Thời du nhập
Phong cách kiến trúc và điêu khắc chùa chiền Việt Nam đã theo mộttiến
trình lâu dài hơn đình làng, đồng thời cũng đã biến đổi theoGiáo lý
Phật Giáo và ảnh hưởng với nền văn hoá bản địa.
Căn cứ theolịch sử Phật Giáo và đầu Công nguyên, trước khi Phật
Giáo TrungHoa du nhập, thì ở đất Giao Châu đã có một số bộ kinh và
bảotháp. Phật Giáo vào Việt Nam theo nhiều đường: từ Ấn Độ vượt
biểnsang; mặt khác theo đường bộ qua Kampuchia, Cham - Pa tới; từ
TâyTạng không vào Trung Nguyên (Trung Hoa), mà đã sang thẳng
miềnbắc Việt Nam; con đường sau mới từ Trung Hoa sang.
Dòng Thiên TỳNi Đa Lưu Chi (Vicitaruci) ở thế kỷ thứ VI đã biến cụm
đền Tứ Phápthờ các vị thần tự nhiên (mây, mưa, sấm, chớp) thành
các chùaPháp Vân (chùa Dâu), Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Vùng Dâu
trởthành một trong những trung tâm của chính quyền đô hộ, nơi
giaolưu Bắc - Nam từ Trung Hoa sang Ấn Độ.Phật Giáo du nhập đất nước
ta vào đầu Công nguyên. Trong thờinầy, Việt Nam còn gọi là đất Giao
Châu dưới sự thống trị của nhàHán. Những nhà sư Ấn Độ đến tại vùng
nầy theo các đoàn buôn bán,theo đường bộ lẫn đường thủy.
Trung tâm Phật Giáo sớm nhất ở tạiđất Giao Châu là Luy Lâu, nay là
Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.Từ khoảng đầu Công nguyên cho đến khoảng thế
kỷ thứ III, Phật Giáoở Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật Giáo Ấn Độ. Số
danh tăng từ Ấn vàTrung Á sang Giao Châu ngày càng nhiều thêm. Một
trong những nhàsư nổi tiếng là Khương Tăng Hội, đưa thiền tông trước
tiên vàonước ta. Vị sư nầy đã phiên dịch nhiều kinh điển Phật Giáo.
Cũng trong thế kỷ thứ III, một nhà sư Nhục Chi là Chi Cương LươngTiếp
(Kalasivi) cũng đã đến đất Giao Châu và đã dịch bộ kinh PhápHoa Tam
Muội (Saddharma Samadhi Sutra) tại đây. Một nhà sư ViệtNam là Đạo
Thành đã giúp đỡ Chi Cương Lương Tiếp trong việc dịchkinh. Trong giai
đoạn nầy, đất Giao Châu đã hình thành một trung tâmdịch kinh. Với sự
phát triển như thế người ta cho rằng số chùa chiền trongvùng nầy đã
gia tăng thêm. Chưa có di tích, di chỉ nào còn lưulại.
Vào đời Tùy (thế kỷ VI - VII, chùa Pháp Vân trở thành nơi tu trìvà
được dùng làm đạo tràng thuyết pháp của các vị danh tăng nhưTỳ Ni Đa
Lưu Chi, Pháp Hiền và Quang Duyên.Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) là
người Nam Thiên Trúc, đến GiaoChâu, ở chùa Pháp Vân năm 580. Ở đây
Ngài dịch bộ kinh "Tổng Trì"và giảng dạy Phật pháp. Theo Thiền Uyển
Tập Anh, sau khi nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi viêntịch, nhà sư Pháp
Hiền đã dựng chùa Chúng Thiện trên núi ThiênPhúc, huyện Tiên Du.Chùa
(đền) Pháp Vân trong thời gian đầu như một công đường, kiến trúcnguy
nga bằng gỗ. Có nhiều cột đỡ theo kiểu "con sơn trống đấu",mái ngói
ống trúc. Vách làm bằng gỗ hay bằng gạch, đất nung màuđỏ có chạm
những hình hoa văn kiểu chân lồng (hình thoi).
Năm1954, trong một cuộc khai quật đã tìm thấy được một số mảnh
vụncủa chùa nầy. Đây là một trung tâm tín ngưỡng quan trọng, tổ
chứccầu mưa hàng năm, lễ hội tưng bừng.Trong giai đoạn nầy, nhiều di
tích Phật Giáo cũng được tập trung.Trong truyện "Đàm Thiên Pháp Sư",
vua Tùy Văn Đế tặng cho GiaoChâu 3 hòm Xá lợi Phật, sai Thái thú Lưu
Phương chọn linh địa đểbảo tàng Xá lợi. Những hòm Xá lợi nầy đã được
chia cho chùa PhápVân và những ngôi chùa nổi tiếng khác ở châu Phong (vùng
Vĩnh Phúngày nay), châu Trường (vùng Ninh Bình ngày nay), châu Ái
(vùngThanh Hoá ngày nay) và châu Hoan (vùng Nghệ Tĩnh ngày nay)
đểnhững ngôi chùa nầy xây tháp chứa Xá lợi.
Tại đây, cũng đã có hơn 20 bảo tháp và 150 ngôi chùa hay tịnh
xá.Trong giai đoạn nầy, Phật Giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của
PhậtGiáo Ấn Độ, cho nên có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: những
ngôichùa tháp ở Giao Châu thời đó là hình thức kết hợp giữa tịnh
xá(Vihara) và Phật điện (Caitua), nghĩa là "có các tăng phòng làmnơi
ở và tu đạo của các nhà sư, cũng là nơi thờ Phật" (HVT).Những
ngôi tháp (stupa) đầu tiên tại Giao Châu cũng xuất hiệntrong lúc
nầy.
Vì Phật Giáo du nhập vào nước ta là Phật Giáo Đại
Thừa(Mahayana), có thể trong điện thờ có những pho tượng hay
tranhthờ chư Phật và Bồ Tát.Năm 820, một nhà sư Trung Quốc là Vô Ngôn
Thông, học trò của vịtổ Thiền tông Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814)
đã đến Việt Nam,trụ trì chùa Kiến Sơ (Gia Lâm, Hà Nội), lập ra thiền
pháp mới.Vào thế kỷ thứ X, nhà Đinh rồi nhà Lê lên ngôi, vì mục đích
quânsự nên đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình). Một toà thành lớn được
xâydựng giữa các núi đá vôi; trong phạm vi nầy có chùa chiền.
TheoThiền Uyển Tập Anh, những ngôi chùa nổi tiếng tại đây là chùa
ĐạiVân, chùa Vạn Tuế. Chùa Tháp là ngôi chùa mà nay tìm thấy
dấutích ở ven sông Hoàn Long.Chùa Bà Ngô ở Hoa Lư cũng được
xâydựng từ đời Đinh. Bài văn trên tấm bia đời Nguyễn có ghi: "ChùaBà
Ngô trong ấp ta là một danh lam ở đô cũ nước Cồ Việt". Cồ Việttức là
nước Việt Nam dưới đời Đinh.
Cũng như Luy Lâu, đây cũng làmột trung tâm lớn của Phật Giáo. Cũng
như các chùa Tứ Pháp, chùanầy thờ một nữ thần, ảnh hưởng của chế độ
mẫu hệ. Ở Hoa Lư còn cóngôi chùa Nhất Trụ (Một Cột). Chùa có tên Nhất
Trụ vì trước chùahiện có một cột đá cao 3m, có 8 mặt, có khắc bài
thần chú trongkinh Lăng Nghiêm (Surangam Sutra).Năm 875, Cao Biền
được vua Đường cử sang Giao Châu làm Tiết ĐộSứ, sau khi giẹp được
giặc Nam Chiếu. Tương truyền Cao Biền chonung 80,000 hòn gạch hình
dung những cây tháp nhỏ, dưới trôn mỗihòn đều có chừa một lỗ sâu,
rồi cất đại quân cho mỗi sĩ tốt xócngọn giáo vào mỗi hòn, vác đến
núi Lẫm Sơn (huyện Võ Giàng, BắcNinh ngày nay) đồng thanh hô câu "Thông
Vận Hoàng Đế", rồi xếpchồng lên thành một ngọn tháp lớn. Từ đó tháp
nầy tên là Bát VạnSơn.
Vào tháng ba năm 1950, đã tìm thấy những cây tháp nung nầyđược xếp
thành hàng ở về phía đông chân núi nầy. Có một số thápcòn có ghi
hàng chữ "Tháp chủ khai thiên Thông Vận Hoàng Đế".Những tháp nầy
đều được nung thành màu đỏ, hình dung một cây thápvuông nhỏ, phía
dưới mỗi cạnh 16cm, lên trên thu nhỏ dần. Thápchia 5 tầng, có bệ
cao ở dưới, chóp nhọn trên cùng. Những mẫutháp nầy phản ánh nét kiến
trúc giản dị theo phong cách kiến trúcđời Đường.
Nhiều nơi khác cũng tìm thấy loại tháp nầy như di tíchHang Đầu Gỗ tại
vịnh Hạ Long và Bãi Cháy ở Hòn Gai. Khi quân NamChiếu sang đánh chiếm
lấy La Thành (Hà Nội) thì nhà Đường cho dờithủ phủ Giao Châu đến Hải
Môn (Quảng Yên, Hạ Long ngày nay). Nhưvậy, tục xây tháp nầy diễn ra
nhiều nơi, phần nhiều là trị sở củaquan lại nhà Đường tại Giao Châu.
Tháp mang tính chất phong thủy.
Đời Lý
Trong thời gian đầu của nền tự chủ nước ta, tuy những triều đại
Ngô,Đinh, Lê đã thắng được xâm lược qua nhiều chiến trận lẫy lừng, bảo
vệđược nền độc lập, bắt đầu xây dựng nền mỹ thuật dân tộc. Tuy
nhiên,thời gian lịch sử ngắn ngủi của những vương triều này khi quyền
hànhchưa được tập trung, kinh tế chưa phát triển, không cho phép
nhữngtriều vua nầy xây dựng được bao nhiêu. Đến đời Lý bộ máy
trungương tập quyền đã tổ chức hoàn bị, mở mang bờ cõi, trong nước
anbình, là giai đoạn thích hợp cho những chương trình kiến thiết.
Chúngta cũng hiểu được Phật Giáo du nhập nước ta từ thời Bắc thuộc,
đếnkhi nước nhà đã được quyền tự chủ, Phật Giáo đã có ảnh hưởng khá
sâurộng, nhất là những tầng lớp trên.
Trong thời Lý, địa vị PhậtGiáo hết sức quan trọng. Lý Công Uẩn,
người sáng lập ra nhà Lý, khi cònnhỏ sống trong nhà chùa; cho nên về
sau, các vua đời Lý cùng hàng quýtộc, vì tín ngưỡng và vì chính trị,
rất sùng mộ đạo Phật. Cứ xem bàibia chùa Linh Xứng lập ra từ thời nhà
Lý, thì thấy rõ Phật Giáo có lợicho chính quyền như thế nào "... Ôi!
sinh nuôi ta, không ai lớn hơnvua, cho nên phải tôn kính, dẫn dắt ta
không gì cao hơn phúc huệ,cho nên ta phải tín sùng. Lấy cái phúc lành
ấy, chúc cái vận lớn ấy,trông cho cơ đồ lâu dài, dòng vua hưng thịnh..."
Nói chung, đời Lý xây dựng mấy nghìn ngôi chùa, tạc mấy vạn tượngPhật.
Chỉ một bà Thái Hậu thời vua Càn Đức nhà Lý cũng đã đứng ra kiếnthiết
gần 100 ngôi chùa. Phật Giáo phát triển, chùa chiền xây dựng
nhiềuđương nhiên phải cần nhiều thợ. Mỗi chùa phải có đủ tượng, đủ
chuông,phải được trang trí trang nghiêm, do đó sinh ra nhiều nhu cầu
mới trongtừng lãnh vực.
Nghệ thuật Phật Giáo đời Lý nói chung, đều phục vụ cho tôn giáolà
chính, nhưng phong cách nghệ thuật của mỗi triều đã có nhữngnét khác
nhau. Dưới đời Lý, mặc dù những nghệ nhân đã có những sáng tạo độcđáo,
tuy nhiên trong một số tác phẩm trong thời nầy vẫn chưa thoát hẳnảnh
hưởng ngoại lai. Sau những chiến thắng chống xâmlăng, tinh thần dân
tộc càng lên cao, tính tự cường của dân tộc biểuhiện rõ rệt trong mọi
mặt hoạt động của đời sống tinh thần và xã hội.
Hơn thế nữa, qua mấy trăm năm từ khi nước nhà được tự chủ, những
nghệnhân Việt Nam đã có một truyền thống dân tộc vững vàng, biết dung
hoànhững nguồn ảnh hưởng từ bên ngoài, tạo thành một phong cách rất
vữngchắc. Vào đời Lý, Phật Giáo phát triển mạnh mẽ, bành trướng trên
nhiều địahạt khác nhau, trong đó kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, hội
họa,điêu khắc chùa chiền, bửu tháp, điện đài cũng chịu ảnh hưởng theo.
Theo xu thế nầy, vấn đề hoằng dương Phật Pháp trong đời Lý đượctriều
đình ra sức nâng đỡ, coi trọng và được củng cố bằng những sắcchỉ quan
trọng. Văn hóa Phật Giáo đi vào đại chúng bắt đầu triều đại nầy.Sự lớn
mạnh của Phật Giáo đời Lý đã đem lại nhiều ưu thế về lịch sử
bànhtrướng, hành đạo, truyền đạo, cả đến các lãnh vực thuộc văn hóa,
nghệthuật mang tính chất bác học lẫn tính chất đại chúng. Năm 1031,
nhà vuađã ban nhiều sắc chiếu cho chính quyền địa phương cũng như tín
đồ xâydựng đến 950 chùa khắp nhiều địa phương trong một thời gian ngắn;
nhiềucao tăng từ Trung Hoa cũng sang truyền bá Phật Giáo trong thời
gian nầy.Giới quý tộc trong thời gian đó cũng đã tham gia những công
trình xâydựng. Những công trình xây tháp và đúc chuông được tiến
hành ở nhiều nơitrong nước. Từ kinh đô đến nông thôn, đâu đâu cũng dấy
lên một phongtrào học đạo, hành đạo và truyền đạo sôi nổi.
Vua Lý Thái Tổ thuở hàn vi sống và tu hành ở trong chùa cho nên đã
thêm nhiều giáo lý nhàPhật khá sâu sắc. Về sau lại được nhà sư Vạn
Hạnh ra sức vận độngtriều thần cho ông chiếm lấy ngai vàng, cho nên
sau khi nắm quyềnđã ra công xây dựng Phật Giáo, tu bổ nhiều chùa
chiền, đưa đạo Phậtlên vị thế cao nhất. Theo xu thế nầy, vấn đề hoằng
dương Phật Pháptrong đời nhà Lý được triều đình ra sức nâng đỡ, coi
trọng và đượccủng cố bằng những sắc chỉ quan trọng.
Văn hóa Phật Giáo đi vào đạichúng bắt đầu triều đại nầy. Nền tảng
vững mạnh của Phật Giáo đời Lý đãđem lại nhiều ưu thế về lịch sử bành
trướng, hành đạo, truyền đạo,cả đến các lãnh vực thuộc văn hóa, nghệ
thuật mang tính chất bác họclẫn tính chất đại chúng.Năm 1010, sau khi
dời đô về kinh thành Thăng Long đã cho xây dựngmôt loạt chùa chiền tại
đây ở nội ngoại thành; những ngôi chùanổi tiếng như chùa Hưng Phúc ở
trong thành, chùa Thắng Nghiêm ởngoại thành.
Năm sau (1011) lại dựng thêm chùa Vạn Tuế ở trongthành, còn ngoại
thành thì dựng thêm các chùa Tứ Đại Thiên Vương,Cẩm Y, Long Hưng,
Thánh Thọ. Năm 1012 sai dựng lên hai chùa Thiên Quang và Thiên Đức.Năm
1024, cho quân lính và thợ khéo tay xây thêm chùa Chân Giáongay trong
kinh thành để nhà vua hoàng tộc và các quan đại thầnthường xuyên đến
lễ bái và nghe kinh.
Năm 1031, nhà vua đã ban nhiều sắc chiếu chochính quyền địa phương
cũng như tín đồ xây dựng đến 150 chùa khắpnhiều địa phương trong một
thời gian ngắn; nhiều cao tăng từ TrungHoa cũng sang truyền bá Phật
Giáo trong thời gian nầy. Giới quý tộctrong thời gian đó cũng đã tham
gia những công trình xây dựng.Năm 1041, cho xây viện Từ Thị Thiên Phúc
ở tại vùng núi Tiên Du.Năm 1049, dựng chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột)
ở kinh thànhThăng Long. Năm 1056 chùa Sùng Khánh Báo Thiên (tức chùa
BáoThiên) được kiến tạo ở khu vực Nhà Thờ Lớn Hà Nội hiện nay.
Năm1057, dựng lên hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ, đồng thời cũng
xâytháp Đại Thắng Tư Thiên ở chùa Sùng Khánh Báo Thiên (tức tháp
BáoThiên). Năm 1058 xây tháp Tường Long ở Đồ Sơn. Năm 1059 xây
chùaSùng Nghiêm Báo Đức. Năm 1066, xây tháp ở núi Tiên Du. Năm 1070xây
chùa Nhị Thiên Vương ở Thăng Long.Ngay sau khi vua Lý Nhân Tông lên
ngôi, đã cho xây dựng thêmnhiều chùa tháp ở kinh thành cũng như các
địa phương.
Bà HoàngThái Hậu Linh Nhân đã góp công không nhỏ, trước sau cho xây
dựnghơn 100 ngôi chùa, và trùng tu 38 ngôi chùa mới, dựng 19 tháp.Lại
phát tiền cho dân nghèo trong nước và cho chuộc những ngườicon gái nhà
nghèo đem bán làm nô tỳ hay đem gả cho những ngườiđàn ông ở goá. Năm
1086, ngôi chùa ở tại vùng núi Lãm Sơn bắt đầuđược xây dựng, mãi cho
đến năm 1094 mới hoàn tất và khánh thànhvô cùng trọng thể, được gọi là
chùa Cảnh Long Đồng Khánh. Ngôitháp nổi tiếng của ngôi chùa nầy cũng
được xây năm 1088.
Năm1099, nhà vua và hoàng tộc đã xây chùa An Lão; năm 1100, xây
chùaVĩnh Phúc trên núi Tiên Du. Năm 1105, đã mở mang thêm chùa DiênHựu,
xây hai ngọn tháp ở khu vực chùa nầy. Cũng trong năm nầy,vào mùa thu,
lại cho người xây dựng thêm ba ngọn tháp ở chùa LãmSơn (tức chùa Dạm,
thuộc Hà Bắc). Năm 1108, tháp Vạn Phong ThànhThiện được tạo dựng trên
núi Chương Sơn (nay là núi Ngô Xá, xãYên Lợi, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Hà)
và mãi cho đến năm 1117 mớihoàn thành.
Năm 1114, xây chùa Thắng Nghiêm (hoàn tất vào năm 1118) và lầuThiên
Phật, để đặt 1,000 pho tượng chư Phật lớn nhỏ. Năm 1115,chùa Sùng Phúc
tại làng Siêu Loại (huyện Thuận Thành, Hà Bắc)được khánh thành trọng
thể. Năm 1118, tháp Sùng Thiên Diên Linh ởĐội Sơn (tức núi Dọi, huyện
Duy Tiên, tỉnh Nam Hà) khởi công xâydựng và hoàn tất vào năm 1121.
