, không phải đông nhất,
cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sanh
cũng không diệt không xa xách cũng không phải không xa xách. Chỉ vì
đối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (tâm ấn) mà thôi".
Lại dạy rằng:
“Chư
Phật trong ba đời do đó (tâm ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ sư cũng do
đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loại
hữu tình vô tình cũng đều như thế cả. Khi Đệ tam Tổ Tăng Xán ấn
chứng ''tâm ấn'' cho ta, đã bảo rằng: ''Ông nên sang phương Nam hoằng
đạo, chớ ở đây làm gì. Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây.
Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền-ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ
lời ta. Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi
!''
Dạy xong, Tổ Tỳ Ni Ðà Lưu
Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Ðệ tử trà tỳ (thiêu) rồi thu
xá lợi, xây tháp để thờ. Về sau, vua Lý Thái Tôn có bài kệ truy tán
Ngài như sau:
Sáng tự lai Nam Quốc
Văn quân cữu tập thiền
Ưĩng khai chi Phật tín
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng-già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại trùng
thuyền.
Dịch nghĩa:
Mở lối qua người Việt
Nghe Ngài thông đạo
thiền
Nguồn tâm thông một mạch
Cõi Phật rộng quanh miền
Lăng-già ngời bóng
nguyệt
Bát-nhã nứt mùi sen
Biết bao giờ được gặp
Ðàm đạo lẽ thâm huyền.
b). Ngài Pháp Hiển Thiền sư,
vị Tổ thừ hai của Thiền tông Việt Nam:
Sau khi Tổ Tỳ Ni Ðà Lưu Chi
tịch, Ngài Pháp Hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền tông Tỳ Ni Ðà Lưu
Chi. Ngài họ Ðỗ, quê ở Quận Chu Diên (Sơn tây bây giờ). Khi tới chùa
Pháp Vân, Tổ Tỳ Ni Ðà Lưu Chi thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt và hỏi:
- Chú họ gì?
Ngài Pháp Hiển hỏi lại:
- Hòa thượng họ gì?
Tổ lại hỏi:
- Chú không có họ à?
Ngài trã lời:
- Sao lại không có ! Nhưng
đố Hòa thượng biết?
Tổ quát lên:
- Biết để làm gì?
Ngài Pháp Hiển chợt ngộ ý
Tổ Tỳ Ni Ðà Lưu Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ tử
và sau được truyền tâm-ấn.
Ðược ít lâu, sau khi Tổ
tịch, Ngài vào núi Từ Sơn tu thiền định, những loại cầm thú thường
quấn quýt chung quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ.
Ðệ tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền tông ở trong thời kỳ này có thể
nói là thạnh nhất. Ðó cũng nhờ công đức hoằng hóa của Ngài Tỳ Ni Ðà
Lưu Chi và Ngài Pháp Hiển. Về sau trong pháp nầy cũng có nhiều vị
thiền-sư xuất sắc như Ngài Pháp Thuận, Vạn Hạnh .v.v...
2.- Phái Vô Ngôn
Thông
a) Vị Sư tổ của Pháp Thiền
tông thứ hai ở Việt Nam:
Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng
Châu, xuất gia ở chùa Song Lâm (Triết Giang bây giờ). Tính Ngài điềm
đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh
hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ
tử của Mã Tổ).
Khi Ngài mới đến yết kiến
Bách Trượng Thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị
tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng:
Thế nào là pháp môn đốn ngộ
của phái Ðại-thừa?
Bách Trượng thiền sư dạy
rằng:
- Tâm địa nhược thông, huệ
nhật tự chiếu (nêu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu
sáng).
Nghe được câu ấy, tự nhiên
Ngài Vô Ngôn Thông ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt Nam tu tại chùa
Kiến Sơ, làng Phù Ðổng (Bắc Ninh), Ngài ngồi vây mặt vào vách trọn
nhày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ
trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng
trong Phật Thiền tông, nên tôn thờ Ngài làm Thầy.
Trước khi tịch gọi Cảm
Thành thiền sư mà bảo:
- Ngày xưa tổ sư Nam Nhạc,
khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng:
Nhất thế chư pháp, giai
tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh, pháp vô
sở trú
Nhược đạt tâm địa, sở
trú vô ngại
Phi ngộ thượng căn, thận
vật kinh hứa.
Nghĩa là: “Hết thảy các
pháp, đều tự tâm sanh; tâm nếu không sanh, pháp không chổ trú. Nếu
hiểu được vấn đề ấy thì làm việc gì cũng không trở ngại, cái tâm pháp
ấy nếu không gặp được bậc tâm căn, chớ nên truyền bậy.''
''Ðó là lời dặn của người
xưa nay ta cũng dặn lại câu ấy''.
Nói xong Ngài chắp tay mà
tịch.
b) Vị Nhị tổ của phái Vô
Ngôn Thông
Cảm Thành thiền sư: Thiền
sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh).
Khi Ngài Vô Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để
truyền đạo, nên ở lại. Ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở Ngài Vô Ngôn
Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ không
hề trễ nãi. Hai thầy trò rất mến nhau, do đó Ngài Vô Ngôn Thông mới
đặt cho Ngài đạo hiệu là Cảm Thành thật xứng đáng là người nối chí
của Ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài :
- Thế nào là Phật?
Ngài trả lời:
- Chỗ nào cũng là Phật cả.
Vị đệ tử lại hỏi:
- Thế nào là tâm của Phật?
Ngài trả lời:
- Không hề che đậy chỗ nào.
Ðây cũng là một câu chuyện
nhỏ, nhưng nói lên được cung cách truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy
giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa vô cùng.
Ngài Cảm Thành không bệnh
mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư.
c) Vị tam tổ của phái Vô
Ngôn Thông
Ngài Thiện Hội thiền sư:
Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành
thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy:
Trong kinh Phật có dạy: ''Ðức
Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà
nay thầy cứ dạy rằng ''tâm tức là Phật, Phật tức là tâm'' là
nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu, xin thầy dạy rõ.
Cảm Thành thiền sư nói:
- Ngươi nói trong kinh Phật
nói thế là ai nói đó?
- Vậy lời ấy không phải là
Phật thuyết sao?
- Lời ấy phải đâu là Phật
thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: ''Ta trú ở thế gian để dạy chúng
sanh 49 năm, chưa đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ!''
Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự để làm bằng chứng để cầu đạo, ấy
là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật,
ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, củng lại là ma vậy”.
- Nếu bảo tâm ấy tức là
Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật?
- Ngày xua có người hỏi Mã
Tổ rằng:'' Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật?''.
Mã Tổ trả lời:'' Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật,
hãy chỉ vào ấy cho ta xem !''. Người ấy không chỉ được . Mã Tổ lại
tiếp: ''Ðạt được thì khắp mọi nơi chỗ nào cũng là Phật, mà không
đạt được thì cứ sai lầm đi mãi mãi''. Thế là chỉ một lời nói nó
che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa?
Ngài Thiện Hội trả lời:
- Nếu như vậy đệ tử hiểu
rồi.
- Người hiểu thế nào?
- Ðệ tử hiểu rằng khắp hết
mọi nơi, chỗ nào củng là tâm Phật cả.
Nói xong Thiện Hội thiền sư
sụp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói:
-Thế là người hiểu tới nơi
rồi đó.
Do sự lãnh hội mau chóng đó
mà Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là
''khéo hiểu''.
Trên đây là một vài câu
chuyện về “đốn ngộ” mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái
Thiền tông.
Sự truyền pháp từ thầy đến
trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Ðến đời cư
sĩ Ứng Thuận (1221) là cuối cùng.