Năm 1119, xây dựng xong chùa TịnhLự. Năm 1121, khánh thành chùa Báo
Thiên và bắt đầu xây chùaQuảng Giáo ỏ núi Tiên Du, mãi đến năm 1123
mới hoàn thành. Năm1123, khánh thành chùa Phụng Từ và năm 1127 khánh
thành chùaTrùng Hưng Diên Thọ. Năm 1134, dưới thời vua Lý Thần Tông,
haingôi chùa đồ sộ khác là Thiên Ninh và Thiên Thọ cũng được xâydựng.
Dưới các triều vua Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, không thấy ghichép những
ngôi chùa mới được tạo dựng. Chỉ cho việc trùng tuchùa Pháp Vân (tức
chùa Dâu, Hà Bắc).
Năm 1127 cũng trùng tu chùqChân Giáo, để mở rộng thêm phần chánh điện
và nhà Tổ. Đây là ngôichùa mà vị vua cuối cùng của nhà Lý là Lý Huệ
Tông đã đến tu hànhtrong những năm sau cùng của triều đại nầy.Trong
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Vua Lý Thái Tổlên
ngôi mới được hai năm, nhà tông miếu chưa dựng lên, xã tắcchưa lập, mà
trước đã cho xây dựng lên 8 ngôi chùa ở phủ ThiênĐức; lại sửa chữa các
chùa quán ở các lộ. Nhà vua cấp độ điệpcho hơn 1,000 người ở kinh sư
làm tăng... Bậc vua chúa sángnghiệp cần kiệm còn lo con cháu sau nầy
xa xỉ, mà vua Lý Thái Tổđể phép cho con như thế, cho nên, đời sau mới
xây tường cao ngấttrời, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa Phật lộng lẫy
hơn cả cungđiện nhà vua".
Theo quan niệm của nhiều vua đời Lý thì chùa vẫn là "chỗ ởlâu dài" sau
một thời gian làm vua tại triều. Thành thử, những ditích loại kiến
trúc vào thời Lý ngày nay còn thấy được làkiến trúc tôn giáo và qua
những cuộc chiến loại công trình nầykhông là mục tiêu phá hoại của
giặc ngoại xâm hay phong kiếntrong nước.
Đạo Phật dưới đời nhà Lý phát triển rất mạnh chiếmnhiều ưu thế.
Nhiều vị sư tham gia triều chính và được phong làm quốc sư. Nhà vuavà
hoàng thân quốc thích cũng như các quan đại thần đều hâm mộ đạoPhật.
Đời Trần
Kế thừa vốn liếng to lớn của nhà Lý trước đây, chẳng những cáccông
trình kiến trúc đời Trần đã có sẵn đà phát triển để vươncao lên,
lại còn tiếp thu được một nền kỹ thuật tinh xảo, một khotàng kinh
nghiệm phong phú và truyền thống dân tộc vẽ vang. Trongbuổi đầu, kiến
trúc đời Trần có những đường nét gần gủi với kiếntrúc đời Lý. Nhưng
về sau, do ba lần xâm lược phá hoại của NguyênMông, nhiều năm ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế, đồng thời cũng táchại lớn với nền kiến trúc
nước ta trong giai đoạn đó.
Về tình hình Phật Giáo đời Trần, nhất là trong giai đoạn đầu, cơbản
vẫn phát triển mạnh như dưới đời Lý, mặc dù trong phương thứctrị nước,
các vua Trần đã chịu ảnh hưởng của đạo Nho. Thành thử,các nhà sư đã
lánh dần cung đình trở về với chùa tháp, nhườngviệc cai quản chính
quyền cho các nho sĩ.Trong tín ngưỡng quần chúng của dân chúng đời
Trần, đạo Phật vẫnchiếm địa vị khá quan trọng.
Hàng ngũ tăng ni vẫn đông đúc. Khôngnhững vương hầu, khanh tướng, mà
nhiều nhà vua vẫn tình nguyệnquy y. Triều đình vẫn cấp đất ruộng
cho các chùa. Kinh Phậttiếp tục in với số lượng càng ngày càng
nhiều. Người ta còn đisang Trung Quốc (1295) để thỉnh kinh Đại Tạng
về in lại, truyềnbá trong Phật giáo đồ khắp nơi, Nhiều tác phẩm về
Phật học có giátrị được ra đời như "Thiền Tông Chỉ Nam", "Khóa Hư Lục"...
Phật Giáo thời nầy có nhiều hệ phái, nhưng đáng chú ý hơn cả
là"Trúc Lâm Tam Tổ". Phái nầy do vua Trần Nhân Tông mở đầu, và sauđó
có 2 vị tổ khác là thiền sư Pháp Loa và thiền sư Huyền Quangkế tục.
Địa bàn hoạt động của phái nầy là vùng đông bắc rộng lớncủa Bắc Phần,
từ Uông Bí, Đông Triều cho đến Thăng Long. Phái nầyđã đào tạo một số
đông tăng ni lên đến hàng vạn người. Họ còn tổchức nhiều hội lớn có
tiếng như hội "Thiên Phật" 7 ngày, 7 đêmtại chùa Quỳnh Lâm...
Tuy về sau có bị các nhà nho công kích bài bác, Phật Giáo đờiTrần
vẫn lớn mạnh. Chùa tháp vẫn là nơi thu hút cuộc sống tinhthần của
quảng đại quần chúng.Trên văn bia chùa Thiệu Phúc, một danh nho đời
Trần là Lê Quát dù đã nhiều lần lên tiếng bài xích đạoPhật, nhưng
sau cùng cũng đã thừa nhận: "NhàPhật lấy họa phúc đẻ cảm động lòng
người hay sao mà được ngườiđời tin theo sâu bền đến như thế. Trên
từ vương công, dưới đếndân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật,
dù đến hết tiền thìkhông sẻn tiếc. Ví ngày nay gửi gắm vào tháp chùa
thì trong lòngvui sướng như nắm được khoán ước để được báo ứng về sau.
Cho nên,trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng
ngõhẻm, không phải ra lệnh mà tuân theo, không phải bắt thề mà
giữđứng, chỗ nào có người tất có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng
lên,mất đi rồi lại sửa lại, lâu đài chuông trống chiếm đến nửa
phầnso với dân cư. Đạo Phật thịnh rất dễ mà được rất mực
tônsùng...".Những tài liệu cũ còn ghi lại nhiều cuộc trùng tu, sửa
chữa chùatháp được tiến hành, như các chùa Một Cột (1249), tháp Báo
Thiên(1258), chùa Khai Nghiêm, Yên Phong (Hà Bắc, 1333 - 1335)...
Đặcbiệt có những công trình như tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy (Hà
NamNinh) phải xây lại hoàn toàn trên nền nhà cũ và công việc nầy
kéodài trong 7 năm trời mới xong (1337 - 1342).Nhưng đáng chú ý hơn
vẫn là những công trình mới xây dựng thêm.Căn cứ theo những tài
liệu mà chúng ta biết được thì các chùatháp đời Trần đã được phân
bố rộng rãi khắp mọi miền của đấtnước, có phần rộng lớn hơn cả đời
Lý.
Có những công trình ở tậncực Nam như chùa Hương Tích ở núi Hồng Lĩnh
(Can Lộc, Nghệ Tĩnh),chùa Hoa Long và chùa Thông (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa).
Có những côngtrình ở tận cực Tây như chùa Hang ở núi Úc (Hoàng Liên
Sơn), thápBình Sơn (Lập Thạch, Vĩnh Phú). Và nhiều hơn cả vẫn là những
côngtrình được dựng lên ven các triền sông của vùng đồng bằng trù
phúmiền Bắc. Đó là chùa Bối Khê (Thanh Oai, Hà Sơn Bình) chùa Hào
Xá(Thanh Hà, Hải Hưng), chùa Thái Lạc (Văn Lâm, Hải Hưng), chùa
PhổMinh (ngoại thành Nam Định), chùa Dương Liễu (Đan Phượng, Hà
SơnBình), các chùa ở núi Yên Tử (Đông Hưng, Quảng Ninh)...Có những
khu vực vào đời Lý vớn được coi là trung tâm pháttriển Phật Giáo,
sang đời Trần vẫn được tiếp tục duy trì và mởmang thêm như khu chùa
và tháp vùng núi Phật Tích (Hà Bắc)...
Ởđây chẳng những vẫn được chọn làm nơi thi Tam giáo, đào tạo chưtăng,
lại còn là nơi in kinh Phật. Hay như khu vực chùa Quỳnh Lâmở Đông
Triều cũng đã được tu bổ và sửa sang thêm nhiều hơn trước.Ngôi chùa
nầy đã được nhiều danh tăng đến thăm viếng và trụ trì.Thiền sư Pháp
Loa, vị tổ thứ hai của "Trúc Lâm Tam Tổ" đã cùngđệ tử của mình bỏ
nhiều công sức trong việc trùng tu lại nhiềuchùa chiền khắp miền
Bắc. Họ cũng đã cho đúc thêm nhiều tượngđồng, chuông đồng, xây bảo
tháp, tổ chức những đàn tràng. Nhà thơTrần Quang Triều, cháu nội
Trần Hưng Đạo đã cùng chị ruột củamình là Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng
thái hậu trước sau đã cúng vàochùa ngót hai ngàn mẫu ruộng và gần
100,000 quan tiền để giúp vàoviệc tu tạo chùa chiền. Hoa Lưu cư sĩ,
Nguyễn Trưởng... đã đónggóp cho chùa nhiều đất ruộng, nhiều tiền.
Vua Trần Anh Tông cólúc cúng cho chùa hàng trăm lạng vàng để xây tháp
Bảo Thắng và đúcnhiều tượng Phật.
Đời Lê Sơ
Đời Lê, từ thế kỷ XV trở đi, trong khi Khổng Giáo được trọngvọng dùng
làm hệ tư tưởng chính, thì ngược lại, Phật Giáo bị chínhquyền hạn chế
sức phát triển. Những chùa chiền trên toàn quốc đãkhông có điều kiện
để tạo lập thêm, ít nhất là trong giai đoạnđầu. Những hạn chế phát
triển từ trong triều đình đưa ra cũng đã gây nhữngảnh hưởng không
ít.Những công trình kiến trúc và điêu khắc Phật Giáo đã bị khựnglại,
cho nên, mỹ thuật trong thời nầy chủ yếu biểu hiện ở cáclăng vua ở đất
Lam Sơn (Tây Kinh ở Thanh Hoá) và vài tấm bia haybệ gỗ rải rác trên
miền bắc Việt Nam.Trên bia Lê Thánh Tôn, những hình tượng lại càng
thanh nhã hơn, nhỏhơn và cân đối hơn. Óc sáng tạo đã gây được nhiều
hình thể, nội dungmới lạ hoàn toàn.
Tại điện Lam Kinh, thì cách trang trí hoa lá lạiđược lồng vào bằng
những hình sóng nước, có khi là ngọn lửa, cókhi là đám mây. Những hình
cong, tròn, bán nguyệt, đa dạng được sửdụng đến tối đa. Hoa sen vẫn
dùng trong các chùa chiền trong khi hoacú và hướng dương lại dùng
trong cung điện.
Nói tóm lại, trang trí đờiHậu Lê đã khai thác triệt để những kỹ thuật
Lý, Trần, cộng thêm nhiềusáng tạo mới. Trang trí cũng đã được phổ cập
trong trang hoàng nhà cửangười thường dân. Nghệ thuật trang trí cũng
như điêu khắc, kiến trúc đềumàu sắc giữa hai giai đoạn khác nhau: thời
Lê sơ và thời Lê mạt.Trong những năm quân Minh sang xâm chiếm nướcta,
những công trình văn hoá của cha ông chúng ta trong nhữngthời kỳ trước
đều bị chúng đốt phá, phần khác thì mang về Tàutrong mục đích đồng
hoá người dân Việt.
Những truyền thốngrực rỡ trong thời đại Lý, Trần đã không còn nữa.
Cũng trong thờigian nầy đã không đủ thời gian để phát triển về lãnh
vực trangtrí và đồ họa. Trong những công trình buổi đầu, như bia Vĩnh
Lăngở Lam Sơn, những nghệ nhân trong thời Lê sơ chỉ có thể chép
lạinhững hoa văn theo kiểu "lá đề có hình rồng" như thời nhà Lýtrước
đó.
Những tượng rồng đẹp ở Lam Kinh (Thanh Hoá) và đền KínhThiên (Hà Nội)
được sáng tạo trong thời kỳ nầy là hình tròn, chứkhông phải là những
hình hoa văn trang trí. Tuy nhiên, qua đếnthời Lê Trung hưng về sau,
khi Phật Giáo trở lại thời thịnh hành,thì nhiều chùa đã được trùng tu
hay xây dựng mới. Kiến trúcthường đòi hỏi nghệ thuật trang trí phải
phát triển để có thểđóng góp vào trong việc trang hoàng những công
trình kiến thiết.Hơn thế nữa, trong mấy trăm năm giữ vững nền độc lập
quốc gia,thì những nghệ nhân Việt Nam đã có thì giờ sáng tạo để có thể
đápứng vào những yêu cầu nầy.
Hoa văn đặc sắc nhất trong thời Lê mạtlà những "hoa văn hình ngọn lửa"
thường được thực hiện trên nhữngcông trình chạm nổi hay bất cứ hình
thức nào, trong giai đoạnnầy. đây là điểm chính yếu nổi bật của giai
đoạn nầy.Những hình thức hoa văn trong thời kỳ Lê mạt khá phong phú,
đadạng, tuy nhiên đã không độc đáo như trong giai đoạn nói trên.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có viết: "Năm 1734,Trịnh Giang
đã cấm những thường dân trong nước không được trwngtrí hoa mỹ trong
nhà cửa, đồ dùng; người thợ cũng không được đuanhau chế tạo "những đồ
mới lạ" trong quần chúng".
Thành thử, ngoài những công trình xây dựng các cung điện của vuachúa,
thì người thợ không có quyền sáng tạo thứ gì hết; họ khôngthể mạo hiểm
để tìm kiếm những điều gì khác hơn; một số đã vì sựgò bó vô lý nầy cho
nên đã giải nghệ để kiếm nghề khác sinh nhai.
Điều nầy thấy rõ nhất trong những bia tiến sĩ ở Văn Miếu Hà Nộiđược
dựng lên trong thời kỳ nầy. Nếu muốn hiểu được quá trình tiến triển
của nghệ thuật trang tríViệt Nam trong các thời kỳ đó, tốt hơn hết là
đem so sánh nhữngbi ký của từng triều đại.
Đời Mạc
Nhà Mạc (1527 - 1667) tuy chỉ trị vì hơn 100 năm lại gặp nhiềucuộc
chiến triền miên, tuy nhiên Phật Giáo cũng đã qua một ngã rẽmới. Trong
chiến tranh, giềng mối của Nho Giáo, chỗ dựa của chokỹ cương xã hội
phong kiến triều Hậu Lê đã trở nên suy thoái,lỏng lẻo dần, lay chuyển
đến tận gốc rễ, cho nên dân chúng lầmthan đã tìm sự an ủi trong Phật
Giáo.
Thành thử Phật Giáo trngdân gian nhân cơ hội cũng đã phát triển thêm.
Thậm chí, nhà cầmquyền tuy không nghĩ rằng có thể tìm được ở Phật Giáo
phương sáchđiều khiển dân chúng, nhưng vẫn phải tìm một chỗ dựa tinh
thầncần thiết; họ coi sự ủng hộ Phật Giáo, xây dựng chùa tháp trongbát
cứ khuôn khổ nào đó là tạo ra công đức, để có thể củng cố thếlực cai
trị của mình. Thành thử, trong xu thế nầy, Phật Giáo bắtđầu phát triển
trở lại.
Trong hoàn cảnh nầy, dĩ nhiên không thểtrở lại thời vàng son Lý,
Trần.Trong kiến trúc Mạc, đầu tiên phải nói đến kiến trúc đình làng,
sauđó mới đến chùa chiền. những đình làng nổi tiếng kiến lập trongthời
kỳ nầy thì phải nói đến đình làng Lỗ Hạnh, đình Tây Đằng,đình Sùng
Phúc, đình Tức Mạc, đình Bối Khê. Mặt khác, những ngôi chùa được xây
dựng haytrùng tu trong thời kỳ nầy đa số đều do sự đóng góp của thiện
nam,tín nữ do những cao tăng đề xướng ra. Nhìn chung, những mô
thứckiến trúc, điêu khắc, đồ họa, trang trí đời nhà Mạc mang phongcách
Lý Trần, nhưng ý thức mỹ thuật dân gian thì dần dà chen lầnvào, tùy sự
tiếp thu của từng địa phương khác nhau. Thành thử, nhữngkiểu chùa
thường đa dạng.Những ngôi chùa được tu bổ lại hay làm mới trong thời
kỳ nầy thìphải kể đến: chùa Cói, chùa Thượng Trưng, chùa Hạ (tỉnh
VĩnhPhú), chùa Ninh Hiệp, chùa Đa Tốn (Hà Nội), chùa Mễ Sở (HảiPhòng),
chùa Trà Phương (Hải Phòng), chùa Phổ Minh (tỉnh NamHà)...
Gần đây, nhiều cuộc khai quật di tích những ngôi chùa hay đềntháp đã
mất dấu vết đã tìm thấy được những đường nét kỳ thú:chẳng hạn như khi
khai quật di tích quanh chùa Lạng (tức chùaHương Lãng hay chùa Viên
Giác ở huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng),những chuyên gia trong ngành khảo
cổ nhận thấy: có một lớp kiếntrúc đời nhà Mạc nằm ngay trên các lớp
kiến trúc đời Lý và đờiTrần.
Phân tách lớp kiến trúc nầy, có thấy được nhiều viên gạchxây có chạm
khắc hình rồng, hình phượng, hình ngựa bay; một sốviên gạch khác thì
khắc hình hoa lá, hình sóng nước... Theo nhữngnhà phân tách di vật cho
biết: Khi thực hiện lớp kiến trúc Mạc đãxác nhận những điều ghi trong
văn bia ở đây là chùa Lạng đã đượcxây dựng khoảng năm 1581 - 1582 trên
địa điểm cũ của ngôi chùa cótừ đời nhà Lý.Hầu hết những kiến trúc chùa
thời Mạc còn lại đều mang nhữngđường nét và phong cách, họa tiết gần
gủi với đời Trần, thậm chícòn mang dáng dấp của đời Lý nữa.
Thượng điện của chùa Cói (tứcThần Tiên Tự, toạ lạc tại xã Hội Hợp,
huyện Tam Dương, tỉnh VĩnhPhú) tuy là công trình kiến lập của thế kỷ
thứ XVI, nhưng lại rấtgiống các thượng điện chùa chiền của đời nhà
Trần; đặc biệt làcấu trúc hai vì kèo có trụ giá chiêng cùng với bốn
cột cái. Bốnthanh xà lớn nối từ bốn cột các vươn ra các góc chéo liên
kết 12cột con và 20 cột hiên. Mặt khác, các ván nong ghép với cột
con làm thành vách điện,Khoảng thềm dư phiá bên ngoài có những cột
hiên, làm thành hànhlang chung quanh. Cốn ghép ô trống giữa các trụ
giá chiêng và cácván ghép tuyến ngang đầu cột đều có những kiểu chạm
khắc dày đặcnhững loại hình rồng, hình phượng và hình tiên nữ, chim
thần.
Theo cách cấu trúc nầy thì bẩy đỡ kẻ góc, đầu dư cũng có nhữnghình
chạm khắc rồng phượng. Vết tích nầy đến nay đã không còn bảolưu được
nữa, trải qua bao nhiêu biến động trong vùng nầy (TheoHà Văn
Tấn).Những nhà nghiên cứu mỹ thuật chỉ có thể tìm thấy được những
vếttích được ghi chép trên những văn bia thời nhà Mạc, để có thểphác
họa được phần nào kiến trúc của chùa.
Chẳng hạn, trong vănbia của chùa Phúc Lâm Hoằng Thệ (trong địa phận
huyện Ba Vì, tỉnhHà Tây) được dựng lên vào năm Hưng Trị thứ hai (1589)
có một đoạnghi lại:" Cũng may, gặp lúc Hoàng Triều chấn hưng đạo Phật,
cóngười giữ chức sắc huyện Cẩm Giàng (...) trùng tu lại một phầnlầu
của thượng điện của chùa (Phúc Lâm). Con trai của vị xãtrưởng xã Thanh
Long được phân phối cho việc xây dựng lên thêm 4gian nhà thiêu hương ở
chính giữa. Các sãi lão của các khu đãhưng công dựng lên một nửa nhà
tiền đường; về sau thêm phần hànhlang phía đông nam. Khu vực Chung
Chàng thì kiến tạo một nửa tiềnđường, liền với hành lang Tây bắc. Dân
của xã Vĩnh Phệ thì đượcphân phối tạo lập nhà hậu đường". (Khảo cổ học-
1974)
Như thế, từ đời nhà Mạc đã thấy xuất hiện kiểu bố cục chùa chiềntheo
mô hình "nội công, ngoại quốc". Những thành phần chính củachùa bao gồm:
tiền đường, chánh điện, thiêu hương, hậu đường, nhàTổ. Hành lang thì
chạy dọc theo hai bên chùa. Về sau, theo chiềuhướng đó, mô hình nầy đã
được biến đổi thêm.
Ngoài ra, cũng trong giai đoạn nầy, còn xây dựng thêm nhiều kiểu tháp
khác. Tiêu biểucho kiểu tháp nầy là tháp mộ bà chúa Mạc, phía hậu viện
của chùaPhổ Minh (Nam Hà). Thân tháp cao ngất, đế tháp rộng, mặt
chínhtháp quay về hướng Nam. Tháp thường được xem như là ngôi mộ, mà
trong đó việc thờ phụngthường chỉ hướng về một vị cao tăng, thiền sư
đã viên tịch. Thápđồng thời cũng được xem là một điện thờ một vị Phật
hay vị BồTát.
Những tháp được xây dựng lên qua những thời đại đã mangnhững dạng thức
khác hẳn nhau.Dạng tháp thứ nhất thể loại tháp Long Đội trùng tu lại,
có 13 tầng, là môt tháp thờ Phật;trong lòng tháp chính đặt tượng của
ngài Như Lai Đa Bảo, mà trongnhững kinh điển liên hệ chép rằng: "Tên
của vị nầy là hình ảnh củathiện nam, tín nữ đã khởi thiện niệm trong
việc tu trì và ứng xử.Ngôi tháp nầy có nền hình vuông, trên cơ sở đó
liên tưởng đếnnhững tháp ở Trung Hoa".
Dạng tháp thứ hai tiêu biểu là ngôi tháp "Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp"
tại chùa BáoThiên, Hà Nội. Tháp nầy gồm 12 tầng (kể từ khi mới xây
cất).Tháp nầy xây trước tháp Long Đội khoảng 70 năm. Với tên tháp,
nội dung mang ý nghĩa "báo đáp ơn đức của Trời" chonên mang tính chất
thần linh của Đạo Giáo hơn là Phật Giáo.Dạng tháp thứ ba tiêu biểu là
tháp Chương Sơn, tháp Tường Long và tháp Phật Tích.
Những tháp nầy đến nay chỉ còn dấu vết là những nền móng, có cạnhhình
vuông. Những tháp nầy xây lên để thờ phượng những vị khaisáng dòng
Thiền hay khai sáng ngôi chùa. Căn cứ theo những vết tích còn lại thì
tháp Chương Sơn được xâytrên đỉnh cao của một quả đồi thoai thoải của
huyện Ý Yên. Thápcao khoảng 100 mét, lại nằm trên ngọn đồi cao khoảng
75 mét sovới mặt ruộng trong vùng. Đa số tháp có chiều cao lên không
trung, gây nên một ấn tượng vềsự vươn toả, độc lập, "tránh khỏi tính
chất áp chế" như nhiều nhànghiên cứu so sánh.
Về phương diện cấu trúc, những ngôi tháp đá to lớn, được dựng lêntrên
những đỉnh núi bằng đất dễ lở sụt với thời gian và lủ lụt,cho nên phải
được gia cố nền móng của tháp thật vững chắc, lantoả ra, mới tránh
được sự suy thoái. Tuy nhiên tháp Chương Sơn chỉ đứng vững 235 năm
cho đến khi bịngoại xâm tàn phá. Tháp đã không còn lưu lại một dấu ấn
sâu sắcdưới mất các thiền gia. Tháp nầy chỉ ở cách một trung tâm
mỹthuật đời nhà Trần tức là Trung Tâm Thiên Trường, tỉnh Nam Định.
Kiến trúc các chi tiết chùa chiền cũng đa dạng. Nhiều kiểu bệ thờđược
sáng tạo. Chẳng hạn bệ thờ chùa Hưng Khánh (Hải Phòng), bệthờ chùa Mễ
Sở (Hải Hưng). Chùa Trà Phương (Côn Sơn) thì lại dùngbệ thờ bằng gỗ,
nhưng chắc chắn, chạm khắc tỉ mỉ.
PG Đàng Trong
Từ năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng vào cát cứ ở xứ Thuận Hoá - QuảngNam,
chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng thêm đất đai,giúp cho
vùng nầy trở nên trù phú. Các chúa Nguyẽn kế tiếp, vừatiếp nối công
trình trên, đồng thời phải lo chống lại chúa trịnh.
Mgoài việc bảo vệ và mở mang vùng Đàng Trong, các chúa Nguyễn hầuhết
là những Phật tử mộ đạo, hộ trì cho Phật Giáo phát triển ởĐàng
Trong: chăm lo xây dựng, trùng tu chùa chiền, trọng đãi chưtăng, nhờ
đó phái thiền Trúc Lâm được phục hưng với các cao tăngViên Cảnh -
Lục Hồ, Viên Khoan - Đại Thâm, Minh Châu - HươngHải...
Ngoài ra vác chúa Nguyễn còn cho người sang Trung Hoathỉnh các
danh tăng, kinh điển, pháp tượng, pháp khí... Trong khiđó, vào giữa
thế kỷ XVII, nhà Thanh đánh bại nhà Minh ở TrungQuốc, một số quân
dân nhà Minh, trong đó có cả những tăng sĩ,không chịu thần phục nhà
Thanh nên đã bỏ xứ đến vùng Đàng Trong;các danh tăng của phái
thiền Lâm Tế như: Nguyên Thiều - SiêuBạch, Minh Hoằng - Tử Dung,
Minh Hải - Pháp Bảo... và phái thiềnTào Động như Hoà thượng Thạch
Liêm, thiền sư Hưng Liên - QuảHoằng... đã góp phần phục hưng Phật
Giáo ở Đàng Trong, giúp choPhật Giáo phát triển mạnh và tồn tại cho
đến ngày nay.
Nhiều ngôichùa được kiến tạo tại vùng nầy như chùa Thiêm Mụ, chùa Hà
Tung,chùa Tam Thai, chùa Vĩnh Hoà, chùa Di Đà (Hội An) chùa
TrườngThọ, chùa Thiền Lâm, chuà Quốc Ân, chùa hàm Long (Bảo Quốc(
chùaẤn Tông (Từ Đàm), chùa Thuyền Tôn, chùa Từ Hiếu...
Chi phái thiền Chúc Thánh phát triển trong vùan Nam - Ngãi
vớinhững ngôi chùa Chúc Thánh ở núi Thiên Ấn (Quảng Ngãi) chùa
TamThai và chùa Linh Ứng (trên núi Non Nước - Thủy Sơn), chùa Hội
Khánh (Thủ DầuMột), chùa Phước Lâm (Hội An), các thiền sư hoằng hoá ở
phủ QuiNhơn đã kiến lập chùa Thập Tháp Di Đà (xã Nhơn Thành, huyện
AnNhơn, tỉnh Bình Định), thiền sư Minh Giác - Kỳ Hương, đời 34
củathiền phái Trúc Lâm đã xây cất các ngôi chùa: Thiên Đức (xã
PhướcHưng, Bình Định) chùa Phổ Quang (xã Phước Thuận, Tuy
Phước),chùa Thắng Quang (xã Hoài Nhơn, Bình Định), chùa Thanh Sơn (quậnHoàn
Ân, Bình Định).
Hoà thượng Chơn Luân - Phước Huệ đời thứ 40của phái thiền Lâm Tế đã
có công xây cất hay trùng tu các ngôichùa Tịnh Lâm (Phú Cát, Bình
Định), chùa Từ Quang (Đá Trắng, SôngCầu), chùa Long Khánh (Bình Định)
chùa Thập Tháp - Di Đà (xã VạnXuân, Bình Định), chùa Phổ Quang (Tuy
Phước, Bình Định), chùaPhước Long (xã Bình Phú, Bình Định). Hoà
thượng cũng thành lậpcác trường "Gia Giáo" (trường Phật Học), để
kiến lập những ngôichùa Tiên Linh (Bến Tre) chùa Phi Lai (Châu Đốc)
chùa Kim Huê (SaĐéc) chùa Long An (Cần Thơ), chùa Giác Hoa (Bạc Liêu),
chùa LongHòa (Bà Rịa). Thiền sư Tịnh Giác - Thiện Trì xây chùa Linh
Phong(thôn Phương Phi, Bình Định). Thiền sư Hải Khiển - Đức Sơn đời
36của phái thiền Lâm tế xây chùa Long Khánh (thôn Vĩnh Khánh,
QuiNhơn).
Tại vùng Khánh Hoà, các thiền sư theo lớp người di dân(thế kỷ XVI)
đã xây cất những ngôi chùa khắp nơi trong vùng: chùaMinh Thiện, chùa
vạn Thiên, chùa núi Phụng Thủy (Hoà Én), chùaBảo Phong, chùa Bảo
Long, chùa Linh Sơn, chùa Thiền Lộc, chùaThiền Tôn, chùa Kim Sơn,
chùa Hội Phước. Những ngôi chùa nầy tuyquy mô không lớn, nhưng đã
nhiều lần trùng tu, mở rộng thêm, đãtrở nên hoành tráng.
Chúa Sải Nguyễn Phúc Nguyên đã nhiều lần đénviếng những cảnh chùa nầy,
ban đất công để cúng tế hàng năm. Hộichùa trong vùng khá độc đáo với
lễ lượt, diễn xướng nổi tiếng. Trong lịch sử di dân về đất Nam Phần
của những cộng đồng khácnhau, người Hoa cũng đã phát triển Phật Giáo
khá mạnh.
Nguồn pháttriển nầy khỏi đầu từ Trung Quốc sang. Bên cạnh đó, ảnh
hưởngKhổng Giáo và Lão Giáo cũng được củng cố, thậm chí có những
phatrộn giữa những tư tưởng nầy trong dân gian.Tinh thần tam giáo đồng
nguyên cũng là một trong những khả năngtinh thần để bảo vệ giá trị
tinh thần và tín ngưỡng.
Với những pha trộn nầy, ngay tại chùa chiền người Hoa, việc thờphượng
"Tiền Phật, hậu Thần" hay "Tiền Thần, hậu Phật" phản ảnhrất rõ nét.
Trong chùa chiền, vẫn thờ Quan Công, Ngọc HoàngThượng đế, Nam Tào, Bắc
Đẩu, bà Thiên Hậu... Thậm chí có tác giảgiải thích: Chính sự pha phách
nầy đã giúp cho chùa chiền thườngđược khách thập phương vãn lai.
Trong quá trình hội nhập, người Hoa từ Trung Quốc đến định cưvùng đất
miền Nam vào những thời điểm khác nhau, do những biến cốdồn dập xẩy ra
cho họ. Cũng như những cuộc di dân khác, trong sốnhững hội nhập, bao
giờ cũng có giới tăng lữ. Họ lãnh đạo tinhthần lớp di dân.
Ngay từ thế kỷ thứ XVIII, khi những đoàn người Hoa chuyên nghềbuôn bán,
hay chống đối nhà Mãn Thanh, họ nhanh chóng tập trungtừng vùng. Những
ngôi chùa người Hoa có các vị tổ gốc người MinhHương; một số chuyển
dần sang cách thờ cúng và tu trì người Việt.Chẳng hạn như chùa Giác
Lâm ở đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình(Sàigòn). Một số chùa người
Hoa khác, do những bang Quảng Đông,Triều Châu, Phúc Kiến Hệ (Hạ Phương),
Hải Nam thì vẫn giữ xu thếphát triển riêng biệt. Hiện tượng thờ Mẫu
cũng thường thấy ở cácchùa, nhất là việc thờ bà Thiên Hậu.
Những nơi có đông đảo người Hoa tại miền Nam, như: Sàigòn (quận1, 5,
6, 11); tỉnh Tiền Giang, tỉnh Đồng Tháp, tỉnh Vĩnh Long,tỉnh Sóc Trăng,
tỉnh Minh Hải đều có chùa chiền. Có điểm tậptrung tu sĩ người Hoa đến
tạm cư như trường hợp chùa Ông Bổn tạiSàigòn.Về phương diện tín ngưỡng,
trước khi những chùa người Hoa chưa cóhệ thống tổ chức tu trì truyền
thống, thì hình thức tổ chức vẫntheo tín ngưỡng dân gian.
Tại thành phố Sàigòn - Chợ Lớn, nhiều ngôi chùa người Hoa đượckiếp lập
trong mấy thế kỷ nay như: Chùa Thiên Hậu (Quảng Đông)chùa Bà (Hải
Nam), chùa Tịnh Phúc (Phúc Kiến), chùa Ông hay TamĐỉnh (Phúc Châu,
Phúc Kiến), chùa Quang Vân ( Phúc Kiến Chợ Lớn), chùaThánh Mẫu Hộ
Phòng (Quảng Đông Sàigòn), miếu Thiên Hậu Chợ Quán(Quảng Đông Sàigòn)
chùa Bà Sàigòn (Quảng Đông Sàigòn), VũMiếu Thất Bang (tất cả người Hoa),
chùa Bảo Sơn (Phúc Kiến SàiGòn, Chợ Lớn), chùa Nhập Chính (Phúc Kiến
Sàigòn, Chợ Lớn), chùaHoà Chính (Triều Châu), chùa Đạt Thịnh (Phúc
Kiến Sàigòn, ChợLớn), chùa Quan Âm Tống Tử (Phúc Kiến Chợ Lớn), đền
Ngọc Hoàng ĐaKao (tất cả người Hoa), chùa Phượng Sơn (Hội thợ sắt),
chùa TrúcLâm (Việt gốc Hoa), chùa Báo Ân (Lão giáo gốc Hoa)... chùa
Nam PhổĐà (chùa Tổ). (theo Tsai Maw Kuey- Les Chinois au Sud Viet
Nam).
Căn cứ theo di chỉ chùa Hoa, những chùa miếu được xem là cổ xưanhất
của người Hoa trong vùng Sàigòn - Chợ Lớn phải kể đến: chùaGiác Lâm
(do Lý Thoại Long, người Minh Hương xây năm 1744 tại PhúThọ); chùa Gia
Thạnh (do người Minh Hương xây năm 1789 tại ChợLớn), chùa Giác Viên (năm
1820), Quan Võ Miếu thờ Quan Công (dongười Minh Hương dựng năm 1820
tại Sàigòn), chùa bà Thiên Hậu(do người Phúc Kiến xây năm 1830 tại Chợ
Lớn), Tam Hội Miếu thờbà Chúa Thai Sinh (lập năm 1839), Quỳnh Phủ Hội
Quán (do ngườiHải Nam xây năm 1875 tại Chợ Lớn... Ngoài ra, còn một
sốchùa miếu khác kiến tạo nhưng lại mang tên Hội quán các bang hayhội
đoàn như Nhị Phủ Hội Quán (1835), Bửu Sơn Hội Quán (1871),Nghĩa Nhuận
Hội Quán (1872), chùa Giác Hải (1887) Phước An HộiQuán (1900), Ôn Lăng
Hội Quán (1901).
Những ngôi chùa người Hoa kiến lập tại vùng Gia Định Sàigòn rấtnhiều
và đa dạng. Theo tài liệu của J. Ch. Balencie (trongMonographie de la
province de Gia Dinh- 1899) thì có đến 43 chùangười Hoa trong vùng
nầy.Một trong những ngôi chùa danh tiếng của người Hoa tại Sàigòn
làchùa Nam Phổ Đà, tọa lạc tại số 117 đường Hùng Vương, quận 6. Ngôi
chùa nầy kiến lập năm 1945, do Hoà thượng Thống Lương và HoàThượng
Thanh Thuyền đứng ra xây dựng. Đây là ngôi chùa Phật Giáocủa người Hoa
được tổ chức quy củ nhất, đặt nền tảng cho tổ chứcPhật Giáo người Hoa
ở thành phố. Giáo Hội Phật Giáo của người Hoađược Hoà thượng Siêu Trần
và Hoà thượng Thanh Thuyền vận độngthành lập vào năm 1968, và chính
thức ra đời vào ngày 20/5/1972.Giáo Hội nầy mang tên là "Phật Giáo Hoa
Tông". Hoà Thượng SiêuTrần là vị hội chủ đầu tiên (1972).Việc du nhập
Phật Giáo của người Hoa gắn liền với cộng đồng ngườiHoa đến định cư.