3.- Phái Thảo Ðường
Năm Kỷ dậu (1069) vua Lý
Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và
rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được
phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu. Trong số
quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản ''Ngữ
lục'' của mình bị một tù binh sữa chữa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó
là một vị thiền sư người Trung Hoa, theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng
may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy là Ngài Thảo Ðường, đệ tử của
Ngài Tuyết Ðậu Minh Giác ở Trung Hoa.
Khi biết tung tích của Thảo
Ðường thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư.
Ngài Thảo Ðường lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng
Long. Ðệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Ðường lập ra một phái Thiền
tông thứ ba ở Việt-Nam . Phái Thảo Ðường truyền xuống được năm đời,
đắc đạo cả thầy được mười chín vị.
4.- Phái Trúc Lâm
Ðệ nhất tổ của phái Trúc
Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm
16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng
không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng
Ngài mới đi nữa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt
về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một
vị anh quân và giử vững nền độc lập nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt,
nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc Nguyên, Ngài
truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện
chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là ''Hương Vân Ðại
Ðầu Ðà '' lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn
người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch
một cách rất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi.
Trong các phái Thiền tông ở
Việt-Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong
phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như Ngài Pháp Loa tôn
sư, Ngài Huyền Quang tôn sư ...
5.- Phái Lâm Tế
Phái Lâm Tế do Ngài Nguyên
Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung
Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua Việt
Nam,
trú ở phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, Mở trường dạy
học. Sau Ngài ra thuận hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế)
lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng.
Sau Ngài phụng mạng đức Anh
Tôn (Nguyễn Phúc Tráng 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các vị
danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Ðông mời
được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác, cùng thỉnh được
nhiều kinh điển, tượng, pháp khí trở về Nam. Chúc Nguyễn liền sắc mở
đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn
sắc ban Ngài chức trụ trì chùa Hà Trung.
Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê,
Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền bài kệ sau
đây:
Tịch tịch, kính vô ảnh
Minh minh, châu bát dụng
Dường đường, vật phi vật
Liểu liểu, không vật
không
Ðại ý: Thể pháp thân
thanh tịnh sáng suốt như mãnh gương sạch không bụi, như ngọc minh châu,
trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền sự sự, vật vật sai khác, nhưng đều
là thể pháp thân biểu hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng mà không
phải là không, tức là lý ''chân không diệu hữu''.
Xét trong ''Lịch truyền tổ
đồ'' thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì
Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt,
thì Ngài là sơ tổ.
6.- Phái Liễu Quán:
Phái Liểu Quán xuất phát từ
Liễu Quán Hòa Thượng. Ngài Liễu Quán quê ở Phú Yên (Sông Cầu). Ngài ra
Thuận Hóa thọ giới Sa Di với Ngài Thạch Liêm Hòa Thượng. Năm 1702,
Ngài đến Long Sơn cầu học pháp tham thiền với Ngài Tử Dung Hòa Thượng
(Tổ khai sơn chùa Từ Ðàm Huế, người Trung Hoa).
Tổ Tử Dung dạy Ngài tham
cứu câu: ''Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ '', (Muôn pháp về một,
một pháp về đâu?). Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền Ðăng
Lục, thấy có câu:'' Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ''. Ngài liền
tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung,
Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: ''Nhân duyên đã hết, ta sắp chết đây''.
Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy
rằng: ''Các người khóc làm gì? Các đức Phật ra đời còn nhập Niết bàn.
Ta nay đi đến rõ ràng. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm''.
Rồi Ngài viết bài kệ từ
biệt sau đây :
Nguyên văn:
Thất thập dư niên thế
giới trung
Không không, sắc sắc
diệu dung thông
Kim triêu nguyệt mãn,
hoàn gia lý
Hà tất bôn ba vấn tổ
tông.
Dịch nghĩa:
Ngoài bảy mươi năm trong
thế giới
Không không, sắc sắc
thảy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về
nơi cũ
Hà phải ân cần hỏi tổ
tông.
Viết xong, Ngài bảo môn đồ:
Sau khi ta đi, các ngươi
phải nghĩ cõi vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các
người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.
Ngài tịch vào ngày 22 tháng
11 năm Nhâm Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui
vẻ từ biệt môn đồ.
Thiền tông do người Việt
sáng lập chỉ có một Phái duy nhất do vua Trần Nhân Tôn làm Sơ tổ là
phái Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng đến nay, chúng ta lại thấy xuất phát một
phái nữa là phái Liểu Quán, do Ngài Liểu Quán một danh tăng Việt Nam
chủ xướng, như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra,
so với các phái Thiền tông khác ở Việt Nam, thì phái Liểu Quán là một
Pháp phái nằm trong phạm vi các tỉnh miền Trung Việt Nam.
Vả lại, Ngài Liểu Quán cũng
là đệ tử của Ngài Tử Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm Tế. Do
đó, pháp Liểu Quán, nếu chúng ta đi tìm nguồn gốc xa hơn một chút nữa,
thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm Tế (Nghĩa Huyền) mà thôi.
CÁC
THIỀN SƯ THỜI CHÚA NGUYỄN
Các chúa Nguyễn
với Phật Giáo
Ngay sau khi Doãn Quốc Công
Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Hóa, ông đã để ý đến
việc lập chùa. Năm 1601, ông đã bắt đầu cho xây dựng chùa Thiên Mụ ở
xã Hà khê, huyện Hương Trà. Năm sau, vào ngày Vu Lan, chúa đến chùa
Thiên Mụ lập trai đàn và làm lễ bố thí. Chúa lại cho dựng chùa Sùng
Hóa trên nền một ngôi chùa cổ ở xã Triêm Ân, huyện Phú Vang. Năm 1607,
chúa cho lập chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu, Quảng Nam. Năm 1609, chúa lại
lập chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, Quảng Bình.
Sau khi chúa dựng xong dinh
Quảng Nam
ở xã Cần Húc, chúa lại cho lập một ngôi chùa gần đó, gọi là chùa
Long Hưng, ở về mé Ðông của trấn. Như vậy trong thâm ý của chúa
Nguyễn, đạo Phật có thể làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập
quốc của dòng họ Nguyễn. Cũng vì vậy cho nên sau này, các chúa Nguyễn
đều tỏ vẻ sùng thượng đạo Phật và nhân dân Ðàng Trong cũng nghênh đón
các vị du tăng Trung Quốc với một tấm lòng chân thật, mặn nồng. Trong
thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh Thanh, nhiều cao tăng Trung
Hoa đã tới Ðàng Trong hành hóa. Một phần quan trọng của những tổ đình
hiện nay là do các thiền sư Trung Hoa sáng lập.
Vào thế kỷ thứ XVI đã có
mặt các thiền sư Trung Hoa sau đây tại Ðàng Trong:- Các thiền sư
Viên Cảnh và Viên Khoan ở Quảng Trị.- Thiền sư Minh Hoằng khai sơn
chùa Ấn Tôn, Thuận Hóa.- Thiền sư Giác Phong khai sơn chùa Thiên Thọ,
Thuận hóa.- Thiền sư Từ Lâm, khai sơn chùa Từ Lâm, Thuận Hóa.- Thiền
sư Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam.- Quốc sư Hưng
Liên, trụ trì chùa Tam Thai, Quảng Nam.- Thiền sư Pháp Hóa, khai sơn
chùa Thiên Ấn, Quảng Ngãi.- Thiền sư Tế Viên, khai sơn chùa Hội Tông,
Phú Yên- Thiền sư Nguyên Thiều, khai sơn chùa Thập Tháp Di Ðà ở Bình
Ðịnh và các chùa Quốc Ân và Hà Trung, Thuận Hóa.- Thiền sư Thạch Liêm,
khai sơn chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa.