Với những đợt di dân lớn của Mạc Cửu (Hà Tiên),của Trần Thượng Xuyên
và Dương Ngạn Địch vào thế kỷ XVII ở nhữngtỉnh Mỹ Tho, Đồng Tháp, Cửu
Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu... nhữngngưởi Hoa đến định cư tại những vùng
đất nầy theo đường biển.Trong nhiều thế kỷ trước đây, cảng Đại Ngã (Sóc
Trăng) đã là mộtcảng lớn, đón nhiều đợt người Hoa đến; vùng nầy cũng
là nơi pháttriển Phật Giáo người Hoa rất mạnh.Từ khi người Hoa đến
định cư, phát triển ở vùng đất Nam Phần chođến nay, về tín ngưỡng,
những ngôi chùa thờ Phật thường bị đồnghoá với những miếu thờ thần
linh từ nguồn tín ngưỡng dân gian.Thành thử nhiều chùa được gọi là
miếu thờ bà Thiên Hậu, thờ ngàiQuan Thánh là chùa Ông, chùa Bà. Về
việc kiến lâp chùa chiền, do nhu cầu của nền tín ngưỡng dângian, nên
đa số chùa người Hoa thường được kiến tạo ở những vịtrí thích hợp của
vùng đông dân cư.Kiến trúc, điêu khắc của chùa người Hoa có một số nét
khác chùaViệt:- Màu sắc: chùa người Hoa thường dùng nhiều màu đỏ hay
màu hồngtrong mọi thể hình trang trí; đây là màu của sức sống vươn
lên,niềm tin, may mắn.- Cấu trúc: Bố cục quần thể chùa người Hoa
thường theo dạng chữ"Tam" hay "Nội công, ngoại quốc". Dạng thức nầy
thuận tiện choviệc bài trí nhiều bàn thờ, cúng vái, xin xăm, bói quẻ.-
Mái, cổng: Mái và cổng tam quan của chùa người Hoa thường códạng cao
vút lên, nét cong ở các đầu đao. Mái cổng dựng hai lớptrở lên, một
dạng "trùng thiềm điệp ốc" để nới rộng diện tích.- Trang trí: Những
mẫu hình trang trí chùa người Hoa khá phứctạp: Hình rồng, phượng,
lưỡng long triều nguyệt, tứ linh, tứ vậtlà mô hình phổ biến nhất. Hai
bên sân chùa đều có xây la thành, điểm thêm cặp lân, trong tưthế chầu
chực.Tháp chùa người Hoa chia làm hai loại: Một loại để đựng dicốt của
các sư sãi viên tịch, có nhiều công đức trong xây dựngchùa; loại thứ
2: thờ Phật. Thờ phượng: Cách thiết trí thờ phượng trong một ngôi
chùa người Hoa ở NamViệt Nam cũng có những điểm đặc biệt, khác với
chùa người Việt.Chẳng hạn như cách thiết trí trong chùa Ngọc Hoàng (Phước
Hải)tại phường Đa Kao (Sàigòn) như sau:Ngay khi vào chùa, sẽ thấy
trước tiên hai bàn thờ "Môn Quan Thần"và "Thổ Địa Thần" là nơi thờ
những vị thần trấn áp tà ma quấy pháchùa. Sau đó là bàn thờ Phật, có
bày những tượng Dược Sư LưuLy Quang Vương Phật, Phật A Di Đà, Phật
Thích Ca Mâu Ni, Đại ThếChí Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát. Nhìn vào,
khắp nơi khói hươnglên nghi ngút, nhìn bên phải, có tượng đồ sộ vị
Thanh Long ĐạiTướng, bên trái có tượng đồ sộ Phục Hổ Đại Tướng.Sau bàn
thờ Phật là chánh điện: cung giữa thờ Ngọc Hoàng; cungbên phải thờ
Chuẩn Đề Quan Âm; cung bên trái thờ Bắc Đế, tứcHuyền Võ. Ở giữa gian
thờ Ngọc Hoàng có sáu phi tượng chính: bênphải có ba vị, giữa là Quan
Phu Tử, hai bên có Thiên Tướng vàThiên Thần; bên trái có ba vị: giữa
là Văn Xương, hai bên cũng cóThiên Tướng và Thiên Thần. Trước bàn thờ
Ngọc Hoàng có tấm đáquý, trên mặt có khắc bốn chữ Hán "Hoa Khai Phú
Quý". Ở chínhgiữa trên bàn thờ có bức hoành phi ghi bốn chữ "Tiên Phật
GiángLâm". Gian thứ nhì có treo sáu bức chạm bằng gỗ, trình bày các
cảnh:Hoạt Vô Thường, Đông Nhạc Viện, Quan Âm Đường, Địa Tạng Vương,
TìMệnh Quân và Dẫn Hồn Tiên. Gian thứ ba là Thập Điện Diêm Vương; ởhai
bên tường có treo hình chạm nổi những hình phạt ở âm ty đểtrừng giới
những kẻ từng làm nhiều điều gian ác trên trần gian. Ởcuối gian phòng
có ba khám thờ: khám ở giữa thờ Thành Hoàng Đế;khám bên phải thờ Thái
Thế Thần và khám bên trái thờ Bảo ThọThần. Phía ngoài sân có bàn thờ
của hai vị Thần Thanh Long và thần BạchHổ.Sau đây là mô hình chùa
người Hoa tiêu biểu:Chùa Bà rất phổ biến khắp các vùng tụ cư người Hoa.
Chùa Bà ở ChợLớn nằm trên đường Nguyễn Trãi, quận V. Chùa bà có tên là
ThiênHậu Miếu hay là Phò Miếu. Chùa được kiến lập từ năm 1760,
nhưngsau đó đã được trùng tu nhiều lần và nới rộng diện tích thêm.Chùa
do Bang Quảng Đông điều hành.Theo người Hoa thì bà Thiên Hậu là một nữ
thần, người Quảng Đônggọi là "A Phò" (Đức Bà). Theo tước phong của
Trung Hoa thì gọi bàlà "Thiên Hậu Thánh Mẫu". Người Phúc Kiến và Hải
Nam thì thườnggọi là "Đại Mẫu". Người Hoa thường xem bà Thiên Hậu là
biểu tượngcủa lòng nhân ái, xả thân vì mọi người. Trên bước đường di
dânlập nghiệp, nguy nan luôn luôn đe doạ bởi sóng gió, bão tố, họ
sợhãi và luôn luôn cầu nguyện đến Bà Thiên Mẫu; bây giờ đến quêhương
thứ hai, họ lập đền thờ để nhớ ơn.Chùa Bà giữ một vai quan trọng,
không những đối với người QuảngĐông, mà ngay cả người Quảng Châu, Phúc
Kiến, Hẹ... và cả ngườiViệt nữa. Thành thử việc cúng bái ngày đêm
không ngớt của thậpphương ở Chùa Bà là đương nhiên.Chùa bà được xây
theo kiểu "hình cái ấn" là kiểu kiến trúc đặctrưng của người Hoa. Đây
là một tổ hợp gồm bốn căn nhà liên hếtvới nhau, tạo thành một mặt bằng
trông giống hình chữ "Khẩu" haychữ "Quốc". Hai cơ sở phụ là trường học
và hội quán. Phần dànhcho việc thờ phụng là rộng nhất, gồm có ba điện
thờ: tiền điện,trung điện và chính điện. Phần chính điện thờ tượng bà
Thiên Hậu đặt ngay tại chính điện, với trang thờ và điệnthờ lớn. Bên
trong trang thờ đặt ba pho tượng của Bà, theo thứ tựtừ lớn đến nhỏ và
đặt từ sau ra trước thẳng hàng nhau. Trên trangthờ có bức trướng ghi
hàng chữ "Thiên Hậu Thánh Mẫu". Phía trênđiện thờ lại có khắc hành chữ
"Thiên Hậu Cung". Trước điện thờ cóđặt lư hương và ba dãy bàn thờ dùng
làm nơi đặt lễ vật cúng bà.Gần đây, người Hoa chính quốc lại mang sang
tặng thêm tượng đức QuanThế Âm Bồ tát cũng được đặt tại bàn thờ nầy.
Bên phải chính điện là trang và điện thờ Bà Kim Huê (Mẹ Sinh, MẹĐậu),
bên trái đặt tượng Long Mẫu Nương Nương. Bà Kim Huê là vịNữ Thần được
phong vào thời Khương Tử Nha đời nhà Chu đã đánh vuaTrụ. Long Mẫu
Nương Nương là vị Nữ Thần, con vua Thủy Tề. Treotruyền thuyết ghi chép
lại thì nhân một hôm đi ngao du trên biển,có một ông lão đánh cá vô
tình bắt được, thấy hình "con cá kỳlạ" nên không nỡ giết, mà mang về
nuôi. Một buổi tối nọ, tình cờông lão thấy vị thần hiện ra nửa người,
nửa cá. ông liền đem rathả xuống biển. Trước khi cá ra khơi, lão đánh
cá nghe văng vẳngtiếng "cám ơn" và dặn: nếu khi ra biển đánh cá, gặp
những cơnhoạn nạn, kêu cứu đến tên Long Mẫu Nương Nương, thì sẽ được
cứuvớt. Từ đó những dân chài trên biển thường cầu khẩu và cúng tế,lập
nhiều miếu thờ.Phần trung điện không đặt trang thờ, mà đặt "lư pháp
lam"; đâylà đồ vật bằng sành, phía trên mặt có khắc những ô nhỏ, hình
hoa,lá, chung quanh có viền bằng kim khí (vàng, bạc hay đồng). Lápháp
lam nầy có ghi niên hiệu Quang Tự thứ 12, đặt trên bàn đácao. Dưới bộ
lư, hai bên đặt chiếc kiệu lớn, sơn son, thếp vàng,dành để rước tượng
bà trong những ngày đại lễ. tại trung điện cótreo tấm hoành phi, ghi
lại năm trùng tu xưa nhất, với hàng chữ"Hàm Hoằng Quang Đại". Phần
tiền điện có đặt hai trang thờ nhỏ hai bên cửa ra vào; bênphải thờ "Phúc
Đức Chánh Thần"; bên trái thờ "Môn Quan Vương Tả".Phía sau cửa chính
có hai tấm bia đá, ghi lại truyền thuyết về bàThiên Hậu. Trên cửa, gần
nóc là bức tranh lớn về ảnh "Bà HiểnLinh Trên Biển Cả".
Cảnh quan & Kiến trúc chùa
Cảnh quan chùaHầu hết các chùa tháp khắp các miền đất nước đều được
phân bố rảirác khắp các địa phương, cho nên có điều kiện cho những
ngườikiến tạo tìm tòi, lựa chọn địa hình thật vừa ý. Thành thử,
đếnngôi chùa nào, tháp nào, chúng ta dễ thấy được tạo dựng
trongnhững khung cảnh thật nên thơ, đẹp đẽ, oai nghiêm.Một trong những
đặc điểm dễ nhận thấy là các kiến trúc Phật Giáođời Lý, Trần và về
sau, hầu hết đều được xây dựng trên các triềnnúi, lấy núi đồi làm
điểm tựa. Chúng ta có thể kể hàng loạt kiểuchùa chiền như thế: Chùa
Phật Tích trên núi Lạn Kha, chùa Giạmtrên núi Giạm, chùa Quỳnh Lâm
trên núi Tiên Du, chùa và thápSùng Thiện Diên Linh trên núi Đọi
(Nam Hà), tháp Chương Sơn trênnúi Ngô Xá (Nam Hà), chùa Báo Ân trên
núi An Hoạch, chùa LinhXứng trên núi Ngưỡng Sơn, chùa Hướng
Nghiêm trên núi Càn Di(Thanh Hoá)... Thậm chí có những ngôi chùa
được xây dựng ngay giữa đồng bằng nhưchùa Hương Lãng (Hải Hưng), chùa
Bà Tấm (Gia Lâm), chùa Báo Thiên(Hà Nội)... thì vẫn được chọn những
địa thế có phần cao hơn mặtđất chung quanh.Có nên dựa vào những huyền
thoại về "Phật Tiên thường ở trên núi"hay không, nhưng ý nghĩa thực
tiễn trong việc chọn thế đất, thếchùa trong địa bàn đồi núi, cao
nguyên có đủ điều kiện thích hợpcho việc sùng bái, cầu khẩn ở những
chùa tháp. Chung quanh núi đồihun hút, những cây cổ thụ um tùm bao
quanh chùa gây nên cảnh tríoai linh, tịch mịch. Nằm trong vị thế nầy,
chùa tháp như lánh xađược cảnh náo nhiệt, phàm tục, gợi lên bầu
không khí tĩnh mặc,bình an cho tâm hồn.Trên một bình diện khác, ngọn
núi cao đã làm cho kiến trúc chùatháp vốn đã cao lớn, như được nhân
lên mấy độ cao, tác dụng lạigia tăng gấp bội. Du khách mỗi khi đứng
dưới cửa cổng của chùaPhật Tích hay chùa Giạm mà nhìn lên, thì
tưởng như các tầng nềnlùi dần vào núi của chúng cứ nối nhau mà vươn
lên cao mãi.Những núi có chùa đời Lý thường mọc lên giữa đồng bằng,
cho nênquanh cảnh nầy đã giúp cho công trình kiến trúc chùa chiền
đãchinh phục được quần chúng sinh sống chung quanh trong một
vùngrộng lớn. Đây là một điểm sáng giá nhất để dựng chùa mà những
nhàkiến trúc ngày trước rất quan tâm đến. Sang đến đời Trần,
vẫntrong nhận thức nầy, chúng ta lại gặp một số chùa chiền trên
núinhư các chùa Giải Oan, chùa Hoa Long ở núi Yên Tử (Quảng
Ninh),chùa Hương Tích ở núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh). Địa thế những
ngôichùa nầy ở vào bên trong sâu thẳm, nhưng không vì thế mà
vắngkhách vãn cảnh chùa hay cúng bái.Những nhà kiến trúc đời Lý đã
chọn những ngọn núi gần đồng bằngđể xây chùa, vừa đạt được vị trí oai
nghiêm, lại vừa tiện lợi chokhách hành hương. Có những ngọn núi không
cao, mặt lại bằng phẳngthì xây chùa trên đỉnh núi. Đó là trường hợp
chùa và tháp SùngThiện Diên Linh trên núi Đọi, chùa và tháp Chương
Sơn trên núiNgô Xá. Có những nơi có núi cao hơn, đường đi khó khăn
hơn, thìlại dựng chùa ở lưng chừng sườn núi.Nếu gặp những núi đá
chênh vênh, trắc trở, thì phải xây chùa ởdưới chân núi, lưng chùa chỉ
dựa vào núi mà thôi như chùa Tháp ởnúi Sài Sơn (Hà Tây).Ngoài yếu tố
"non cao", địa hình các loại chùa tháp lại còn gắnbó với "nước biếc",
ao hồ. Nhiều chùa tháp xây tại ven sông: hoặc sông lớn như sông
Hồng,sông Đuống, sông Hương, hoặc sông nhỏ như sông Lạng (Hải
Hưng),sông Châu (Nam Hà). Cả những ngôi chùa có vị trí ở xa sông,
thìcũng được đào kênh, dẫn nước đến. Điều nầy chẳng những
tươngquan đến thuật phong thủy, còn tạo cảnh đẹp cho chùa, đi lại
dễdàng, tổ chức lễ hội có ý nghĩa thêm. Sông có giá trị thực tế ởchỗ
ven bờ của nó là nơi dân chúng sinh sống đông đúc, chuyển vậndễ dàng,
là trục nối các vùng. Nếu điạ thế chùa vừa gần núi, vừagần sông là
điều kiện thích hợp nhất.Các nhà kiến trúc chùa chiền trong thời Lý
Trần rất có ý thứctrong việc chọn lựa địa thế chùa chiền cho thích
hợp. Chẳng hạnnhư việc xây chùa Sùng Thiện Diên Linh ở núi Đọi,
được Hình bộthượng thư Nguyễn Công Bật mô tả: "Mặt chùa trông ra
sông Kinh,gió lặng, mặt sóng như lụa biếc dải ra, lưng chùa quay
về núiĐiệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu khống
chếbình nguyên trông tới lũy xưa Càn Hưng. Bên tả men theo
sông,quanh hán thủy để ra khơi".Thiền sư Pháp Bảo khi đề cập đến vị
thế của ngôi chùa Sùng NghiêmDiên Thánh cũng có viết: "Phong cảnh vẫn
nguyên, hai cửa khuyếtkhống chế phía trước, ba dòng sông ủng hộ phía
sau. Thanh tĩnh,tĩnh mịch, thực là nơi trụ trì của nhà Phật, nơi gửi
gắm tâm tưcủa Bồ tát". Về vị thế của chùa Thiên Mụ (Huế), thiền sư
Thích Đại Sán nhấnmạnh: "Chùa xây trên đồi Hà Khê, trước mặt là dòng
Hương Giang,đường huyện lộ quanh co phía trước, lên xa hơn là Văn
Thánh, quảlà nơi tu tịnh hiếm có. Khách thập phương đến vãn cảnh, cúng
bái,lại vừa hoà với thiên nhiên, cái ý vị thoát tục, thanh tao
hiếmcó..."Thiên nhiên, cảnh vật, cây cối, sơn thủy hữu tình đã tôn
giá trịchùa già lam lên cao một bậc. Cho đến những thế kỷ sau, khi
trùngtu lại chùa, vẫn thấy rõ ý nghĩa nầy. Năm 1629, chùa Quỳnh
Lâmđược trùng tu, Nguyễn Thực Phác nhận thấy: "Mặt trước về
phươngchu tước (nam) là con đường cái xe ngựa đi thông; mé ngoài
phíahuyền vũ (bắc) là bến sông to, thuyền bè tụ tập; phía bạch
hổ(tây) là dòng sông Tô lượn quanh; Phía thanh long (đông)
chùaTiêu Sơn đối cảnh".Quần thể chùa Yên Tử là một công trình kiến
trúc hiếm có. Ngàynay trải qua nhiều thế kỷ, những công trình xưa ở
đây bị hủy hoạigần hết. Tuy nhiên, nếu lần theo những vết tích xưa
còn lưu lại,chúng ta cũng đã nhận ra được phần nào sự khang trang, bề
thế củacác công trình xưa. Nhiều chùa được dựng trên một địa thế
rộngrãi, đẹp đẽ như chùa Lân ở phía chân núi. Chùa được dựa lưng
vàonúi, cổng chùa hướng ra một dòng suới lớn. Cả một vườn chùa
rộngrãi với cả một con đường ghép, chạy dài từ cổng vào, hai bên
dựngđầy những tháp lớn, nhỏ, cũng đã nói lên được vẻ đẹp thiên
nhiêncủa ngôi chùa xưa như thế nào!Hoặc như chùa Hoa Yên chẳng hạn.
Chùa được dựng trên một sưòn núirộng, thoai thoải. Các nhà kiến trúc
xưa đã dựa vào địa thế củanúi để bạt thành hai lớp nền lớn, như đã
từng thấy cách kiến tạomặt bằng của chùa Giạm, nền chùa Phật Tích,
chùa Bảo Quốc, chùaTây Thiên.Có những công trình không lớn, nhưng
được dựng trên một địa thếrất đẹp như am Vân Tiên. Am nằm trên một
gò núi cao, từ dưới đilên có cảm tưởng như nổi hẳn ra giữa trời mây.
Vua Trần Anh Tôngkhi đến đây, đã không ngớt khen ngợi: "Đình đình bảo
các cao phanvân, Kim tiên cung khuyết vô phàm trần..." (Một toà nhà
sừng sữngnhư chiếc lọng cao chạm mây, Cung điện thần tiên không chút
trầntục...)
III- Bố cục ngôi chùa tiêu biểuMuốn hiểu ảnh hưởng kiến trúc Phật
Giáo Trung Hoa sang Việt Nam,có thể nhận định chùa Long Hương (Hà Bắc)
làm điển hình:(a) Bước vào sơn môn đến sân hình chữ nhật, với lầu
trống và gácchuông hai bên tả hữu. (b) Kiến trúc thứ nhất: Điện Đại
Giác Lục Sư. (c) Sân thứ hai:điện đông phối, điện tây phối. (d) Kiến
trúc thứ 2: Ma Ni Điệnvới các tượng Phật. Kiến trúc hình tứ giác có
bốn cửa mở ra bốnhướng. (e) Sân thứ ba: hai hàng bia đông, tây. (f)
Kiến trúcthứ 3: Giữa có Bi Các, bên trái có Chuyển Luân Tạng Điện;
bênphải có Từ Thị Các. (g) Sân thứ 4: Tổ Sư Điện và Già Lam Điện.(h)
Kiến trúc thứ 4: Phật Hương Các. (i) Sân thứ 5: Con đường đếnDi Đà
Điện. (k) Di Đà Diện.Hầu hết những ngôi chùa Việt Nam còn được biết
nhiều cho đến hômnay được kiến tạo hay được trùng tu vào thế kỷ XIX.
Có một sốchùa được xem là chùa đời Lý hay đời Trần như chùa Thái Lạc,
chùaPhổ Minh, tuy nhiên, nghiên cứu một số chi tiết của các ngôi
chùanầy, không chắc đã giữ được bình đồ và trắc đồ của ngôi chùanguyên
thủy. Có thể căn cứ vào một số chùa tiêu biểu để hiểuvề bình đồ, trắc
đồ, vì kèo (bộ khung chùa). Về bình đồ: Nhìn chung, thông thường
người ta chia các chùa thành ba loạibình đồ cơ bản: bình đồ chữ "Quốc",
bình đồ chữ "Công", bình đồchữ "Tam". Đó là cách nhìn chung theo dạng
tự Hán văn để miêu tảbình đồ.- Bình đồ chữ "Quốc": đây là bình đồ tứ
giác, tức là có tường vây baokín như nét bên ngoài của chữ "Quốc".
Thông thường được gọi là"Nội Công, Ngoại Quốc" (Bên trong hình chữ "Công"
bên ngoài hìnhchữ "Quốc".- Bình đồ chữ "Công": là hai kiến trúc song
song nối liền nhau ởgiữa. Thành thử không có bình đồ chữ "Công" độc
lập. Thật ra hầuhết ngôi chùa nào cũng có tường vây quanh như kiểu
chùa chữ "Quốc".- Bình đồ chữ "Tam":Những ngôi chùa theo bình đồ nầy
tiêu biểu là chùa Tây Phương,chùa Thầy ở tỉnh Hà Tây. Kiểu ba kiến
trúc song song với nhauphân cách bằng những mảng sân nhỏ, phân ra chùa
thượng, chùatrung và chùa hạ; không giống như cấu trúc tiền đường,
thiêuhương quen thuộc của những ngôi chùa theo hình chữ "Công". Dù
bênngoài chùa Tây Phương có xây lên la thành bao bọc, nhưng ba
phầncũng riêng rẽ với nhau. Cả ba kiến trúc đều thờ Phật, không cókhu
vực giành để chư tăng thuyết pháp mà ta thường gặp ở tiềnđường của chữ
Công. Chùa có 3 dãy song song với nhau, như ba néttrong chữ "Tam".
Thường gọi là chùa Thượng, chùa Trung, chùa Hạ.Như vậy, tựa hồ như
không có tường vây quanh.- Bình đồ vì kèo: Ngoài hai loại kể trên, còn
có bình đồ theo nền tảng của vì kèo(tức là bộ khung chùa). Có 2 loại
vì kèo : vì kèo suốt và vì kèochồng rường. Trong hai loại nầy thì vì
kèo suốt là phổ biến nhất trong cácngôi chùa Việt Nam. Vì kèo chồng
rường vẫn còn ảnh hưởng ít nhiềucủa cấu trúc Trung Hoa.Chùa Bút Tháp
là cấu trúc điển hình cho kiểu vì kèo chồng rường.Tại chùa nầy, tất
cả kiến trúc điều được chồng rường, các đòn tayđều được đặt trên các
đầu rường, thay vì đặt trên cây kèo suốtnhư ở gác chuông. Gác chuông
chùa Bút Tháp cũng tương tự như gác chuông chùa Keo(Thái Bình) về kiến
trúc lối chồng rường. Nhưng cách dùng vì kèochồng rường tại Việt Nam
như ngôi chùa nầy thì đã được đơn giảnhoá kiểu chồng rường của Trung
Quốc, hay ít ra, đã biến đổi đinhiều. Số rường ở chùa Bút Tháp cũng
giảm thiểu đi nhiều. Ở chùaBút Tháp chỉ còn thấy 3 lớp chồng rường,
trong khi đó chùa TrungQuốc có đến 8 lớp chồng rường. Bù lại, chùa Bút
Tháp lại sử dụngnhững "câu đầu" và "trích" uốn lượn nhiều hơn là những
kết cấu chồngchất lên nhau từng khung nhỏ để có thể phân tán trọng
lượng nhưkiểu chùa Trung Hoa. Cách làm tản lực tại chùa Bút Tháp đặt
trọngtâm vào "đấu củng" và vào "chồng rường".- Bình đồ "Nội Công,
Ngoại Quốc" (thế kỷ XVI về sau) thông thường là loại mô hình liênkết
thành tường vây bên trong, có cụm kiến trúc như hình chữ"Công". Tiêu
biểu cho loại bình đồ kiến trúc nầy là chùa Dâu tạiHà Bắc (Thuận Thành).
Qua thời gian, ngôi chùa đã bị phá hủy đinhiều. Kiến trúc chùa nầy như
sau: Trước là cửa tam quan, kiếntrúc trái phải là hành lang vốn mang
tính chất tăng phòng, cónhững pho tượng Thập Bát La Hán. Kiến trúc sau
là nhà Tổ, cũng tổchức như tăng phòng. Kiến trúc chính là ngôi tháp
với một kiếntrúc bình đồ chữ "Công". Qua nhận định chung, ngôi chùa
kết cấuchữ "Công" và thượng điện có bốn cửa mở ra theo bốn hướng đã
chịukiểu thức Trung Hoa rất đậm nét. Kiến trúc chữ "Công" ở những
ngôi chùa là kiến trúc song song được nối liền ở giữa. Kiểu kiếntrúc
nầy khác hẳn với chùa "chuôi vồ" (tức kiến trúc bình đồ chữ"đinh")
thuần túy Việt Nam. Kiến trúc chuôi vồ chỉ gồm có một kiếntrúc nằm
ngang và một kiến trúc chạy dọc, nhỏ hơn, gắn vào chínhgiữa kiến trúc
thứ nhất, đúng như kiểu chuôi vồ. Qua so sánh chothấy, kiểu dáng nầy
là hình ảnh gần gủi với kiến trúc Ấn Độ. Kiếntrúc kiểu "chuôi vồ" là
sản phẩm Phật Giáo Việt Nam, khi đưa kiểu"chùa hang" Ấn Độ vào nước ta,
thích hợp với cách kiến trúc vậtliệu nhẹ. Chuôi vồ là nơi đặt biểu
tượng Phật, tức là phần thượngđiện. Những ngôi chùa bố cục theo kiểu "chuôi
vồ" điển hình là:chùa Diên Hựu (Hà Nội) chùa Linh Quang (Bà Đá, Hà Nội)
chùa LinhQuang (Hà Bắc).Còn loại chùa kiến trúc theo chữ "Công" như:
chùa Trấn Quốc (HàNội) chùa Viên Minh (Hà Nội) chùa Vĩnh Nghiêm (Hà
Bắc) chùa CảmỨng (Hà Bắc), chùa Cói (Vĩnh Phú) chùa Phổ Minh (Nam Hà)
chùa TâyPhương (Hà Tây), chùa Thần Quang (Thái Bình)...Nhìn chung lại,
các chùa quy mô lớn thường kiến trúc theo bình đồchữ "Công"; một số
theo hình chữ "Quốc" như chùa Dâu. Thôngthường thì hai hành lang nối
liền tiền đường, với ngôi nhà Tổphía sau lưng thượng điện, để có thể
cấu tạo theo hình "Nội Công,Ngoại Quốc". Tiêu biểu rõ nét nhất kiểu
dáng nầy là chùa TrấnQuốc (Hà Nội).Bình đồ chùa Keo (Thái Bình) có gác
chuông, gợi lên hình ảnh kiếntrúc tự của Trung Quốc. Nhưng thông
thường, gác chuông tự thườngđặt phía trước chùa trong kiểu dáng nầy.
Nhưng ở chùa Keo, về lầnsửa sang lại sau nầy thì gác chuông lại ở phía
sau chùa, điềuhiếm thấy hầu hết chùa chiền.Nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng: lối dựng gác chuông (trước hay sauchùa) chịu ảnh hưởng của Trung
Quốc; một số thì cho rằng: đây lànét đặc trưng thuần túy Việt
Nam.Nghiên cứu bình đồ chùa theo kiểu dáng nầy thường lấy chùa BútTháp
(Hà Bắc) làm mô hình nghiên cứu. Trước hết, la thành (hànhlang) chung
quanh chùa là hình ảnh khung hình chữ "Quốc". Nhữngvết tích còn lại
cho thấy: khi mới dựng chùa nầy, thì hành langđược xây rộng thêm nhiều,
vây quanh làm khung thành chạy dài từcửa tam quan cho đến tháp Chuyết
Công và điện thờ. Nhưng hiệnnay thì hành lang thu hẹp; tam quan, một
số tháp, điện thờ đã rangoài hệ thống hành lang.Thứ tự: Nếu tính từ
tam quan vào bên trong, theo thứ tự như sau đây:(a) Tam quan. (b) Sân
thứ nhất. (c) Gác chuông. (d) Kiến trúc hìnhchữ "Công": Phật điện (e)
Sân sau. Cầu đá nối liền Phật điện vớikiến trúc toà Cửu Phẩm. (f) Kiến
trúc toà Cửu Phẩm Liên Hoa. (g)Sân trong. (h) Nhà trung: dùng làm nơi
nhóm gọp thuyết pháp. (i) Sân.(k) Phủ thờ các Vương công. (l) Sân. (m)
Hậu đường: phần sau của hệthống hành lang.Theo bố cục trên, mỗi quần
thể kiến trúc theo các tầng lớp ngăncách nhau bởi những không gian
trống tức là các sân chùa. Tuyrằng bố cục khác với các kiến trúc khác,
nhưng đây là nét độc đáocủa kiến trúc "viện lạc" trong nghệ thuật kiến
trúc Trung Hoa.Ảnh hưởng đó sang Việt Nam trong những ngôi chùa lớn.
Khi chuyểnhoá kiểu kiến trúc nầy thì có một số giản lược, đồng thời
nhữngkiến tố kiến trúc thuần túy Việt Nam cũng đan xen vào. Chẳng
hạn:việc đưa vị trí gác chuông vào chính trục kiến trúc là điều
khônghề thấy trong mô thức "bình đồ tự" Trung Hoa. Ngoài ra, tất
cảnhững kiến trúc bên trong chùa Việt Nam đều dựa theo cách thờphượng
chư Phật khác nhau. Ví dụ: kiến trúc chùa Bút Tháp thìkiểu kiến trúc
theo bình đồ chữ "Công" dùng để thể hiện rõ chứcnăng nầy. Còn những
phần kiến trúc khác thì dùng làm nơi tiếpkhách như phương trượng của
tự hay làm nơi thờ Tổ.Trên đây là những nét căn bản của loại bình đồ "Ngoại
Quốc, NộiCông" thường thấy tại Việt Nam. Trong bình đồ nầy, yếu tố
tiếpcận kiến trúc Trung Hoa được thể hiện trong loại thượng điện
bốncửa và tháp chuông mà thôi. Thành thử mô hình "lạc viện" đã đượcđơn
giản hoá đi nhiều, đến nổi những ngôi chùa khác nhau đã khôngtrở thành
một phong cách thuần nhất của chùa chiền Việt Nam. Chùachuôi vò vẫn là
phong cách chủ thể của Việt Nam từ trước đến nay.
III- Kiến trúc Nước ta là một nước vùng nhiệt đới, diện tích rừng
chiếm phầnlớn. Những công trình kiến trúc thời trước toàn bằng gỗ.
Với khíhậu nhiều mưa, lắm nắng, gió bão thường xuyên, khí hậu ẩm,
chonên những công trình bằng gỗ chẳng còn lưu lại là bao nhiêu.
Nềnkiến trúc Phật Giáo đời Lý đồ sộ như thế, nhưng đến nay thì
bịhủy hoại gần hết. Đó là chưa kể những cuộc chiến tranh hủy hoạido
phương Bắc gây hấn thường xuyên. Thậm chí những kiến trúc vềsau nầy,
chẳng hạn thời Lê Mạc nhưng chẳng lưu lại là bao. Kiến trúc Phật Giáo
nguyên thủy vốn là một loại bảo tháp, bêntrong thờ tượng Phật.
Cùng với sự phát triển của Phật Giáo ViệtNam, kiến trúc chùa ngoài
chức năng ban đầu là khu tưởng niệm,khấn vái, rồi về sau trở thành
nơi tiến hành lễ hội, diễn xướng. Nếuở chùa chiền ở Kampuchia, ở
Indonésia, chùa tháp trở thành mộtquần thể đền đài, cung điện, thì
chùa Việt Nam thường tách khỏimộ tháp trong việc thờ phụng. Với kết
cấu nầy, ngôi chùa chỉ cònlà nơi lễ bái của Phật Giáo đồ, nơi hành
đạo và truyền đạo củatăng chúng. Chùa cũng là nơi biểu hiện các
phạm trù Phật Giáo,bằng một hệ thống các pho tượng Phật với những quy
phạm tương đốichặt chẽ. Những di tích kiến trúc còn sót lại một vài
phần thì phải kể đến: vìkèo chùa Thái Lạc (Lạc Hồng, Văn Lâm, Hải
Hưng), chùa Dâu (ThanhKhương, Thuận Thành, Hà Bắc), chùa Bối Khê (Tam
Hưng, Thanh Oai,Hà Sơn Bình).Ngoài ra còn tìm thấy được một số lượng
điêu khắc hình gỗ tronghố chôn ở cánh đồng làng Bối (Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc,
Hà Nam Ninh), bộcánh cửa chùa Phổ Minh. Vì kèo: Những thành phần
kiến trúc Phật Giáo còn lưu lại chủ yếu là ởnhững bộ khung giá
chiêng tại chùa Thái Lạc làm tiêu biểu. Niênđại được xác định là cuối
thế kỷ XIV. Khác với những thời sau, bộ phận nầy có dáng thấp hơn. Ở
giữa không đểrỗng mà được lắp ghép một mảng gỗ có tạo hình quần lửa
nhọn đầu.Ngoài ra, ở chùa Thái Lạc còn có một số mảng cốn và cột trốn
đượclấp trên các xà nách. Một số ván nong to lớn có những nét
chạmkhắc đẹp được ghép ở giữa các xà dọc thượng và xà dọc hạ.
Nhữngchi tiết nầy có tác dụng che kín các lớp kiến trúc và trang
tríthêm phần thẩm mỹ. Phân tách cấu trúc vì kèo nầy cho thấy: Bộ vì
kèo giá chiêng củachùa dựa trên kết cấu của 4 hàng chân cột. Trên
đỉnh là mộtthượng lương (nóc). Xà nầy tỳ lực trên một đấu hình
thuyền. Đấunầy tỳ vào một rường ngắn mập. Hai đầu rường thì lại được
tỳ lựclên cột trốn qua hai đầu qua đấu vuông thót đáy. Phần không
giangiới hạn giữa hai cột trốn bao giờ cũng được lồng một tấm
vánhình lá đề, có chạm khắc trang trí tỉ mỉ. Phía ngoài cột trốn
làhai phần hình tam giác dưới dạng văn bưng dày, để có thể chịu
lựcđược để đỡ phần hoành mái.Toàn bộ hệ thống kể trên được tỳ trên
một câu đầu vững chắc. Câuđầu nầy được bào xoi vỏ măng ở hai bên,
phần lưng và bụng thìbằng phẳng. Câu đầu thì được tỳ lực vào trên hai
đầu cột cái, quahai đấu vương thót đáy lớn.Với những thành phần cấu
trúc trên, chùa Thái Lạc thường được xemlà mẫu kiến trúc chùa điển
hình thời Lý Trần. Tại chùa Bối Khê, hiện nay còn giữa lại được
nhiều đầu đao củatòa thượng điện. Những chi tiết kiến trúc nầy dùng
để chống đỡcác mái chùa, cốt là giữ cho toàn bộ khung chùa được
vững chắchơn. Ở chỗ các đầu đao nầy cũng được các nghệ nhân thời đó
chạmkhắc công phu. Những nét chạm những đầu rồng to lớn đang há
miệngngậm ngọc và phía ngoài là một hình chim, loại Garuda của
điêukhắc Chàm. Đầu đao là mảng điêu khắc quan trọng nhất của
nghệthuật xây chùa. Các vì kèo gỗ của chùa chiền đời Trần cũngđược
khắc chạm phong phú hơn hẳn các đời sau. Ở phần ván lưng, cóhình quần
lửa nhọn đầu; cả hai mặt thường được chạm đôi rồng uốnkhúc từ trên
xuống, uốn vào giữa rồi ngẩng đầu lên. Đề tài nầythông thường là mẫu
kiến trúc, điêu khắc rất quen thuộc hầu hết các chùa chiềnđời Lý
Trần. Cũng trên mảng ván bưng nầy, người ta thay rồng bằnghai tiên nữ
"đầu người mình chim" (chùa Thái Lạc) hay bằng haihình chim phượng
chầu mặt nguyệt (chùa Bối Khê). Ảnh hưởng Chàmkhá rõ nét.Còn ở các
trụ chống, có lẽ vì diện tích quá hẹp (rộng 30cm), chonên được chạm
mỗi mặt một tiên nữ đang uốn người, giơ tay đỡ lấybệ sen phía trên;
còn phía dưới là hình sóng nước nhấp nhô. Cónhiều chỗ vì chiều cao
hẹp, cho nên nghệ nhân đã chạm hình ngườithượng giới; chẳng hạn như
hình ông phỗng (chùa Thái Lạc) có nơichạm hình hoa mẫu đơn (chùa Bối
Khê), những bệ tam cấp của chùaDiên Hựu...Ở các ván nong chùa Thái
Lạc, có chạm khắc nhiều cảnh về đề tàicác tiên nữ. Có nơi thì hai
tiên nữ đang cưỡi lên chim phượng,một người thổi tiêu, người kia kéo
đàn nhị (chùa Dâu). Nơi khác thì có hìnhcác tiên nữ đang thổi sáo,
đánh đàn, dáng điệu linh hoạt. Cũng cócảnh tiên nữ đầu người, mình
chim, giơ hai tay lên dâng hoa. Sinhđộng hơn cả là hình chạm ba nhạc
công đang sử dụng những nhạc khídân tộc thuộc bộ gõ (trống) và bộ
giây (đàn nhị).Những công trình trên đây chẳng những là thể loại tác
phẩm nghệ thuật, mà lạicòn là vốn tài liệu quý, giúp chúng ta hiểu
được nền ca nhạc nghệthuật Lý Trần. Đem so sánh, các nét chạm trang
trí trên gỗ đời Trần tỏ ra tinhxảo nhưng không bay bướm như đời Lý,
trông thật hơn và mạnh mẽhơn. Kiểu thức nầy đã tạo được cảnh trí
dung dị, gần gủi khi vàochùa. Tuy những đề tài trình bày có tính
cách quyền quý, chínhthống, nhưng vẫn tìm ra được tính chất nghệ
thuật dân gian.Nhìn chung, những di tích kiến trúc Phật Giáo đời Trần
được phânbố rộng hơn đời Lý, phát triển thêm ở vùng trung du và vùng
đồinúi, lên cả vùng biên giới sát Trung Hoa. Thời Lê Sơ, những di
tích Phật Giáo lưu lại không còn lại là bao. Phầnbảo lưu lại được tìm
thấy tập trung tại kinh thành Thăng Long vàLam Sơn, quê hương vua Lê.
Vài vết tích khác là những bi ký tạivùng Hoà Bình, vùng đồng bằng
Bắc Phần, bắc Trung Phần. Tuynhiên, vẫn chưa được xác định niên
đại của những chứng tích nầy,so với triều đại trước đó.Nhưng qua đời
Mạc đã có dấu hiệu mới. Có tác giả gọi đó là thời"bùng nổ" của các
di tích. Những di tích Phật Giáo đời Mạc tậptrung vùng đồng bằng
Bắc Phần, nhất là vùng Kiến An, Hải Hưng,vùng Thăng Long, vùng duyên
hải Bắc Phần rồi chạy dài vào tận Thanh Nghệ. Mộttrong những nét
chính yếu của mỹ thuật chùa chiền ở giai đoạnnầy là thể loại "kiến
trúc - mỹ thuật", mà trong đó, mọi chi tiếtkiến trúc, điêu khắc đều
được thể hiện các đường nét mỹ thuậtcao. Đời Hậu Lê, chiến tranh
triền miên, kinh đô đắm chìm trong tangtóc, tranh chấp; tuy nhiên,
tại vùng nông thôn, nhờ tránh đượcnhững áp lực của chính quyền
thiên về Nho giáo, nên chùa chiềnđược phát triển mạnh. Chùa dựng
lên tuy cơ cấu nhỏ, nhưng lạiđược trang trải về bề rộng. Trong
khuôn khổ sinh hoạt nầy, đã cósự đan xen giữa thờ Phật và thờ
Thần.Trong khi đó, Phật Giáo Đàng Trong lại được phát triển dưới
thờicác chúa Nguyễn kéo dài qua triều vua Nguyễn (1802 - 1945).