Tất cả đều thuộc phái thiền Lâm Tế - chỉ trừ hai vị Hưng Liên và Thạch
Liêm thuộc phái thiền Tào Ðộng
Thiền sư Viên Cảnh và Thiền sư Viên Khoan
Kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng
vào lập cơ nghiệp ỡ Đàng Trong, Phật Giáo đã có cơ hội phát triển,
khác với sự ràng buộc trong hệ thống Nho Giáo ở Đàng Ngoài. Dân chúng
vùng nầy, kể cả quan lại cũng ngưỡng mộ đạo Phật.
Hồi thiền sư Hương Hải 25
tuổi, còn làm tri phủ ở Triệu Phong, Quảng Trị, tức là vào năm 1652,
ông đã được học Phật với hai thiền sư này. Vị thứ nhất tên là Lục
Hồ Viên Cảnh. Vị thứ hai tên là Ðại Thâm Viên Khoan. Danh từ Lục
Hồ có vẻ như là một địa danh ở Trung Hoa, không phải là một pháp danh,
điều này cho ta thấy hai thiền sư là du tăng Trung Quốc. Hai người đều
có pháp hiệu đứng đầu bằng chữ Viên: Viên Cảnh và Viên Khoan, vậy hai
người có thể là đồng sư hay đồng môn phái, cùng rời Trung Hoa với nhau
một lần. Không biết hai vị thiền sư này trú trì tại chùa nào ở Quảng
Trị. Tổ đình xưa nhất ở đây là chùa Tịnh Quang do thiền sư Chí Khả
khai sơn.
Một điều đáng chú ý là
pháp tự của Hương Hải do thiền sư Viên Cảnh đặt được bắt đầu bằng chữ
Minh (Minh Châu Hương Hải) và những pháp tử của Hương Hải thì
có pháp hiệu bắt đầu bằng chữ Chân như Chân Lý Ðề Mật, còn các
pháp điệt thì có các pháp hiệu bắt đầu bàng chữ Tính. Thứ tự
truyền thừa cũng giống như trong truyền thống Chuyết Chuyết: Viên
Văn - Minh Hành - Chân Nguyên - Tính Tính... Ðiều
này cho phép ta nghĩ rằng hai bên cùng theo một pháp phái và Hương Hải
là người cùng thế hệ với Minh Hành. Ðiểm này còn đợi khảo chứng.
Thiền sư Nguyên Thiều
Thiền sư Nguyên Thiều họ Tạ,
pháp tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, tỉnh
Quảng Ðông. Năm 19 tuổi, ông xuất gia tại chùa Báo Tư, tu học dưới sự
hướng dẫn của hòa thượng Khoáng Viên.
Ông theo thuyền buôn sang Việt Nam năm 1665 trong đời chúa Nguyễn Phúc
Tần. Ban đầu ông cư trú tại phủ Quy Ninh (Bình Ðịnh bây giờ), sau đó
lập chùa Thập Tháp Di Ðà. Chùa này tọa lạc ở làng Thuận Chánh, huyện
Tuy Viễn; sau chùa có mười ngôi cổ tháp Chàm cho nên chùa được gọi là
chùa Thập Tháp. Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí nói rằng chùa này
lập năm 1683, niên đại này có lẽ là niên đại hoàn tất chùa sau nhiều
năm xây cất. Năm 1691, chùa được chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho biển
ngạch và câu đối. Sau đó Nguyên Thiều lại ra Thuận Hóa dựng chùa Quốc
Ân và xây tháp Phổ Ðồng. Chùa Quốc Ân tọa lạc tại ấp Phúc Quả. Chùa
cũng được chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho liễn đối có ghi đạo hiệu của
chúa là “Thiên Túng Ðạo Nhân”. Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí nói
rằng tháp Phổ Ðồng được xây trước chùa Quốc Ân, sau đó bị binh lửa tàn
phá.
Sách Ðại Nam Liệt Truyện
Tiền Biên nói rằng Nguyên Thiều có phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc
Trăn sang Quảng Ðông rước thiền sư Thạch Liêm (Ðại Sán) và thỉnh pháp
khí. Bia đá chùa Quốc Ân do chúa Nguyễn Phúc Chú đề năm 1729 cũng nói:
“Thiền sư Hoán Bích Tạ Nguyên Thiều ở chùa Hà Trung vâng lệnh Nghĩa
Vương qua Quảng Ðông mời hòa thượng Ðại Sán”. Xét kỹ Nguyên Thiều chưa
từng mời Thạch liêm; cùng qua Ðại Việt với Nguyên Thiều cũng có những
thiền sư khác nhưng không có mặt Thạch Liêm. Sách Hải Ngoại Kỷ Sự
do Thạch Liêm viết cho biết ông sang Ðại Việt năm 1695 với một
người bạn và nhiều đệ tử của ông chứ không đi với Nguyên Thiều. Sách
lại kể chuyện ông tới thăm chùa Hà Trung là nơi thiền sư Nguyên Thiều
mà chỉ gặp mọt vị giám tự mới thọ giới tỳ khưu với ông mấy tháng trước
đó tại giới đàn Thiền Lâm. Một vị giám tự mới thọ tỳ khưu thì chắc
chắn không phải là thiền sư Nguyên Thiều, người đã khai sơn hai tổ
đình lớn là Thập Tháp và Quốc Ân. Ðiều đó cho ta thấy rằng Nguyên
Thiều đã tịch trước năm 1695 tức là năm Thạch Liêm tới Ðại Việt. Niên
đại 1729 đề ở bia Quốc Ân chỉ là niên đại dựng bia chứ không phải niên
đại nhập diệt của Nguyên Thiều.
Sách Ðại Nam Liệt Truyện
Tiền Biên nói Nguyên Thiều thọ 81 tuổi. Vậy ông mất vào năm nào và
sinh vào năm nào? Ta biết khi Nguyên Thiều mất, chúa Nguyễn Phúc Chu
ban cho ông thụy hiệu là Hạnh Ðoan Thiền Sư. Như vậy ta có thể biết
chắc rằng Nguyên Thiều mất vào khoảng từ năm 1691 tức là năm chúa
Nguyễn Phúc Chu lên ngôi đến năm 1695 tức là năm qua Ðại Việt của
thiền sư Thạch Liêm. Như vậy ông sinh vào khoảng 1610-1614 và qua Ðại
Việt vào khoảng từ năm 51 đến 55 tuổi.
Sách Ðại Nam Liệt Truyện
Tiền Biên có nhắc đến chuyện chúa Nguyễn Phúc Trăn nhờ Nguyên
Thiều qua Trung Hoa để mời cao tăng và thỉnh pháp tượng, pháp khí.