Huếtrở thành kinh đô, cho nên chùa chiền được xây dựng nhiều ở
vùngđất Phú Xuân trở vào đến vùng Đồng Nai, theo dấu chân của
nhữngđoàn người di cư. Sự phát triển Phật Giáo miền Trung và miền
Namvừa truyền thừa những tông phái từ trước, mặt khác phải
thíchnghi với hoàn cảnh, tính bản địa, hoà hợp tín ngưỡng dân gian
đểphổ biến, trường tồn. Tại miền Bắc Việt Nam, nhiều ngôi chùa cổ
mang nhiều di tích lịchsử, bên cạnh đó là những mô thức kiến trúc,
điêu khắc, trang trí,hội họa nổi tiếng. Được những nhà nghiên cứu đề
cập đến nhiều là:Tại tỉnh Hà Bắc, phải nhắc đến Chùa Dâu (Pháp vân Tự)
ở thôn Khương Tự,huyện Thuận thành, chùa Phật Tích ởnúi Lạn Kha, xã
Phật Tích, huyện Tiên Du, chùa Bút Tháp ở làngÁi Lữ, xã Nhạn Tháp,
huyện Siêu Loại. Tại Hà Nội và vùng Phụ cậncó chùa Một Cột (Diên Hựu)
chùa Trấn Quốc, chùa Láng (ChiêuThiền) chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên (Đại
Bi Tự). Tại Hà tây phảikể đến chuà Thầy (Thiên Phúc Tự) ở làng Hoàng
Xá, chùa Trăm Gian(Quảng Nghiêm Tự) ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương,
huyện Hoài Đức;chùa Mía (Sùng Nghiêm Tự) ở xã Đường Lâm, thị xã Sơn
Tây; chùaHương ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức; chùa Tây Phương (Sùng
PhúcTự) ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch thất... Trong việc xây
dựng chùa ngày trước và qua những lần tu bổ, chùađược nới rộng mặt
bằng, xây thêm chi tiết, tạo đủ điều kiện chothập phương lễ lượt,
chiêm bái.Chẳng hạn như chùa Yên Tử (Hoa Yên) là cả một hệ thống chùa
chiềngồm có những chùa Cấm Thực, chùa Lân, chùa Giải Oan, chùa Hoayên,
chùa Thiền Định, chùa Một Mái, chùa Bảo Đài, chùa Bảo Sái,chùa Văn
Tiêu, chùa Đồng.Chùa Hương cũng là một mô thức tương tự gồm nhiều dạng
kiến trúc:Bến Đục, Suối Yến Vĩ, núi Voi, núi Rồng, đền Trình, núi Oản,
GàXôi, Bến Trò, chùa Thiên Trù, Nam Thiên Môn, Viên công Bảo
tháp,Thiên thủy Tháp, chùa Tiên Sơn, chùa Giải Oan, giếng Long
Tuyền,động Tuyết Kinh, am Phật Tích. Một số chùa lại được bố trí theo
thuật phong thủy khá chặt chẻ;chẳng hạn như chùa Thầy ở làng Hoàng Xá:
chùa được xây trên thếđất hình con rồng; trước chùa có ngọn núi Long
Đầu; sau lưng phíaphải có ngọn Sài Sơn, trước chùa có hồ Long Trì,
giữa sân có hàmrồng, hai cầu gỗ như thế hai răng nanh rồng.Những vị
khai sơn chùa thường cố tìm cho được những thế đất cóđầy đủ những yếu
tố sơn triều, thủy tụ, tiền án, hậu chẩm, tả long, hữu hổ, huyền thủy,
minh đườngđể dựng chùa, hầu mong đem lại những an lành cho dân chúng
trongvùng.Nhìn đại cương, hệ thống kiến trúc thông thường bao gồm
những phần cơ bản nhưsau: cổng chùa, bảo tháp, nội la thành, ngọai la
thành, tiềnđường, tòa thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, nhà trai,
giảngđường, cửu phẩm liên hoa.Vào thế kỷ thứ X, nhà Đinh rồi nhà Lê đã
đóng đô tại kinh thànhHoa Lư (Ninh Bình). Thành Hoa Lư được xây dựng
trong một thunglũng của dãy núi đá vôi. Cùng với thành nầy, còn có
nhiều ngôichùa. Theo Thiền Uyển Tập Anh có nhắc đến những ngôi chùa
nổitiếng trong thời kỳ nầy như chùa Đại Vân, chùa Vạn Tuế. Chùa Tháplà
ngôi chùa mà ngày nay chỉ còn thấy dấu vết nền chùa ở ven sôngHoàng
Long. Trong một số đá tảng chân cột có viên hình vuông cócạnh dài đến
1,06m, chứng tỏ quy mô kiến trúc chùa rất lớn. ChùaBà Ngô ở Hoa Lư
tương truyền cũng được xây dựng vào đời nhà Đinh.Tại kinh thành Hoa Lư
có tìm thấy vết tích của chùa Nhất Trụ.Thành thử, ngôi chùa hiện tại
không phải là kiểu kiến trúc cổ.Sở dĩ chùa có tên là Nhất Trụ vì trước
chùa có một cột đá cao,khắc bài chú trong kinh Thủ Lăng Nghiêm và một
số bài kệ khác.Những công trình khai quật trong khoảng thời gian từ
năm 1963 đến1965 đã tìm thấy được ở Hoa Lư gần 20 cột đá khắc các minh
văntương quan đến Phật Giáo, cách đền vua Đinh Tiên Hoàng chừng 2km.Đó
là những cột đá có 8 mặt, dài khoảng từ 0,5m cho đến 0,7m.Trên cột đá
tìm thấy năm 1963 cho dòng chữ ghi rõ: Nam Việt VươngĐinh Liễn (con
trai của vua Đinh Tiên Hoàng) đã cho dựng trên 100cột kinh như thế vào
năm Quý Dậu (973). Trên những cột đá nầy đềucó khắc bài thần chú "Phật
Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni (Usnisavijaya- Dharani) bằng chữ Hán ghi âm
tiếng Phạn.Dựa theo những điều ghi chép trên một số cột kinh được khai
quậttrong khoảng thời gian 1987 - 1988, có đoạn nói: Nam Việt
VươngĐinh Khuông Liễn đã cho xây dựng khoảng 100 bảo
tràng(Ratnadhyvaja) để cầu nguyện cho linh hồn của người em là ĐinhNoa
Tăng Noa bị ông giết được siêu thoát.- Vào đời Lý, Phật Giáo phát
triển mạnh mẽ, bành trướng trên nhiều địahạt khác nhau, trong đó kiến
trúc, nghệ thuật tạo hình, hội họa,điêu khắc chùa chiền, bửu tháp,
điện Phật cũng chịu ảnh hưởng theo. Theo xu thế nầy, vấn đề hoằng
dương Phật Pháp trong đời nhà Lý đượctriều đình ra sức nâng đỡ, coi
trọng và được củng cố bằng những sắcchỉ quan trọng. Văn hóa Phật Giáo
đi vào đại chúng bắt đầu triều đại nầy.Sự lớn mạnh của Phật Giáo đời
Lý đã đem lại nhiều ưu thế về lịch sử bànhtrướng, hành đạo, truyền đạo,
cả đến các lãnh vực thuộc văn hóa, nghệthuật mang tính chất bác học
lẫn tính chất đại chúng. Năm 1031, nhà vuađã ban nhiều sắc chiếu cho
chính quyền địa phương cũng như tín đồ xâydựng đến 950 chùa khắp nhiều
địa phương trong một thời gian ngắn; nhiềucao tăng từ Trung Hoa cũng
sang truyền bá Phật Giáo trong thời gian nầy.Giới quý tộc trong thời
gian đó cũng đã tham gia những công trình xâydựng. Những công trình
xây tháp và đúc chuông được tiến hành ở nhiều nơitrong nước. Từ kinh
đô đến nông thôn, đâu đâu cũng dấy lên một phongtrào học đạo, hành đạo
và truyền đạo sôi nổi.Lên ngôi mới được hai năm, tông miếu chưa dựng
lên, xã tắcchưa lập, mà nhà vua cho xây dựng lên 8 ngôi chùa ở phủ
ThiênĐức; lại sửa chữa các chùa quán ở các lộ. Nhà vua cấp độ điệpcho
hơn 1,000 người ở kinh sư làm tăng... Bậc vua chúa sángnghiệp cần kiệm
còn lo con cháu sau nầy xa xỉ, mà vua Lý Thái Tổđể phép cho con như
thế, cho nên, đời sau mới xây tường cao ngấttrời, tạc cột chùa bằng đá,
làm chùa Phật lộng lẫy hơn cả cungđiện nhà vua. Theo quan niệm của
nhiều vua đời Lý thì chùa vẫn là "chỗ ởlâu dài" sau một thời gian làm
vua tại triều. Thành thử, những ditích loại kiến trúc vào thời Lý ngày
nay còn thấy được làkiến trúc tôn giáo và qua những cuộc chiến loại
công trình nầykhông là mục tiêu phá hoại của giặc ngoại xâm hay phong
kiếntrong nước. Đạo Phật dưới đời nhà Lý phát triển rất mạnh
chiếmnhiều ưu thế. Nhiều vị sư tham gia triều chính và được phong làm
Quốc sư. Nhà vuavà hoàng thân quốc thích cũng như các quan đại thần
đều hâm mộ đạoPhật. Những thế hệ sau lại thường trùng tu chùa chiền
thường xuyên, đồng thờicũng được tín đồ bảo vệ. Những luật lệ trong
thời nầy đã cấm người thường dân không được xây những ngôinhà lớn,
khang trang hơn nhà quan hay trong cung đình. Thành thử,họ lại tập
trung vào việc xây dựng đình chùa thêm đồ sộ, trang hoànglộng lẫy, tổ
chức hội lễ lớn lao, nghiễm nhiên đã trở thành hìnhthức giáo dục thẩm
mỹ trong dân gian. Những nét điển hình trong việc xây cất chùa chiền
dưới đời nhàLý là: (1) Những ngôi chùa đời nhà Lý được xây dựng quy
mô, vữngchắc. Việc xây bửu tháp, tượng Phật thường xuyên được tổ chức
khắpnơi. Nhiều vị danh sư từ Trung Hoa được mời sang giảng kinh
vàchứng minh giới đàn. (2) Những ngôi chùa đời Lý thường chiếm những
vị trí tốt đẹp. Chùađược xây trên những ngọn đồi, có sơn, có thủy.
Chùa Phật Tích trênnúi Lạn Kha, chùa Giạm trên núi Giạm, chùa Quỳnh
Lâm trên núi TiênDu, chùa Sùng Thiện Diên Linh trên núi Đọi, chùa
Chính Sơn trên núiNgô Xá, chùa Báo Ân trên núi An Hoạch, chùa Linh
Xứng trên núi LĩnhSơn... (3) Kỹ thuật xây cất, điêu khắc, trang
trítrong ngoài ngôi chùa có những đường nét chịu ảnh hưởng Chiêm
Thành.Vua Lý Thái Tông và vua Lý Thánh Tôn khi đem quân sang đánh
ChiêmThành, đến tận kinh thành Đồ Bàn đã bắt được nhiều tù binh,
trongđó chọn những tên thợ khéo sung vào những đội quân xây dựng.
Ảnhhưởng Chiêm Thành bắt đầu từ đó.Chùa Phật Tích xây trên núi Lạn
Kha một điển hình về các thắng cảnh;thậm chí dân chúng còn tương
truyền có thần tiên hiện lên trong vùng nầy.Tục truyền có 1 tiều phu
tên Vương Chi đốn củi thấy tiên xuất hiện chỉdẫn những cho dân chúng
nhiều phép lạ để chống lại thiên tai thủy họathường xẩy ra. Nơi gặp
tiên chính là vùng xây chùa sau đó.Chùa Giạm được xây trên triền phía
Tây Nam của vùng đồi núi Giạm,cũng là một thắng cảnh nổi tiếng khác về
lãnh vực kiến trúc, điêu khắc.Chùa Quỳnh Lâm xây trên vùng đồi núi
Tiên Du cũng là một kỳ công khácdo sự đóng góp lớn lao chung của dân
chúng, chính quyền địa phương vàchính quyền trung ương. Chùa Linh Xứng
ở trên núi Ngưỡng Sơn nổi tiếng có nhiều bảo tháp caovà xây rất công
phu. Nơi đây tập trung nhiều bộ kinh quý giá.Chùa nầy trở thành một
quần thể kiến trúc khá hoà hợp và công phu.Chùa Hướng Nghiêm xây dựng
trên núi Can Ni (xã Lâm Trang - ThanhHoá) được nhiều vị cao tăng từ
Trung Hoa sang tu hành và thuyết pháp,trong đó có những đại sư danh
tiếng như: Huyền Nghiêm, Trí Tịnh, ĐạoTràng, Trí Quang...Ngay cả những
chùa đồng bằng như các quần thể của những ngôi chùa trongvùng đất
Hương Lãng ở Hải Hưng trong một phạm vi nhỏ có đến 12 ngôi chùado xã
dân đóng góp. Nhiều Niệm Phật Đường cũng được thành lậpquanh vùng nầy.
Chùa Bà Tấm ở huyện Gia Lâm tương truyền là có đức Phật bà Quan ThếÂm
hiện ra và cứu độ, phù trì cho nhiều người dân nghèo trong vùng
nầy;chùa được dựng lên ngay sau đó và 12 ngọn tháp nhỏ tiêu biểu việc
thờphụng 12 đại đệ tử của đức Phật. Chùa Bảo Thiên ở Hà Nội là nơi vua
vàtriều đình đến hành lễ trong những ngày chính lễ Phật Giáo. Nhiều
bảotháp cũng được xây lên trên những ngọn đồi hùng vĩ.Hầu hết những
ngôi chùa danh tiếng trong nước đã chiếm vùng đấtcảnh trí uy nghiêm,
trang trọng. Một số chùa khác thì lại đượcchính quyền trung ương cho
xây cất lên trên những ngọn đồi cao rộng,tại những nơi danh lam thắng
cảnh trong nước.Những nét kiến trúc chùa chiền đời Lý đã thể hiện ở
những néttiêu biểu như sau: Trên nguyên tắc chính thì nghệ thuật nầy
đã thể hiệnđược nhiều đường nét cấu trúc cổ truyền từ nền văn hoá
Đông Sơn. Chẳnghạn như những mái cong vút, trên mái có nhiều mô hình
điêu khắc khá tỉmỉ. Những vật liệu xây cất cũng đã có tiến bộ; thường
dùng gạch đá thayđất nung ở giai đoạn trước đó. Những đường nét kỹ
thuật cũng khá hơn nhiều.Tuy nhiên, nhìn chung thì dáng kiến trúc cổ
điển vẫn chiếm đa số.Những di tích cho thấy: Tại ngoại ô Hà Nội, đã
khai quật được nhiều đồ gốm, gạch ngói,mảnh sành đời Lý; kiểu trang
hoàng tinh vi, kiểu thức độc đáo. Nhữngchuyên viên trường Viễn Đông
Bác Cổ mệnh danh là nền nghệ thuật Đại La. Những phát hiện tháp Bình
Sơn, tháp chùa Phật Tích, những tháp nung khác.Tháp thường là có 7
tầng hay nhiều hơn; hình thể đại cương thì phần dướito, lên trên nhỏ
dần. Mỗi thân tháp phần dưới mỗi mặt có hình Phật.Thân tháp hai bên có
trang trí hình hoa văn, hoa thị 4 cánh. Mỗitầng cách nhau bằng ba đợt
gờ một vành mái âm dương. Đây là ditích còn lại trong số 84,000 cây
tháp do vua Lý Thần Tông chokiến tạo năm 1129 (?). Có những mảnh tháp,
mà thân tháp trang hoàng bằng những ô hộc nhỏở hai bên cửa tò vò chính
giữa. Đây là kiểu tháp Thiên Phật. Cónhững mảnh tháp trang trí hình lá
đề, gắn trên mỗi đầu ngóitròn, làm thành một hàng ngang dài ở diềm mái.
Chóp tháp thườngkhắc hình búp hoa sen.Bia Sùng Thiên Diên Linh đã ghi
lại những nét tiêu biểu đó như sau đây: Những mái hiên uốn cong như
trĩ xoè cánh. Bên ngoài mái lợp như vẫy rồng.Nhà sư Pháp Bảo mô tả: "Đường
cong như cầu vồng. Ngói uyên ương như xập xoèđôi cánh. Nóc uốn cong
kiểu chim trĩ. Đầu chạm như phượng múa. Mái cong lấp lánhnhư mặt trời.
Tường vách như ngăn bụi trần. Hành lang bao bọc chung quanh,Rõ ràng là
bốn mùa hiên cửa thanh hư..."Những lớp ngói đều lợp ngói âm dương (uyên
ương) chiều hình cong,cứ hai ngữa thì có một sấp, được sắp đặt chéo
nhau. Ở đầu những viên ngói nầylại còn được trang trí bằng mẫu sành
sứ. Ngoài ra, ảnh hưởng Phật Giáo phát triển mạnh trong sinh hoạt
nghệ thuật nhân gian:Hình hoa sen được dùng làm thể tài phong phú nhất
bất cứ một công trìnhkiến trúc hay điêu khắc nào. Chẳng hạn như tại
chùa Một Cột thì hoa senlà đề tài chính. Các chùa khác cũng lấy hình
hoa sen làm biểu tượng.Mô thức kiến trúc chùa chiền thời Lý thường
chia làm ba loại: Chùa nhỏ thường làm theo kiểu thức chữ "Đinh": hai
dãy nhà ghéplại, một dãy ngang và một dãy dọc; dẫn ngay dùng làm
thường điện,dẫy dọc là nhà tăng, nhà thờ tổ, nhà trai tăng. Chùa vừa
thường làn theo kiểu chữ "Công": hai dẫy nhà chạy songsong với nhau,
một dẫy khác theo chiều dọc ở giữa nối liền vớihai dẫy trên. Chùa lớn
thường làm theo kiểu "Nội công, Ngoại Quốc" (trong chữcông, ngoài chữ
Quốc), gồm có: một khu nhà lớn ở chính giữa,chung quanh bốn phía cho
những dẫy nhà bao vây. Tất cả trong mộtmô thức thống nhất. Ngoài ra,
phần cổng chùa thường làm theo kiểu tamquan (có ba cửa ra vào). Nhiều
chùa còn xây nhà chuông trống, cũngthường xây ngay trên nóc tam quan.
Như vậy, vào đời Lý Phật Giáo phát triển mạnh mẽ, bành trướng trên
nhiềuđịa hạt khác nhau, trong đó kiến trúc, nghệ thuật tạo hình,
hộihọa, điêu khắc chùa chiền, bửu tháp, điện Phật cũng chịu ảnh
hưởngtheo. Ảnh hưởng Phật Giáo phát triển mạnh trong sinh hoạt nghệ
thuật nhângian: Hình hoa sen được dùng làm thể tài phong phú nhất bất
cứ mộtcông trình kiến trúc hay điêu khắc nào. Chẳng hạn như tại chùa
MộtCột thì hoa sen là thể tài chính. Các chùa khác cũng lấy hình
hoasen làm biểu tượng. Những ngôi chùa lớn dưới đời nhà Lý đều được
xây bằng đá và gạchnung, tuy kỹ thuật không được như ngày nay nhưng
cũng đủ kiên cố để chốnglại những cơn thiên tai, thủy họa. Từ kỹ thuật
đến trang trí nội điện vàngoại vi tất cả đều hài hoà, vững chắc.- Đời
Trần đã đưa Phật Giáo đến độ hưng thịnh cao nhất. Những ngôi danh tự
quan trọng cũngđã quy tụ nhiều nhà sư nổi tiếng: Hai ngài Pháp Loa,
Huyền Quang đãtừng đứng ra tổ chức những đoàn truyền giáo, tu bổ chùa
chiền kể cảnhững ngôi chùa danh tiếng trong kinh đô và chung quanh
kinh đô. Nhà Trần cũng xuống chiếu bắt quan lại địa phương phải trùng
tu nhữngngôi chùa danh tiếng như: Diên Hựu, Bảo Thiên, Khai Nghiêm,
Yên Phong,Thái Nghiêm, Thái Đạo... Mỗi xã thôn dù lớn dù nhỏ, tất cả
đều có nhữngkế hoạch phát triển Phật Giáo về chùa chiền và về nhân sự.