Thượng Tọa Mật Thể trong sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược
có nói rằng sau khi Nguyên Thiều về Ðại Việt, chúa Nguyễn Phúc Trăn có
cho tổ chức giới đàn lớn tại chùa Linh Mụ. Chưa thấy có chỗ nào chép
như thế. Theo Thượng Tọa Mật Thể, chuyến đi của Nguyên Thiều sang
Quảng Ðông có mục đích mời một số cao tăng sung vào ban thập sư truyền
giới tại giới đàn, đồng thời cũng là để thỉnh những pháp khí (như
tràng phan, chuông, mõ) cần thiết cho giới đàn. Ta nghĩ rằng một
chuyến đi như vậy không thể chỉ để thỉnh tượng Phật và pháp khí và một
vài vị tăng sĩ; cho nên việc lập giới đàn do Thạch Liêm tổ chức tại
chùa Thiền Lâm năm 1695. Chúa Nguyễn Phúc Chu khi tới giới đàn đã quá
khâm phục mà nói: “May có Lão Hòa Thượng tới đây mới được thấy pháp
môn quảng đại trang nghiêm như vậy”. Như thế có nghĩa là từ đó về
trước chưa có giới đàn nào tổ chức lớn như vậy, kể cả những giới đàn
do thiền sư Nguyên Thiều tổ chức. Chúa Nguyễn Phúc Chu dù còn trẻ cũng
đã được đi theo để dự xem giới đàn Linh Mụ tổ chức dưới thời chúa
Nguyễn Phúc Trăn.
Những vị cao tăng nào đã
cùng qua Ðại Việt với thiền sư Nguyên Thiều? Theo tác giả Việt Nam
Phật Giáo Sử Lược thì cùng qua với Nguyên Thiều có các thiền sư
Minh Hành Tại Tại, Minh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Vật
Nhất Trí. Ta không thể biết chắc được tát cả những thiền sư có tên
trên đây đã cùng qua với thiền sư Nguyên Thiều hay không. Thiền sư
Minh Hành chẳng hạn, như ta đã biết, đã qua Ðại Việt trước đó tới gần
60 năm, tới kinh đô Thăng Long vào năm 1633.
Vậy ta chỉ có thể nói rằng
một số các thiền sư có tên ở trên đã cùng qua với Nguyên Thiều, mà
chắc chắc nhất là những vị đã lưu trú lại các tổ đình Thập Tháp và
Quốc Ân do Nguyên Thiều khai sơn, như Minh Vật Nhất Trí, Minh Hoàng
Ðịnh Nhiên. Những vị này có thể là những pháp điệt gọi Nguyên Thiều
bằng sư thúc hay sư bá; cũng có thể nhiều vị là đệ tử trực tiếp của
Nguyên Thiều. Mật Thể không tin như vậy, cho rằng thời gian ở Ðại Việt
của Nguyên Thiều thì nhiều mà thời gian ở Quảng Ðông của ông thì ít,
làm sao ông có thể có đệ tử cao tăng được. Tuy nhiên, nếu ta biết
Nguyên Thiều sang Ðại Việt hồi 51 -55 tuổi, trở về Quảng Ðông lúc trên
bảy mươi tuổi thì ta có thể nói rằng trong số các vị gốc Trung Hoa trú
trì tại hai chùa Thập Tháp và Quốc Ân, có thể có vị là đệ tử trực tiếp
của Nguyên Thiều từ khi ông chưa bỏ nhà Thanh sang Ðại Việt.
Dù sao, ít nhất cũng là
bảy vị tăng sĩ vừa Hoa vừa Việt đứng sau ông một thế hệ đã được ông
nâng đỡ và đặt vào công tác hành đạo. Ðó là các vị cư trú tại Bình
Ðịnh (Thập Tháp) và Thuận Hóa (chùa Quốc Ân): Minh Vật Nhất Trí, Minh
Giác Kỳ Phương, Minh Trí Nguyệt Hạnh, Minh Dung Pháp Thông, Minh Lương
Nguyệt An, Thành Ðăng Minh Yêu và Thành Thiên Pháp Thông. Ðó là chưa
kể những vị nối nghiệp ông ở chùa Hà Trung là chùa mà ông trú trì vào
những năm chót của đời ông.
Chùa Hà Trung tọa lạc tại
xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, có lẽ đã được tạo dựng ngay sau khi chúa
Nguyễn Phúc Chu mới lên ngôi. Về chùa Hà Trung, thiền sư Thạch Liêm đã
viết: “Ðoái nhìn chùa son điện ngọc, lấp lánh trong bờ biển rừng tùng.
Nước mây man mác, trập trùng bóng dương, phảng phất chồn Bồng Lai Lãng
Uyển”. Và Thạch Liêm có làm ba bài thơ. Ðây là bài thứ nhất:
Xanh mấy tầng dương ẩn
Phật cung
Chuông vàng theo gió
thoảng bên song
Rèm tre lối cỏ lên hơi
núi
Gành đá lầu mây xuống
bóng đồng
Cá đỏ chực mồi ngoi mặt
nước
Chim xanh hót nắng đậu
giàn bông
Miếu đến vua chúa thanh
u quá
Như có hào quan chiếu
biển Ðông(79)
(Lục liễu thùy thùy ẩn
Phạm Cung
Chung Thanh chiêu đệ mãn
hà phong
Trúc ly thảo kính phù
lam yểm
Thạc hác hà lâu đảo ảnh
không
Hầu thực hồng ngư suy
thủy thượng
Ðề yên túy điểu lạc hoa
trung
Vương gia từ miếu âm sum
xứ
Hướng hữu linh quang tạ
Hải Ðông)
Trú trì tại chùa Hà Trung
không bao lâu thì Nguyên Thiều tịch. Thụy hiệu Hạnh Ðoan Thiền Sư là
do chúa Nguyễn Phúc Chu tặng sau khi Nguyên Thiều mất. Trước khi tịch,
ông có để lại bài kệ sau đây:
Lặng lẽ gương không
chiếu bóng
Sáng trưng ngọc chẳng
thâu hình
Rõ ràng Vật không phải
Vật
Mênh mông Không chẳng là
Không.
(Tịch tịch cảnh vô
cảnh
Minh minh châu bất
dung
Ðường đường vật phi
vật
Liêu liêu không vật
không).
Tháp Hóa Môn được dựng trên
một khu đồi nhỏ xóm Thuận Hóa, làng Dương Xuân Thượng. Bía đã chùa
Quốc Ân nói về Nguyên Thiều thì mãi đến năm 1725 mưói dựng, do chúa
Nguyễn Phúc Chú (1725-1738) đề. Chúa Nguyễn Phúc Chu không những ban
thụy hiệu cho Nguyên Thiều mà còn làm mọt bài minh khắc vào bia để ca
tụng đạo đức thiền sư. Bài minh ấy như sau:
Cao vút trí tuệ
Phạm hạnh vun trồng
Giới đao một lưỡi
Trăng nước thung dung
Ngồi đứng một thân
Trong lặng kiên cường
Hoằng pháp lợi người
Quán thân vốn không
Mây từ che khắp
Trời tuệ chiếu cùng
Ngắm đi ngắm đi
Thái Sơn oai hùng
(Ưu ưu bát nhã
Ðường đường Phạm thất
Thủy
nguyệt ưu du
Giới trì chiến lật
Trạm tịch cô kiên
Trác lập khả tất
Quán thân bổn không
Hoằng pháp lợi vật
Biển phú từ vân
Phổ chiếu tuệ nhật
Chiêm chi chiêm chi
Thái Sơn ngật ngật)
Thiền sư Giác
Phong
Thiền sư là người khai sơn
chùa Thiên Thọ, tức là chùa Báo Quốc, ở núi Hàm Long, Thuận Hóa. Ông
tới Ðại Việt có lẽ trước ngày Nguyên Thiều đi Quảng Ðông. Tiểu truyện
về ông và lịch sử truyền thừa chùa Thiên Thọ còn đợi khảo chứng. Sách
Hàm Long Sơn Chí của cư sĩ Ðiềm Tịnh trước tác mà Mật Thể đã
được đọc trước khi viết Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (đó là một
bản chép tay - sách này chưa từng được khắc bản) hiện giờ bị thất lạc,
chưa tìm ra được.
Thiền sư Liễu Quán khi còn
là du tăng đã tới chùa Thiên Thọ và thụ giáo với thiền sư Giác Phong.
Ðó là vào những năm 1690 - 1691. Sách Hải Ngoại Kỷ Sự của Thạch
Liêm cũng không thấy nhắc tới Giác Phong và chùa Thiên Thọ.
Thiền sư Tử Dung
Pháp tự là Minh Hoằng,
thiền sư Tử Dung đã khai sơn chùa Ấn Tôn, tức là chùa Từ Ðàm ngày nay.
Chùa Ấn Tôn tọa lạc tại Long Sơn, phía trên núi Hàm Long; chùa thuộc
địa phận làng Bình An, huyện Hương Thủy. Thiền sư là người Quảng Ðông,
chưa biết sinh năm nào và qua Ðại Việt năm nào. Ông thuộc đời 34 dòng
Lâm Tế. Có thể là ông đã qua Ðại Việt theo lời mời của Nguyên Thiều.
Bảng chùa Ấn Tôn ghi là chùa được tạo dựng năm 1703, nhưng chắc thiền
sư Tử Dung đã cư trú tại đây nhiều năm trước khi chùa được xây cất
xong. Bằng cớ là khi thiền sư Liễu Quán từ Phú Yên ra cầu pháp với ông
năm 1702 thì cũng được tới Long Sơn, nghĩa là một năm trước khi công
tác xây cất được hoàn tất.
Trong số các vị đệ tử đắc
pháp với ông, thiền sư Liễu Quán là người được ông yêu mến nhất. Tuy
vậy thiền sư Liễu Quán đã không thay thế ông tại chùa Ấn Tôn sau khi
ông tịch, mà lại khai sơn một tổ đình khác: đó là chùa Thiền Tôn. Liễu
Quán cầu pháp với ông nhưng không cư trú chùa Ấn Tôn. Lần đầu ông gặp
Tử Dung vào năm 1702. Lần gặp gỡ thứ hai là vào năm 1708. Lần này Tử
Dung chứng thực sự cho sự đạt ngộ của Liễu Quán. Lần thứ ba hai người
gặp nhau tại Quảng Nam khi cùng tới dự lễ Toàn Viện, và lần này Liễu
Quán đem trình ông một bài kệ “tắm Phật”. Ðó là vào năm 1712.
Chưa biết thiền sư Tử Dung tịch vào năm nào. Trong số những vị kế thế
Tử Dung tại chùa Ấn Tôn, có: Thực Vinh, Sát Ngữ, Ðạo Trung và Thanh
Dũng.
THIỀN
PHÁI LIỄU QUÁN
Vào hậu
bán thế kỷ XVII, thời Trịnh Nguyễn phân chia quyền lực, Phật Giáo hai
vùng vẫn có cơ hội trổi dậy. Nếu ở Ðàng Ngoài thiền sư Chân Nguyên
được xem là nhân vật then chốt để phục hưng Phật Giáoi, thì ở Ðàng
Trong thiền sư Liễu Quán cũng được xem là vị thiền sư lãnh đạo công
cuộc phục hưng Phật Giáo Ðàng Trong. Có những Thiền phái được du nhập.
Ngài Liễu Quán là một trong những nhân vật phát huy Thiền học Đàng
Trong.
Ngài
người làng Bạc Mã, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1670 từ một
gia đình nghèo. Ông mồ côi mẹ từ hồi lên sáu tuổi. Năm mười hai tuổi
ông đi chùa Hội Tôn với cha. Gặp thiền sư Tế Viên, ông rất yêu mến và
xin ở lại chùa để học đạo. Cha ông ưng thuận. Làm chú tiểu ở chùa Hội
Tôn, ông được thiền sư Tế Viên thương yêu. Ông ở lại, làm việc nấu
nước, nhặt rau, học Hán tự, hai thời khóa tụng, luật sa di và những
kinh điển dễ học. Chín năm sau, thiền sư viên tịch. Lúc bấy giờ ông
mới mười chín tuổi. Tang lễ của thầy làm xong, ông để chùa cho các sư
huynh trông nom, một mình lên đường học đạo. Năm 1690, ông vượt núi
băn ngàn ra tận Thuận Hóa núi Hàm Long, cầu học với thiền sư Giác
Phong. Ông được chấp nhận ở lại đây để tu học.
Nhưng
rồi những biến chuyển đã xẩy ra. Ai ngờ mới được một năm tròn thì ông
nghe tin thân phụ bị bệnh. Ông xin phép trở lại quê nhà để lo săn sóc
cho cha. Hàng ngày ông lên rừng đốn củi, đem về đổi gạo nấu cơm cho
cha ăn. Cuộc sống dù cam go đến đâu, ngài vẫn kiên trì đeo đuổi chí
nguyện của mình.
Bốn năm
sau, thân phụ ông từ trần. Lo ma chay cho cha xong, ngài lại lên đường
học đạo. Năm 1695, nghe nói thiền sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn lớn
tại chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa, ngài đến xin ghi tên thụ giới tỳ khưu
tại giới đàn do thiền sư Từ Lâm là Hòa Thượng Ðường Ðầu. Ðó là năm
1697, lúc đó được 27 tuổi. Ðịnh cư hai năm, ngài lại lên đường cầu học,
tham lễ khắp các tổ đình. Năm 1702 ngài được gặp thiền sư Tử Dung tại
chùa Ấn Tôn núi Long Sơn, Thuận Hóa. Thiền sư dạy; ông tham khảo về
công án: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” (Vạn pháp quy nhất, nhất
quy hà xứ?).
Ngài trở
về núi Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến năm năm mà chưa phá vỡ được công
án ấy, trong lòng lấy làm hỗ thẹn. Ngài không ngừng việc tham cứu. Một
hôm đọc Truyền Ðăng Lục đến câu “trỏ vật mà truyền tâm, chính
vì vậy mà người ta không hiểu” (Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ),
thoạt nhiên ông thấy tỏ ngộ, bèn buông sách xuống. Mùa xuân năm 1708,
ông trở ra Long Sơn, trình bày công phu mình với thiền sư Tử Dung. Tử
Dung nói:
Hố
thẳm buông tay
Một
mình cam chịu
Chết
đi sống lại,
Ai
dám chê mình.
Ngài vỗ
tay cười. Tử Dung nghiêm nét, nói: “Chưa được”. Ông lại nói: “Trái cân
vốn là sắt” (Bình thùy nguyên nhị thiết). Tử Dung lắc đầu.
Sáng hôm
sau, Tử Dung thấy ông đi ngang, gọi lại bảo: “Chuyện ngày hôm qua nói
chưa xong, hôm nay hãy nói lại xem”. Liễu Quán đọc:
Sớm
biết đèn là lửa
Cơm
chín đã lâu rồi!
Bây giờ
Tử Dung không tiếc lời khen ngợi. Mùa hè năm 1712 khi hai người gặp
nhau lần thứ ba tại đại lễ Toàn Viện tại Quảng Nam, Liễu Quán đem
trình Tử Dung bài kệ Tắm Phật mà ông mới làm. Tử Dung hỏi: “Tổ
truyền cho tổ, Phật truyền cho Phật, chẳng hay họ truyền nhau cái gì
nhỉ?” (Tổ tổ tương truyền, Phật Phật thụ thụ, vị thẩm truyền thụ
các thập ma?)
Liễu
Quán đọc liền hai câu:
Búp
măng trên đá dài hơn trượng,
Cây
chổi lông rùa nặng mấy cân.