Thậm chítrong những tổ chức chỉnh đốn hàng tu sĩ cũng được triều đình
đặt thànhnguyên tắc để thi hành. Những chức quan lại mang tên Pháp
Bảo, PhápHoá, Pháp Truyền... trong triều đình đủ chứng tỏ những triều
vua nhàTrần đã đặt việc chấn hưng nầy lên hàng quốc sách. Những người
racông đóng góp trong mọi cuộc kiến thiết chùa chiền nầy đều được
nhàvua và các quan lại địa phương tưởng thưởng. Tinh thần Phật Giáo
triềuđại nầy cũng đã ăn sâu vào những ngành văn chương, nghệ thuật,
họcthuật, kiến trúc, điêu khắc, nhân văn... Ngoài những chương
trìnhquảng bá Phật Giáo ra, chính quyền lại còn hoạch định và hoàn
thànhviệc xây thêm những ngôi chùa danh tiếng. Tính ra, có đến 102
ngôichùa trong toàn quốc, lớn hay nhỏ đã được xây dựng trong vòng 5
năm,quả là một kỳ công hiếm có trong chương trình xây dựng nầy.Trong
số những công cuộc trùng tu lớn lao trong giai đoạn nầy, phảikể đến:
chùa Hương Tích (Hồng Lĩnh, Nghệ Tĩnh) chùa Hoa Long, chùaThông (Thanh
Hoá), chùa Hang ở núi Úc (Hoàng Liên Sơn), tháp Bình Sơn (Vĩnh
Phú)tháp Bái Khê (Hà Đông), chùa Phổ Minh (ngoại thành Nam Định),chùa
Dương Liễu (Hà Sơn Bình)...
Những ngôi chùa lớn trên núi Yên Tử
(nơi xuất phát của phái Trúc Lâm Yên Tử) được xem là quymô nhất và
được trùng tu không ngừng. Thượng tọa Thích Mật Thể,khi viết về giai
đoạn phát triển Phật Giáo lớn lao nầy cho biếtthêm: Nhà vua cũng
khuyến khích và giúp đỡ nhiều phái đoàn tăngsĩ lên đường sang Trung
Hoa để cung thỉnh nhiều bộ kinh giá trịtrong chương trình thu thập
kinh điển. Bên cạnh đó, nhiều trungtâm đào tạo tăng tài cũng được tổ
chức khá sâu rộng. Một khí thếchấn chỉnh chưa từng có trong lịch sử
truyền bá Phật Giáo từ thờidu nhập cho đến đời Trần. Riêng núi Yên Tử
trên ngót 30 km từ chânnúi lên có đến chính điện của chùa Trúc Lâm Yên
Tử đã có đến 20 côngtrình nổi tiếng. Tuy Khổng Giáo vốn là cơ cấu
chính của triều đình Lý,Trần, nhưng Phật Giáo trong giai đoạn nầy cũng
đã truyền bá sâurộng trong dân gian.Ngoài ra còn có những chùa nổi
tiếng: chùa Lân, chùa Giải Oan, chùaHoa Yên, chùa Bảo Sái, am Vân Tiên,
Thạch thất Mị Ngư... Mỗi ngôichùa trên đã được kiến trúc theo mô thức
riêng và mở rộng thêm nhiềugiá trị nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Việt
Nam trong giai đoạn nầy.Những ngôi chùa được bố cục theo 3 loại: kiểu
chữ đinh, kiễu chữcông và kiểu "nội công ngoại quốc". Có chùa bố cục
theo hình chữ Tam.Những nét kiến trúc chùa chiền vào đời nhà Lý đã
thể hiện ở những nét tiêubiểu như sau: trên nguyên tắc chính thì nghệ
thuật nầy đã thể hiệnđược nhiều đường nét cấu trúc cổ truyền của nền
văn minh Đông Sơn.Chẳng hạn như những mái cong vút, trên mái có nhiều
mô hình điêu khắckhá tỉ mỉ. Những vật liệu xây cất cũng đã có tiến bộ:
thường dùng gạchđá thay đất nung ở giai đoạn trước đó. Những đường nét
kỹ thuật cũngkhá hơn nhiều. Tuy nhiên, nhìn chung thì dáng kiến trúc
cổ điển vẫnchiếm đa số.Trong "Truyền Kỳ Mạn Lục" của Nguyễn Dữ có viết
về việc xây dựngchùa chiền vào đời nhà Trần có đoạn: "Các chùa như
Hoàng Giang,Đồng Cổ, Yên Sinh, Yên Tử, Phổ Minh, Ngọc Thanh... được
dựng lênnhan nhản khắp nơi. Những người cắt tóc làm tăng ni nhiều
bằngnửa số dân thường. Nhất là ở huyện Đông Triều, sự sùng thượng
lạicàng quá lắm: chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười
chùa,làng nhỏ cũng có chừng năm sáu; ngoài bao bằng lũy, trong tô
vàngson..."- Khi nhà Lê (1428 - 1788) bắt đầu xây dựng cơ nghiệp vào
thế kỷthứ XI, Nho Giáo chiếm địa vị độc tôn, tất nhiên Phật Giáo
suyyếu dầu. Những điều nầy không có nghĩa là Phật Giáo đã bị đẩy
lùihoàn toàn. Trong tín ngưỡng dân gian kết hợp với tín ngưỡng
PhậtGiáo đã có từ trước, đã tạo thành một sức mạnh tiềm tàng mà ngaycả
những ông vua Lê theo Nho Giáo cũng khó vượt qua. Chẳng hạnnhư năm
1434, có hạn hán, vua Lê Thái Tông đã phải sai qua rướcPhật từ chùa
Pháp Vân (chùa Dâu) về kinh thành Thăng Long để cầumưa, dựng đàn chẩn
tế ở ngay điện Cần Chánh. Năm 1448, có hạnhán, vua Lê Nhân Tôn ra lệnh
cho quan lại cao thấp trong triềuphải ăn chay và tới chùa Báo Ân ở
cung Cảnh Linh để làm lễ đảovũ. Đích thân nhà vua lạy trước điện Phật.
Lần nữa, tượng Phậtlại được rước về ở chùa Báo Thiên ở kinh đô và các
sư tăng đượclệnh đến tụng kinh, cầu nguyện.Như vậy trong giai đọan nầy,
các chùa vẫn được xây dựng. Vì lẽ đócho nên đến năm 1464, vua Lê Thánh
Tông đã ra lệnh :"Cấm xây cấtthêm các ngôi chùa mới".Tuy rằng trong
thế kỷ XV, Phật Giáo mất vai trò chính trị và ýthức hệ của mình tại
triều đình như thời Lý Trần, trong guồng máychính quyền, tuy nhiên vẫn
được tiếp tục phát triển tại vùng thônquê trong quảng đại quần chúng.
Tại những nơi nầy, Phật Giáođược truyền bá không theo hướng tìm đến
các triết lý sâu xa, màtrong những tầng lớp quần chúng bình dân, đã
dần dà hình thànhtruyền thống văn hoá Phật Giáo dân gian. Để tồn tại
và pháttriển, Phật Giáo lại còn hỗn dung với những nguồn tư tưởng
khác.Nhiều nơi thiết lập hệ thống thờ cúng "tiền Phật hậu Thần"
hay"tiền Phật hậu Thánh" cũng không ngoài chiều hướng phát triểnnầy.
Với những xu thế phát triển nầy, nhiều cách truyền bá kháđộc đáo.
Chẳng hạn như lối "kể hạnh" được phát triển mạnh. Kểhạnh là cách kể
lại đạo hạnh của những nhà tu hành hay hiềntriết. Kể hạnh dùng lời văn
đơn giản, lại hoà theo điệu nhạc, nêndễ lôi cuốn.Nhưng từ thế kỷ thứ
XVI trở đi, xã hội Việt Nam đã mất dần thế ổnđịnh; cuộc nội chiến liên
tục hết Trịnh Mạc phân tranh đến TrịnhNguyễn phân tranh. Những giềng
mối đạo Nho, vốn là chỗ tựa củachính quyền phong kiến thì nay đã lỏng
lẻo, lay chuyển. Dân chúngđã tìm về với Phật Giáo. Ngay cả những vua
qua hồi đó, tuy khôngnghĩ rằng có thể tìm phương sách cai trị trong tư
tưởng PhậtGiáo, nhưng vẫn muốn làm chỗ dựa tinh thần. Họ coi việc ủng
hộPhật Pháp, xây dựng chùa chiền là tạo ra công đức để củng có thếlực.
Như vậy, Phật Giáo có cơ hội phát triển trở lại. Chùa chiềnlại được
xây dựng nhiều nơi.- Đến đời nhà Mạc, những cấm đoán đối với Phật Giáo
đã không cònnữa. Nhà mạc với nguồn gốc là dân chài, đã tỏ ra phóng
túng trongsinh họat, coi trọng tinh thần tự do của làng xã bên cạnh
đờisống làng xã được phát triển lên, nhiều quý tộc hay hoàng tộccũng
quan tâm đến việc xây dựng chùa chiền. Chùa chiền đời Mạcnhờ đó được
phục hưng. Một số kiến trúc chùa đương thời còn lưulại dấu tích. Những
cuộc khai quật gần đây cho biết đã tìm thấyđược 2,000 tấm bia và quả
chuông. Ngày nay, người ta đã tìm thấynhiều dấu vết kiến trúc và điêu
khắc trang trí đời Mạc, đồng thờicũng tìm thấy không ít tượng Phật
thời nhà Mạc trong các chùachiền. Theo một số tài liệu thư tịch, những
ngôi chùa tiêu biểuđời nhà Mạc là một tổng thể kiến trúc, gồm cả
thượng điện, nhàthiêu hương, tiền đường, hành lang, phối hợp tạo mặt
bằng theokiểu "nội công ngoại quốc". Qua những công trình nghiên cứu
chothấy thượng điện chùa Cói đời Mạc không khác mấy cả về hình khốivà
cấu trúc so với các ngôi chùa đời Trần.Nhiều ngôi chùa như chùa Cói,
chùa Thượng Trưng (Vĩnh Phú), chùaNinh Hiệp, chùa Đa Tốn (Hà Nội),
chùa Mễ Sở, chùa Đông Ngọ, chùaCôn Sơn (Hải Hưng), chùa Bối Khê, chùa
Hương Trai (Hà Tây), chùaTrà Phương (Hải Phòng), chùa Phổ Minh (Nam Hà)...
cùng hàng trămngôi chùa khác đã được trùng tu với quy mô lớn hơn hay
làm mớilại trong thế kỷ XVI, đời Mạc.Khi khai quật chùa Lạng (Hương
Lăng, tỉnh Hải Hưng) những nhàkhảo cổ học cũng đã tìm thấy một lớp
kiến trúc đời Mạc nằm ngaytrên các lớp kiến trúc Lý và Trần trước đó.
Lớp kiến trúc nầychứa những viên gạch xây có hình rồng, hình ngựa bay,
những viêngạch lát có hình rồng, hình hoa lá.Việc phát hiện lớp kiến
trú đời Mạc cũng đã được xác nhận quanhững điều ghi trong văn bia tại
chùa Lạng đã được xây dựng năm1581 trên địa điểm cũ của ngôi chùa đời
Lý.Qua những khảo tả di tích nầy cho thấy những đường nét kiến trúcđời
nhà Mạc còn lại gần gủi với phong cách chùa chiền đời Trần.Chẳng hạn:
thượng điện của chùa Cói (Thần Tiên Tự, tỉnh Vĩnh Phú)một công trình
của thế kỷ thứ XVI rất giống các thượng điện chùachiền đời Trần, với
hai vì kèo có trụ giá chiêng cùng bốn cộtcái. Bốn thanh xà lớn nối từ
cột cái vươn ra các góc chéo liênkết 12 cột con và 20 cột hiên. Các
ván nong ghép với cột con làmthành vách điện. Khoảng thềm dư bên ngoài
có những đầu cột đềuchạm khắc dày đặc các hình rồng và tiên nữ. Bẫy đỡ
góc, đầu dưcũng đều chạm rồng. (Chùa Việt Nam - HVT-).Từ thế kỷ XVI,
đã sản xuất ra kiểu chùa "nội công, ngoại quốc"với các ngôi nhà có tên
gọi như ngày nay: tiền đường, nhà thiêuhương, thượng điện, hậu đường
với hành lang chạy dọc hai bên.Kiểu chùa nầy đã phát triển quy mô hơn
vào thế kỷ XVII.Qua phân tách tổng thể cho thấy trong môt số ngôi chùa
thời Mạccũng có những bệ thờ phảng phất bệ thờ đời Trần; chẳng hạn: bệ
đáchùa Hưng Khánh (Hải Phòng), bệ đá chùa Mễ Sở (Hải Hưng). Bệ đáMễ Sở
có ghi niên hiệu Diên Thành năm thứ nhất (1578). Một sốchùa khác như
Trà Phương (Côn Sơn) có bệ bằng gỗ.Vào đầu thế kỷ thứ XVII, kiến trúc
tôn giáo, cung đình cũng nhưdân gian đã trở thành những trung tâm nghệ
thuật khá phong phú,đồng thời cũng đã trở thành những tụ điểm sinh
hoạt xã hội, giáodục. Kiến trúc Phật Giáo VN trong thời nầy đã có
những thành tựulớn, rộng khắp, dưới thời kỳ vua Lê, chuá Trịnh ở Đàng
Ngoài,cũng như chúa Nguyễn ở Đàng Trong.- Vào thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX, nền điêu khắc, trang trí, đồhoạ Phật Giáo cũng như những đền
thờ khác đã có số lượng và chấtluợng phong phú đã chiếm đến một nửa
tổng số những tác phẩm hiệncòn trong các di tích. Chính nhờ giai đoạn
nầy, hệ thống biểutượng tôn giáo đã được hoàn thiện cho đến nay. Những
chùa khắpnơi trong nước những loại tượng thờ rất phong phú: các tượng
Hộpháp, Kim cương, Tứ trấn, Thập Bát La Hán, tượng Phật đủ các kíchcỡ,
chất liệu.Những chùa miền Bắc lưu lại nhiều di tích đáng kể; chẳng hạn
nhưtấm bia "Nhất trụ tự bi" dưng năm 1847 tại chùa Một Cột đã xácđịnh
công trình tạo dựng và điêu khắc nổi tiếng.Tại miền Trung, nhất là tại
kinh thành Huế, hệ thống chùa chiềncũng được tạo dựng cực kỳ phong phú.
Cùng với điêu khắc cung đìnhvà dân gian, nghệ thuật tạo dáng các chùa
chiền cũng đa dạng.Những ngôi chùa được nhắc nhở đến nhiều như: chùa
Thiên Mụ (vàtháp Phước Duyên) chùa Từ Đàm, chùa Bảo Quốc, chùa Diệu Đế,
chùaThuyền Tôn, chùa Từ Hiếu đều có những loại tượng hình đủ thểloại:
Di Đà Tam Tôn, Tan Thế Phật, tượng Kim Cương, Hộ Pháp, Thậpbát La Hán.
Nhiều chùa còn kết hợp lối thờ phụng "Tiền Phật HậuThánh". Điện Hòn
Chén trên ngọn núi Ngọc Trản thờ Thánh Mẫu ThiênY A Na. Những chùa Bà
(Thiên Hậu) chùa Ông, chùa Quan Công chẳngnhững vân tập người Hoa mà
cả người Việt.
Điêu khắc Phật Giáo(tiêu biểu)
Điêu khắc chùa Dâu (Pháp Vân Tự)Chùa Dâu là một công trình kiến trúc
Phật Giáo lâu đời nhất tạithành Luy Lâu, thuộc thôn Khượng Tự, xã
Thanh Khương, huyện ThuậnThành tỉnh Hà Bắc. Chùa Dâu hay Pháp Vân tự
đời Lý có tên là CổChâu, đời Trần có tên là Thiền Định, đời Lê có tên
là Diên Ứng.Vào thế kỷ đầu Công nguyên, chùa Dâu đã chứng kiến sự phát
triểncủa môt trung tâm giao dịch sầm uất nằm trên giao điểm những
conđường lối thời xưa mà nay chỉ còn lại di tích đổ nát.Vào thế kỷ
XVIII, đã trùng tu lại vàcó thêm nhiều tác phẩm điêu khắc nổi tiếng,
gòp phần không nhỏtrong lịch sử mỹ thuật những tác phẩm bất hủ. Tượng
Phật A Di Đà,dang đứng, cao 1,05m, có bệ 0,25m, tay duỗi thẳng, tay
kia đặtvào lòng;các chi tiết đều được giản lược để toả ra những nét
cực mạnh củanghệ thuật tả thực. Tượng Quan Thế Âm Bồ tát cao 0,90m, bệ
0,19mgỗ phủ sơn. Pho tượng được gọi là "Bà Trắng" dối diện với mộtbức
tượng khác gọi là "Bà Đỏ".Viết về bức tượng nổi tiếng nhất về phương
diện điêu khắc trongchùa Dâu, tác giả "Mỹ Thuật của người Việt" (1988)
viết: Tượngnữ chúa chùa Dâu cao 1,98m, gỗ sơn thếp vàng hoàn toàn đẹp
lộng lẫy, đặt cạnh gian thờ Pháp Vân. Haitay đẩy ra phía trước, trong
thế ngồi trang nghiêm, mặt thảnnhiên. Có thể bà là Man Nương, người
theo truyền thuyết bị nghioan là có tình ý với sư Khâu Đà La và sinh
ra Pháp Vân - vị thầncủa ngôi chùa. (trang 219). Ở hai bên tượng bà
Pháp Vân làtượng Kim Đồng và Ngọc Nữ cao 1,57m mang đăc trưng phong
cáchnghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVIII.