(Thạch
duẩn trừu điều trường nhất trượng
Quy mao phủ phất trong tam cân)
Tử Dung
lại đọc:
Chèo
thuyền trên núi cao
Phi
ngựa dưới đáy biển
(Cao
cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã)
Liễu
Quán lại đọc tiếp:
Dây
đứt đàn tranh chơi suốt buổi
Gảy
sừng trâu đất rống thâu đêm
(Chiết
giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử vận nhật đàn)
Tử dung
gật đầu tỏ ý rất bằng lòng.
Thiền sư
Liễu Quán lúc bấy giờ đã 42 tuổi. Ngài đã có nhiều đạo tràng hành đạo:
đó là chùa Thiền Tông, chùa Viên Thông (Thuận Hóa) và các
chùa Hội Tông, Cổ Lâm và Bảo Tịnh ở Phú Yên. Chùa Thiền Tông được
tạo dựng ở núi Thiên Thai, vào khoảng năm 1708.
Mãi đến
năm 1747, nghĩa là năm năm sau khi thiền sư Liễu Quán tịch, chùa mới
được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban biển ngạch sắc tứ. Ðại Hồng Chung hiện
giờ của chùa cũng được đúc vào năm đó, tức là năm Cảnh Hưng thứ tám.
Chùa Viên Thông cũng được Liễu Quán tạo dựng ở chân núi Ngự Bình. Chúa
Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính đạo hạnh của ngài, nhiều lần triệu
thỉnh vào phủ, nhưng ngài một mực từ chối, không muốn lui tới nơi
triều đình. Vì vậy, chúa thường tới chùa Viên Thông ở chân núi Ngự
Bình để thăm ngài và hỏi đạo. Vì lý do đó, ngọn núi kia được gọi là
núi Ngự. Bốn giới đàn lớn được tổ chức liên tiếp trong ba năm, từ 1733
đến 1735 tại Thừa Thiên, có sự tham dự của các cao tăng và các bậc tể
quan cư sĩ ở kinh đô; thiền sư Liễu Quán được thỉnh cầu chủ tọa. Giới
Phật tử rất hâm mộ ông, cho nên năm 1740 lại tỉnh cầu ngài chủ tọa
giới đàn Long Hoa. Xong giới đàn này, ngài trở về chùa Thiền Tông. Năm
1742, tuy đã 72 tuổi, ông vẫn phải làm Hòa Thượng Ðường Ðầu của giới
đàn tổ chức tại chùa Viên Thông. Ðệ tử thụ giới của ông kể cả xuất gia
lẫn tại gia có tới gần bốn ngàn người.
Mùa thu
năm ấy, Liễu Quán an trú tại chùa Viên Thông; sáng ngày 21 tháng 11 âm
lịch, ông gọi thị giả mang giấy bút tới, và viết bài kệ sau đây:
Ngoài
bảy mươi năm cõi sắc không
Sắc
không không sắc đã dung thông
Sáng
nay vẹn ước, về quê cũ
Há
phải tìm cầu hỏi tổ tông
(Thất
thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim
triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà
Tất bôn mang vấn tổ tông?)
Viết bài
kệ xong, ngài ngồi dùng trà. Ðại chúng lên làm lễ, có người than khóc.
Ngài nói: “Quý vị đừng khóc. Các đức Phật thị hiện còn nhập Niết bàn,
còn tôi thì đường đi nẽo về đã rõ ràng, không việc chi phải khóc”. Mọi
người im lặng. Thầy trò nói chuyện hồi lâu, ngài hỏi: “Ðã đến giờ mùi
chưa?” Mọi người đáp: “Phải”. Ngài nói: “Sau khi tôi đi, quý vị phải
nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập
trí tuệ, chớ quên lời dặn của tôi”. Nói xong ngài nhắm mắt mà tịch
trong tư thế kiết già.
Chúa
Nguyễn Phúc Khoát sắc làm bia và tháp cho ông, và ban thụy hiệu là
“Ðạo Hạnh Thụy Chính Giác Viên Ngộ Hòa Thượng”.
Tháp
ngài được dựng tại chùa Thiền Tông trên núi Thiên Thai. Ông là người
thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế. Ngài để lại bài kệ truyền pháp sau đây:
Thiệt tế đại đạo
Tính hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận,
Ðức bổn từ phong
Giới định phúc tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Một khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn xướng chính tông
Hành giải tương ứng
Ðạt ngộ chân không
Dịch:
Ðường
lớn thực tại
Biển
thể tính trong
Nguồn
tâm thấm khắp
Gốc
đức vun trồng
Giới
định cùng tuệ
Thể
dụng viên thông
Quả
trí siêu việt
Hiểu
thấu nên công
Thuyền giữ lý mầu
Tuyên
dương chính tông
Hành
giải song song
Ðạt
ngộ chân không
Với
những công trình xây dựng và phát triển, thiền sư Liễu Quán đã làm cho
thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động, có gốc rễ ở Ðàng
Trong. Trước ngài, Phật Giáo ở Ðàng Trong mang nặng màu sắc Quảng Ðông.
Chính ngài đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế, và làm cho thiền phái này
trở thành thiền phái của đa số Phật tử Ðàng Trong. Kiến trúc lễ nhạc
bắt đầu trút bỏ màu sắc Trung Quốc và từ từ mang lấy màu sắc dân tộc.
Những bài tán lễ như “Cực lạc Từ Hàng” chẳng hạn, đã hoàn toàn mang
màu sắc Việt.
Bốn vị
đệ tử lớn của ngài là Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu dã tạo
lập bốn trung tâm hoằng đạo lớn, và hàng chục tổ đình được tạo dựng
khắp Ðàng Trong trong thế kỷ thứ mười tám đã thuộc về môn phái Liễu
Quán. Phong trào Phật Giáo phục hưng ở thế kỷ thứ hai mươi đã dựa trên
cơ sở của môn phái mang tên ngài.
PHÁI
LÂM TẾ Ở MIỀN
NAM
Vào thế
kỷ thứ mười tám, khi các chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi về phía Nam thì
một số cao tăng cũng theo làn sóng di cư đến trác tích tại các miền
đất mới. Ở Ðông Phố (Gia Ðịnh), có thiền sư Ðạt Bổn từ Quy Nhơn vào
lập chùa Thiên Trường năm 1755. Chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe tiếng ông,
ban tặng cho chùa biển ngạch đề “Phổ Quang Thiên Sơn Tự”. Sau
đó, chùa lại đổi tên là Kim Chương. Thiền sư Quang Triệt lên kế vị ông
sau khi ông tịch. Năm 1775, gặp thời nhiễu nhương, Hòa Nghĩa Ðạo Lý
tướng quân suy tôn đông cung Nguyễn Phúc Dương lên kế nghiệp chúa
Nguyễn để chống nhau với cách mạng Tây Sơn, đã cử hành lễ suy tôn tại
chùa này. Vì vậy, sau đó chùa lại được ban sắc tứ là “Kim Chương Tự”.
Người tiếp nối Quang Triệt là thiền sư Quang Tuệ. Một ngôi chùa khác
cũng được thành lập tại Gia định trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát là
chùa Tập Phước. Có lẽ vị tổ khai sơn chùa này là một vị thiền sư đời
36 của dòng Lâm Tế. Theo các linh vị còn để thờ tại chùa thì đời thứ
37 là thiền sư Thánh Ðắc, đời thứ 38 là thiền sư Phước Thường, đời
thứ 39 là thiền sư Ấn Thập và đời thứ 40 là thiền sư Hoàng Trí. Trịnh
Hoài Ðức từng làm thơ tặng một vị thiền sư tên là Viên Quang tại chùa
Tập Phước.
Sách
Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên nói rằng thiền sư Viên Quang thuộc
đời thứ 36 dòng Lâm Tế nhưng lại nói rằng Viên Quang tu
tại chùa Giác Lâm, cũng ở Gia Ðịnh. Có lẽ thiền sư Viên Quang này là
người đã khai sơn chùa Tập Phước, sau đó đã giao lại Tập Phước cho đệ
tử trông nom rồi dời về chùa Giác Lâm ở cho được thanh tịnh hơn. Giả
thuyết thứ hai: thiền sư Mật Hoằng đã khai sơn chùa Tập Phước và đã
mời sư huynh mình là Viên Quang đến cư trú với mình. Sau khi Mật
Hoằng được triệu về kinh sung chức trú trì chùa Quốc Ân thì Viên Quang
cũng về cư trú tại Giác Lâm. Hai thiền sư này đều là đệ tử của thiền
sư Linh Nhạc thuộc pháp phái Nguyên Thiều, gốc ở chùa Thập Tháp.
Nhưng
các vị du tăng hành đạo còn đi xa hơn là Gia Ðịnh, về thấu các nơi như
Biên Hòa, Tây Ninh, Hà Tiên v.v... Ở Tây Ninh chẳng hạn, thiền sư Ðạo
Trung khai sơn chùa Linh Sơn ở núi Ðiện Bà vào năm 1763. Ông là đệ tử
của thiền sư Ðại Cơ, và thuộc đời thứ tư của môn phái Liễu Quán.
Ðại Cơ là đệ tử của Tế Giác, và Tế Giác là đệ tử trực tiếp của Liễu
Quán. Ðạo Trung sau 30 năm trú trì tại Linh Sơn, giao sơn môn này cho
đệ tử là Tính Thiện và về khai sơn chùa Long Hưng ở Thủ Dầu Một. Ðó là
vào năm 1794.
Ở Hà Tiên thì có thiền sư Hoàng Lung. Theo sách Ðại Nam Liệt Truyện
Tiền Biên, thiền sư Hoàng Lung là người Quy Nhơn. Ông vân du tới
tỉnh Hà Tiên. Tại đây thấy núi Bạch Tháp ở phía Bắc đỉnh Vân Sơn núi
non quanh co, cỏ cây xanh tốt, ông liền dừng bước hoằng hóa tại đây.
Ông tịch năm 1757. Ðệ tử làm lễ hỏa thiêu nhục thân và lập tháp để thờ
xá lợi của ông.
CÁC THIỀN SƯ PHÁI LÂM TẾ TRIỀU NGUYỄN (TIÊU BIỂU)
1- THIỀN SƯ MẬT HOẰNG
Thiền sư Mật Hoằng là người
tỉnh Bình Ðịnh, đệ tử của thiền sư Linh Nhạc, thuộc pháp phái
Nguyên Thiều. Khoảng đầu thế kỷ thứ mười chín, ông hành đạo
tại các miền vùng Gia Ðịnh, và đạo phong ông được vua Gia Long biết
đến. Năm 1815, vua Gia Long triệu ông về kinh, ban cấp chứng chỉ Tăng
Cương và thỉnh ông trú trì tổ đình Quốc Ân do thiền sư Nguyên Thiều
khai sơn. Ông đã trùng tu tổ đình này, biến Quốc Ân thành một phạm vũ
lớn. Sau đó ông lại khởi sự trùng tu chùa Thập Tháp Di Ðà ở Bình Ðịnh,
chùa gốc của ông và cũng do thiền sư Nguyên Thiều sáng lập.
2- THIỀN SƯ PHỔ TỊNH
Thiền sư Phổ Tịnh người
tỉnh Quảng Nam, hiệu là Ðạo Minh, đề tử của thiền sư Chiếu Nhiên,
thuộc phái Liễu Quán. Năm 1808, ông được bà Hiến Khương
hoàng thái hậu thỉnh trú trì chùa Thiên Thọ (tức chùa Báo Quốc bây giờ).
Ông tịch năn 1816. Ông có một người đệ tử xuất sắc là thiền sư Nhất
Ðịnh.
3- THIỀN SƯ NHẤT ÐỊNH
Thiền sư Nhất Ðịnh pháp
danh là Tính Thiên, người Quảng Trị, sinh năm 1783. Ông xuất gia hồi
còn là một nhi đồng, lớn lên được thiền sư Phổ Tịnh chùa Thiên Thọ làm
lễ thế độ làm sa di. Sau ông thụ giới cụ túc với thiền sư Mật Hoàng ở
chùa Quốc Ân. Vâng mệnh vua Gia Long, ông giữ chức vụ trú trì chùa
Thiên thọ.
Năm 1833, vua Minh Mạng
thỉnh ông trú trì chùa Linh Hựu. Năm 1839 vua lại thỉnh ông làm Tăng
Cương chùa Giác Hoàng. Tính ông ưa vân du nên không thích quản đốc các
chùa quốc tự. Năm 1843, ông xin từ chức Tăng Cương chùa Giác Hoàng,
được vua Thiệu Trị chấp nhận. Ông rất hài lòng, nói:
Già rồi, may được vua
thương,
Một thân, một bát rộng
đường vân du.
(Hạnh phùng tấu dắc
nhưng hồi lão
Nhất bát cô thân vạn lý
du)
Mấy năm sau đó, ông lên núi
Dương Xuân Thượng quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, dựng một thảo am
để ở, gọi là An Dưỡng Am. Cảnh trí ở đây u nhàn đẹp đẽ. Ông tu ở đây
cho đến năm 1847 thì tịch, thọ đúng sáu mươi bốn tuổi. Ba người đệ tử
xuất sắc nhất của ông là Lưỡng Duyên, Cương Kỷ và Linh Cơ.
Thái giám viện nương vào
đức độ của ông, dựng chùa lớn tại địa điểm An Dưỡng Am, đặt tên là
chùa Từ Hiếu, kiến trúc tương tự kiến trúc lăng vua Tự Ðức. Tên chùa
là Từ Hiếu vì các đệ tử ông vẫn nhớ lúc sinh tiền ông rất có hiếu với
cha mẹ, dù đã đi xuất gia.
4- THIỀN SƯ DIỆU GIÁC
Ông họ Ðỗ, pháp danh là Hải
Thuận, sinh năm 1805 tại làng Bích Khê, Quảng Trị. Năm mười ba tuổi,
ông vào làm điệu chùa Thiên Thọ (Báo Quốc). Năm hai mươi tuổi được thụ
giới sa di với thiền sư Bản Giác ở chùa này. Năm 1835, ông được Bộ Lễ
ban cấp giới đao và độ điệp, và đắc pháp với thiền sư Nhất Ðịnh ở chùa
Linh Hựu. Ông trú trì chùa Diệu Ðế, đứng ra trùng tu các chùa Huệ Lâm,
Báo Quốc và Kim Tiên. Năm 1895, ông tổ chức đại giới đàn tại chùa Báo
Quốc.
Ông có nhiều đệ tử đắc pháp
xuất sắc như các thiền sư Tâm Quảng, Tâm Thể, Tâm Truyền và Tâm Tịnh.
Ông mất năm 1896, thọ chín
mươi mốt tuổi.
5- THIỀN SƯ VIÊN QUANG
Ông trú trì chùa Tập Phước,
tỉnh Gia Ðịnh, Ông lại là sư huynh của thiền sư Mật Hoàng, phát xuất
từ chùa Thập Tháp, Bình Ðịnh, và là đệ tử của thiền sư Linh Nhạc, dòng
dõi của thiền sư Minh Lương Nguyệt Am, pháp phái Nguyên Thiều.
Chùa Tập Phước đã được dựng vào hồi thế kỷ thứ mười tám, trong đời
chùa Nguyễn Phúc Khoát. Ông là bạn của Trịnh Hoài Ðức. Khi về làm tổng
trấn Gia Ðịnh, Trịnh Hoài Ðức có tặng ông một bài ngũ ngôn cổ điệu.
Bài thơ như sau:
Ức tích thái bình thì
Lộc đỗng phương thịnh mỹ
Thích Ca giáo hưng sùng
Lâm ngoại tổ phú quý
Ngã vi thiêu hương đồng
Sư tác chi giới sĩ
Tuy ngoại phân thanh
hoàng
Nhược mạc khế tâm chí
Phong trần thúc lương
bằng
Thế giới nhập ngạ quỷ
Bình ngạch nhậm phù trầm
Bào ảnh đẳng sinh tử
Yểm tứ thập dư niên
Hoàng thuấn tức gian sự!
Tây giao thích nhàn hành
Sơn môn ngẫu tưởng trị
Ngã hiệp biện trấn công
Sư đại hòa thượng vị
Chấp thủ nghĩ mộng hồn
Ðàm tâm, tạp kinh quý
Vãng sự hà túc luân
Ðại đạo hợp như thị.
tạm dịch:
Nhớ xưa hồi thái bình
ÐấtÐồng Nai được hưng mỹ
Ðạo Phật được hưng sùng
Nhà ngoại thêm phú quý
Ta đồng tử đốt hương
Sư theo đòi giáo nghĩa
Bên ngoài chia đạo, đời
Bên trong đồng tâm trí
Loạn lạc phải xa nhau
Thế giới thành ngạ quỷ
Ta trôi nổi vào ra,
Bọt bèo biển sinh tử
Mới đó bốn mươi năm
Chớp nhoáng chuyện thế
sự
Nay bỗng nhiên nhàn hành
Nơi thiền môn gặp gỡ
Ta hiệp biện trấn công
Sư cao tăng thượng sĩ!
Nhắc lại chuyện ngày qua
Tâm cùng tâm tương nghị
Chuyện xưa nói sao cùng
!
Ðại đạo vốn như thị.
Bài thơ này có lẽ được viết
năm 1816 lúc Trịnh Hoài Ðức được bốn mươi hai tuổi (“yểm tứ thập dư
niên”) lúc ông mới được làm tổng trấn Gia Ðịnh (“ngã hiệp biện trấn
công”)
6- THIỀN SƯ CƯƠNG KỶ
Pháp danh thiền sư Cương Kỷ
là Hải Thiệu, ông là đệ tử thiền sư Nhất Ðịnh, được thỉnh chủ trì chùa
Từ Hiếu, vân tập tăng chúng, làm cho Từ Hiếu trở thành một vùng thịnh
vượng. Ðệ tử xuất sắc nhất của ông là thiền sư Huệ Pháp, chủ trì chùa
Thiên Hưng, rất có công trong việc xiểng minh Phật giáo ở thế kỷ thứ
hai mươi. Một vị đệ tử lớn khác của ông là thiền sư Viên Giác, người
khai sơn chùa Ba La Mật. Ông có phát hai mươi lăm lời đại nguyện, còn
được khắc trên bai tháp tại chùa Từ Hiếu.
7- THIỀN SƯ LIỄU TRIỆT
Ông tên Ðoàn Thiên Thu,
người làng An Truyền quận Phú Vang, Thừa Thiên, pháp hiệu là Từ Minh,
xuất thân từ chùa Quốc Ân, sau khi thiền sư Từ Hòa ở
Quốc Ân viên tịch, ông được lập làm trú trì chùa Quốc Ân. Ba năm sau,
tức là năm 1852, ông từ chức, ra lập một thảo am ở làng Phú Xuân tên
là Viên Quang Ðường. Trong số các đệ tử của ông, có hoàng hậu Lệ Thiên,
chánh cung của vua Tự Ðức. Am Viên Quang sau này biến thành chùa Linh
Quang mà thiền sư Liễu Triệt là vị tổ khai sơn. Ông cũng đã từng kiêm
nhiệm chức tăng cương chùa Giác Hoàng. Ông mất năm 1882.
Làng An Truyền quê ông là
nơi xuất phát cuộc biến động năm 1866 chống lại vua Tự Ðức do ba anh
em Ðoàn Trưng, Ðoàn Tư Trực và Ðoàn Hữu Ái cầm đầu.
Cuộc biến động này sau được gọi là “Giặc Chày Vôi” vì khí giới chống
chính quyên là những chiếc chày giã vôi. Ðể những công trình xây cất
được kiên cố, người ta lấy vôi, rơm rạ, đường đen và giây tơ hồng trộn
lại, bỏ vào cối, và giã nhuyễn ra thành một thức vôi hồ đặc biệt. Vua
Tự Ðức tiêu phí không biết bao nhiêu nhân lực và tiền bạc trong việc
xây dựng lăng Tự Ðức trong khi dân tình đói khổ, dân chúng oán hận.
Vua lại tỏ ra bất lực trong việc ngoại giao, quân sự, để mất thành Gia
Ðịnh, tỉnh Ðịnh Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long vào tay Pháp. Hậu quả là
cuộc nổi loạn nói trên, đêm mồng tám tháng tám âm lịch, quần chúng
cách mạng đã cầm chày vôi đập phá tới nội cung, và vua Tự Ðức suýt nữa
là bị giết. Nhưng quan chưởng vệ là Hồ Oai đã dập tắt được cuộc nổi
loạn, và những người cầm đầu đều bị án tử hình.
Trong thời gian họat động
bí mật Ðoàn Trưng đã liên kết được một số các chùa như chùa Long Quang
và Pháp Vân. Những chùa này đã là nơi hội họp và chất chưa “chày vôi”.
Vị trú trì chùa Long Quang tên Nguyễn Văn Trí và rất nhiều vị tăng rải
rác các chùa ở kinh sư đã bị bắt vì có tội có liên lạc và hợp tác với
“giặc”. Tăng Ni bị bắt và hoàn tục gần hết. Sự trả thù của vua Tự Ðức
cũng nặng nề như một vụ đàn áp lớn. Kinh sư lúc ấy chỉ còn hai mươi
bốn ngôi chùa với hai mươi bốn vị tự trưởng mà thôi. Hoàng hậu Lệ
Thiên, dưới ảnh hưởng của thiền sư Liễu Triệt, đã khẩn khoản xin tha
tội chết cho các tăng ni liên hệ tới cuộc cách mạng.
8- THIỀN SƯ HUYỀN KHÊ
Thiền sư Huyền Khê pháp
danh Giác Linh là người Quảng Ðông. Theo Ðại Nam Liệt Truyện Tiền
Biên, ông thuộc đời 35 phái Lâm Tế. Thuở nhỏ, ông
đánh nhau lỡ tay giết mất một người, nên sau đó ông xin vào chùa xin
xuất gia hành đạo. Sau một thời gian tu hành, ông theo đường biển vào
tới Ðông Phố, làm một vị du tăng. Sau cùng ông ra Thuận Hóa tu ở chùa
Pháp Vân (sau đổi thành chùa Thiên Phước). Giới hạnh thanh tịnh, ông
có rất nhiều đệ tử. Nghe nói ông tinh thông võ nghệ, nhiều người tới
xin thụ giáo, ông cũng không từ chối.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/thien_lamte.htm