2- Chùa Phổ Minh (1262) còn gọi là chùa Tháp, ở thôn Tức Mặc, xã Lộc
Vương,ở cách thành phố Nam Định khoảng 4km về phía Bắc. Theo những
tài liệu văn hoá sử thì ngôi chùa nầy được xây dựngvào năm 1262, ở
phía tây cung Trùng Quang của các đời vua nhàTrần. Tuy nhiên, nếu xét
theo các minh văn trên bia và trên chuông thìngôi chùa nầy đã có từ
đời Lý; có thể là ngôi chùa đã đượctrùng tu với quy mô rộng hơn vào
năm 1262 đời Trần. Đỉnh Phổ Minh làmột trong "tứ đại khí" của nước ta
vào đời Lý Trần (cùng với chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên và tượng
Phật chùa QuỳnhLâm). Tấm bia dựng trong nhà bia bên phải sân chùa khắc
vào ngày 11tháng 12 năm Cảnh Trị thứ VI (1668) có nói về quy mô của
chùa saulần trùng tu đời Trần: "Nhớ xưa, đền đài cao ngất, trên có
đỉnhvàng nghìn cân, quy mô huy hoàng, tạo thành ngôi chùa trămthước"...Trong
Ức Trai Thi Tập, sau khi biên chép thi văn của Nguyễn Trãi,ở phần phụ,
có chép bài "Phổ Minh Tự Đỉnh" viết: "Cái đỉnh nầyđúc dưới triều vua
Nhân Tông đời Trần, để tại chùa Phổ Minh ởThiên Trường. Đỉnh nầy có
chiều sâu 4 thước, rộng 5 thước, nặng10,000 cân. Thời Vĩnh Lạc, đỉnh
được dời để ở trên bến Đông Tân.Đến năm Mùi (Tuyên Đức, Đinh Mùi, Lê
Thái Tổ năm thứ 10) (1427),Phương Chính, Mã Kỳ mới đem phá ra đúc súng...".Quốc
Sử Quán triều Nguyễn, trong khi soạn bộ Khâm Định Việt SửThông Giám
Cương Mục cho biết: Vào năm Bính Tuất (1426) đỉnh PhổMinh bị tướng nhà
Minh là Vương Thông sai phá hủy, cùng với chuôngQuy Điền, để lấy đồng
đúc vũ khí chống lại nghĩa quânLam Sơn". Trong phần ghi chú có nói
thêm rằng: "Năm Thiệu Long thứ 5 (1262) đờiTrần Thánh Tông, làm chùa
Phổ Minh; có đúc cái vạc, khắc bài minhvào. Dân chúng địa phương còn
truyền rằng: Có thể chạy đuổi nhautrên miệng vạc được (?)".Tam quan là
phần đầu tiên, từ ngoài vào, cũng là bộ phận kiến trúc được nhiều nhà
nghiên cứuđề cập đến, được xem là kiểu dáng tam quan đời nhà Lý ảnh
hưởngđến. Sấu bò từ phía trên xuống dưới. Phía dưới của sấu là mốtbăng
hoa dây, uốn lượn theo hình "sin", thường thấy trong kiểutrang trí đời
Trần. Con sấu còn khá nguyên vẹn với những nét rõràng, cứng cát. Con
vật khá sinh động: đầu ngẩng lên cao, bờm hấtngược, phủ kín gáy và
tai. Đuôi duỗi dài, hơn uốn sóng, mình mậpmạp, chân rắn chắc, toàn
thân như muốn chồm lên cao. Hình tượngcon sấu tại tam quan chùa Phổ
Minh rất giống với những hình sấubằng đá ở lăng vua Trần Anh Tông ở xã
An Sinh, huyện Đông Triều(Quảng Ninh) hay tại một số di tích khác vào
đời Trần. Đây là dấu vết của loại tam quan sớm nhất cònlưu lại cho đến
nay. Những nhà tu hành không thường nghĩ tam quanlà "cửa chùa" theo
nghĩa thông thông thường. Tam quan có ba quan:không quan, giả quan và
trung quan. Không quan là vạn vật giaikhông, một cách nhìn bản thể của
vạn vật; cũng do duyên khácnhau, mà tạo ra muôn vật; duyên khác nhau,
sự vật cũng khác nhau.Giả quan là lối nhìn vạn vật đều là vô thường,
hiện hữu chỉ làgiả tạm; trung quan là cách nhìn thấu suốt tới chân lý,
là Phậtpháp, là con đường chân chính, tiến đến giải thoát.Sau tam quan
thì đến "nhất chính đạo", tượng trưng bằng con đườngduy nhất dẫn đến
Phật đài. Con đường nầy thể hiện tính vô chấptrong lối nhìn vạn vật và
kiến tính để soi sáng vạn vật. Conđường nầy dẫn đến ngôi tháp chính.
Hai bên đường "nhất chính đạo"thì có hai ao nước hình tròn và hai nhà
bia.Kiến trúc thời nầy được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là tháp
PhổMinh. Tháp nầy nằm trước nhà tiền đường, đối diện với bộ cánh cửa
trênvà cao vượt lên. Tháp xây muộn hơn chùa, khi quy mô chùa được
mởrộng. Giá trị nghệ thuật của tháp, theo nhiều nhà nghiên cứu đãdành
cho tháp một vị trí xứng đáng trong toàn bộ lịch sử nghệthuật Việt
Nam. Nhiều viên gạch xây tháp ghi rõ niên hiệu "Hưng Long năm thứ
13"(tức năm 1305). Nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào đây để ghiniên
hiệu kiến tạo tháp.Tháp được xây trên một sân nhỏ hình vuông, mỗi
chiều khoảng 8, 7mét, ăn sâu xuống đất khoảng 0,5 mét. Chung quanh
sân tháp có tườnghoa bao bọc. Các góc sân có xây cây cột, mà đỉnh cột
là hộp đèn lồng.Mỗi mặt tường đều có trổ một cửa ra vào chính giữa.
Phía ngoài cáccửa sân tháp có hai thành bậc, có chạm tượng rồng bằng
đá; những tượngbị hư hỏng thì được đắp thêm bằng vôi vữa. Phía trong
có bậc tam cấp,đi sâu xuống sân. Riêng chỗ tam cấp của mặt cửa bên
trong, có xây chắnlõm xuống, thành một kiểu "bệ thiêu hương" nhỏ, dùng
để đốt vàng mả.Trong sân phía trước tháp có một chiếc chậu lớn đựng
đầy cátdùng để đốt nhang. Tháp nầy có chiều cao 20,7 mét, gồm 14
tầng.Chân đế tháp hình vuông, cạnh dài khoảng 5,2 mét. Nền tháp và
tầngthứ nhất thì được xây bằng đá; những tầng khác thì nguyên xưa
làmbằng gạch mộc. Tầng nào cũng trổ 4 cửa vòm cuốn, giữa các tầng là
gờ mái.Tầng tháp thứ nhất đặt trên bệ đá, có hai lớp cánh sen, lớp
dướithì chúc xuống; lớp trên ngửa lên, đỡ lấy đáy tháp hình vuông;mỗi
cạnh rộng khoảng 5 mét. Bệ và tầng thứ nhất có những hìnhchạm nông
trên mặt đá: hoa lá, sóng nước, mây cuốn; đây là nhữngnét đặc trưng về
phong cách trang trí của đời Trần. Mặt ngoài của những viên gạch của
tầng trên của ngôi tháp đượctrang trí hình rồng. Nhưng vào khoảng đầu
thế kỷ XX, khi tu bổ lạichùa, thì đã trát vữa kín hết mô hình trang
trí. Thành thử, nếu tìm hiểu vẻ đẹp cổ kính của tháp nầy, chỉ có
thểtìm ở kiểu dáng và các hoa văn chạm trên phần đá của tháp. Tại cấp
cuối của phần nền, trước khi vào tầng thứnhất, ở mặt ngoài có những
nét rạch nong tạo thành một vành đaitrang trí, xen kẻ hoa lá chéo nhau,
những hoa hình tròn, cánh hoangã vòng quanh. Ở giữa có cánh hoa cất
lên và xoáy ốc.vành đai nầy là bức diềm những nét khắc hình hoa lá,
cân đối, đềuđặn bao quanh. Bốn cửa tháp của tầng dưới, có gờ nhô ra;
trên mặt gờnhẵn, có những đường khắc vạch những hình hoa lá được cách
điệu.Hoa sáu cánh, có vòng tròn ở tâm, cánh hoa được toả ngược ra
hainhánh, lượn thành đường xoắn ốc. Hai bên có những lá nhỏ, đan
sátnhau. Trong lòng của tầng tháp đá, từ dưới nền nhô lênkhối đá mặt
hình vuông là bệ tượng. Sau nầy có khắc bàn cờ tướng.Trên vòm trần có
khắc vòng tròn, có khắc chạm nổi lên hình haicon rồng. Chùa Phổ Minh
là một tổng thể kiến trúc, gồm có: tiền đường, nhàthiêu hương và
thượng điện.Bộ cánh cửa làm bằng gỗ lim ở gian giữa nhà tiền đường là
di vậtcòn lại từ đời Trần; phần trên có chạm hình rồng; phần dưới
chạmhình hoa, sóng nước và những hoa văn hình học. Nhà bên phải cótấm
bia được khắc vào năm 1916, trên đó nội dungnói về tháp Phổ Minh. Bên
trái có tấm bia ghi niên hiệu năm 1668nói về ngôi chùa nầy. Bên trong
chùa, ngoài các tượng Phật, còn có tượngcủa ba vị tổ của thiền phái
Trúc Lâm đời nhà Trần: Trần NhânTông , thiền sư Pháp Loa và thiền sư
Huyền Quang.
3- Chùa Bối Khê (1305) ở xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Chùa có tên là Đại Bi Tự, tuy nhiên vì tọa lạc trong địa phận củalàng
Bối Khê, nên dân chúng quen gọi tên là chùa Bối Khê.Theo những tư liệu
còn lại thì ngôi chùa nầy được kiến lập vàonăm 1305 (có sách chép là
1558) đời nhà Trần. Về sau, qua nhiềulần hư hại, cho nên đã dần dà
được trùng tu từng phần, đồng thờicũng đã xây dựng thêm những bộ phận
khác vào những năm 1435,1573, 1628, 1694, 1701, 1766, 1783 và sau cùng
là năm 1923.Khi vào chùa, qua khỏi cổng tam quan, sẽ phải qua một nhịp
cầunhỏ, có con lạch nhỏ chảy ngang qua; đây chính là vết tích còn lại
củacon sông Đỗ Động ngày trước. Khi qua khỏi cầu, thì đến toàchuông;
đây là ngôi nhà chia làm ba gian, hai tầng, có tám máichồng khớp lẫn
với nhau.Chùa được bài trí theo mô hình "tiền Phật, hậu Thần", mà vị
Thầnđây là Trương Hán Siêu, người đã từng lập công lớn trong hai
cuộckháng chiến chống quân Mông - Nguyên năm 1285 và năm 1288. Hai
bênchánh điện có hai dãy hành lang dài, có thiết lập những pho tượngLa
Hán, Tôn Giả, chạy bao quanh nhà thiêu hương và chánh điện.Toà Thượng
điện nầy dựng trên một nền cao; đây là loại kiến trúcbằng gỗ duy nhất
còn được bảo lưu từ đời nhà Trần. Những cộtchính đều lớn và thấp; còn
bộ phận vì kèo thì có cốn, theo hình láđề. Đầu các bẩy chạm có hình
rồng, theo kiểu thức đời nhà Trần. Ởmột số đầu đao, ngoài hình rồng ra,
còn có cả những hình chimthần (Garuda) như tại tháp Chăm - Pa. Theo
những di vật, di chỉ còn lại trong chuà Bối Khê là bệ đáhình chữ nhật;
tầng trên có chạm hình đài sen. Thân bệ chạm nhữngloại hình rồng, thú
và hoa lá; tại bốn góc cũng có hình chimthần Garuda. Những dòng chữ
Hán được ghi trên bệ có ghi niên hiệuvào tháng chín năm 1382. Trong
chánh điện, có nhiều thể loại tượng thờ nhưng kiểu dángtrang trí, điêu
khắc đẹp nhất là tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát quáhải. Tượng được chạm
vào năm 1543 đời Hậu Lê.Phần nhà Tổ của ngôi chùa có thờ đức Thánh Bối
(Nguyễn Bình An),mà sự tích được ghi chép tường tận trên bi ký của
chùa, được soạnvào năm 1453, cho biết: Thánh Bối là người đời nhà Trần,
đắc đạo,lại có phép thần thông. Vị thánh nầy cũng được thờ tại chùa
TrămGian. Ngoài ra, tại chùa Bối Khê lại còn thờ 6 vị thần là: Thiên
Thần,Thiên Mộc Thần, Địa Tràng, Trúc Sơn, Thiên Trăng, Ba Giang, tục
truyền đã từng giúp Trưng Nữ Vương đánhthắng quân Tô Định. Lễ cúng tế
chính thức vào ngày 12, 13 tháng Giêngâm lịch. Phần thượng điện của
chùa là toà nhà một gian hai chái. Nền củađiện nầy gần hình vuông.
Bốn đầu dao ở bốn góc, uốn cong vút lên.Từ xa trông giống như hoa sen
nở. Những phần kiến trúc của thượngđiện có dáng dấp mạnh khoẻ. Khác
với những ngôi chùa gỗ xưa thườngdùng là gỗ lim, thì thượng điện Bối
Khê lại làm bằng gỗ mít. Nhữngcột đều ngắn và to. Những kết cấu ăn
chặt vào nhau, theo kiểu thứcdùng sức nặng tự thân tỳ lên. Những cột
cái, cột quân có tiết diện hình tròn.Hai vì nóc của thượng điện chùa
nầy đều theo mô thức của đời Lý: ngaytrên câu đầu, có một con giường,
đoạn giữa nằm sâu xuống. Đuôiiường được chạm khắc hoa văn xoáy tròn,
xen kẻ những đường soi.Phần trên hai đoạn của con giường, mỗi đoạn có
trụ chống. Trêntrụ có chạm hình hoa sen nở, nhiều cánh; thân trụ thì
chạm hìnhhoa cúc.Qua những nghiên cứu về di vật còn bảo lưu lại tại
chùa Bối Khê(Thanh Oai) hiện nay đáng chú ý nhất là chiếc bệ đá. Đây
là chiếcbệ đá hoa sen thờ Phật, nằm ở phía trong cùng của toà thượng
điệnchùa nầy. Đây là loại bệ đá lớn, chiều dài 2,5 mét, chiều cao
1,04mét và chiều rộng 1,6 mét.Những dòng chữ khắc chìm ở bệ đá có giá
trị tài liệu quý. Mẫu tựtuy nghệch ngoạc, nhưng nét tự nhiên. Nội dung
cho thấy được: NămNhâm Tuất, niên hiệu Xương Phù thứ 6 (1382) một số
tín hữu đãcúng chùa tiền và ruộng để kiến tạo. Trong số, vị đạo sĩ
Quốc Oaicúng bàn đá thờ Phật. Như vậy, cách lập ruộng cúng chùa từ đã
có từ đờiTrần. Cùng với giá trị lịch sử, bệ đá nầy còn giá trị nghệ
thuật. Bệchia nhiều tầng, mỗi tầng trang trí khác nhau: lớp trên cùng
làđài sen, gồm hai lớp cánh ngửa và một lớp cánh úp. Lớp giữa làđường
gờ chạm dây leo. Lớp dưới là thân bệ, có nhiều hình trangtrí. Đài sen
với nhiều cánh ngửa. Bên trong có hai đường viền móccâu cuộn bao lấy
hoa sen. Chính giữa hoa sen là vòng tròn đồngtâm. Bốn góc thân bệ có
chạm chim thần (garuda) nửa người nửa thú.Đầu chim có những dải tóc
xỏa ngược. Trán ngắn, mắt lồi to, lông mày lớn. Tai to kiểu tai người,
có đeo vòngkhuyên tròn. Chim mình trần, ngực nở nang, bụng to tròn.
Hai taycó nhiều ngấn gấp hình vuông, giơ lên ngang đầu đỡ lấy toà sen;
haibàn tay nắm những viên ngọc tròn. Chim ngồi phệt xuống, mặc váykiểu
lá sen ba xếp. Mặt thân bệ trước trang trí ba ổ rồng xen kẽvới hai ô
có hình thú, trông như con nai ngậm cành hoa cúc. Những con rồng
trong ô chữ nhật và đôi rồng trong ô vòng sángnhọn ở giữa. Một con có
mào, có sừng, con kia thì có mũi sư tử. 4- Chùa Thái Lạc (Pháp Vân) là
một trong những ngôi chùa cổ còn sótlại vào đời nhà Trần. Ngôi chùa
nầy nằm giữa vùng đồng bằng thuộc xã Lạc Hồng, huyện MỹVăn. Từ quốc lộ
5, rẽ vào chừng 1km, cách Hà Nội khoảng 25km.Chùa nầy có tên chữ là
Pháp Vân Tự, nằm trong hệ thống Tứ Pháp(Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi,
Pháp Điện) mà cư dân cùng đồng bằngsông Hồng hết sức coi trọng. Ngôi
chùa nầy đã trải qua nhiều lần trùng tu vào thời Hậu Lê(1611 và 1620),
thời Nguyễn (1834) và gần đây năm 1957.Một trong những điểm nổi bật
nhất về kiến trúc của ngôi chùa cổnầy là những bức chạm.Cũng như chuà
Dâu và chùa Bối Khê, những bức chạm của chùa TháiLạc được tập trung
vào toà thượng điện. Ngay ở trước phần thượngđiện nầy chỉ gồm một gian
hai chái, nền gần hình vuông. Kết cấukiến trúc một phần để chịu lực,
phần khác tập trung vào trangtrí. Khác với hai ngôi chùa kia, tại đây
đã thay thế rồng, phượngbằng hình chim. Ngoài ra, còn lại nhiều bức
cốn, trên các xà náchchạm rồng, người chim; đặc biệt có hình là các
nhạc công.Tất cả đều chạm hai mặt, có diện tích rộng (cốn nhỏ cao 50cm
xrộng 30cm; cốn lớn cao 90cm x rộng 95cm).Khi đứng giữa chùa nhìn ra,
hay từ xa nhìn lại đều có thể nhậnthấy được những nét tinh tế của
những bức chạm nầy. Đồ án trang trí của những bức cốn có vòng sáng
nhọn đầu, có hìnhhai người chung một bình hoa; những bức cốn hai bên
có chạm khắcnhững cặp người chim cùng dâng một bình hoa, hình nhạc
công haycặp rồng chầu.Có ba bức chạm về những nhạc công cưỡi chim; mỗi
bức có haingười. Bức thứ nhất trình bày người đánh đàn tỳ bà và đánh
đànnguyệt; bức thứ hai người đánh đàn thập lục và thổi sáo; bức thứ ba
kéođàn nhị và gõ phách. Tất cả đều linh hoạt uyển chuyển, đa dạng.Lại
có một bức thấp kéo dài theo chiều ngang, có chạm hình banhạc công
ngồi xếp bằng, thành một hàng ngang; chung quanh cónhiều đám mây; họ
đang đánh đàn tỳ bà, đàn thập lục và đànnguyệt. Ba bức cốn chạm nhạc
công đang cưỡi phượng. Những bức nầy gầngiống nhau, đều nằm trên xà
nách ngang của gian bên trái chùa,nằm trong khung hình chữ nhật, ở lớp
dưới có sóng nước, trên làdải hoa mây móc cuộn; phần chính có hai con
chim mỏ to quắp,giang rộng hai cánh, đang bước nối nhau; trên lưng mỗi
con có mộtnhạc công đứng biểu diễn nhạc cụ. Những nhạc công có dáng
như nửatrên của người chim, mặc xiêm áo, dây thắt tết múi trước
bụng;chân đi giày, mặt nhìn thẳng. Những đám mây dùng làm nền họpthành
từng cụm cuộn đầu lại; từ giữa bay ra một dải tua. Có 12 hình phỗng là
sáu trụ đỡ thuộc hai vì kèo gian giữa. Ngoài ra, còn có những dãy hoa
dây, sóng nước chạm tại vì kèochạy dọc trên câu đầu. Những bức chạm
nầy đã phủ khắp những phần cầntrang trí.Những cặp tiên nữ ca múa, phần
ngực trở lên có dáng người; phầnbụng trở xuống hình chim; những hình
đứng đối nhau, đứng trênnhững hoa sen nở lớn. Phần thân người mình
trần có trang trínhững vòng tay; nhiều tua đeo ở ngực và dải lụa vắt
quanh bờ vai,tóc chải mượt và uốn cuộn to. Những chi tiết mắt, mũi,
miệng đềuchạm khắc tinh vi, tạo khuôn mặt trầm tĩnh, phúc hậu. (theoBezacier).Ở
một số hình trang trí tại chùa Thái Lạc cũng như vài nơi kháccòn lại,
ta có sự liên tưởng đến những nhân vật trong thần thoạiẤn Độ như nhạc
công thiên thần Gamtharva, chim thần Kinnara, vũnữ Apsara. Một số chi
tiết khác về các vị thần Brahma, Vichnou,Civa...Tại chùa Thái Lạc
những mảnh chạm khắc trên gỗ khá độc đáo. Nộidung những bức phù điêu
nầy diễn đạt những cảnh dânghoa và tấu nhạc. Những nhân vật trung tâm
được thể hiện là nhữngvũ nữ, là nhạc công, là chim thần thoại Kinnari.
Cảnh nào cũngđược thể hiện theo một lối bố cục và thủ pháp giống
nhau.Trong tượng Kinnari dâng hoa, hình chính trong tư thế đầu
hơinghiêng, hai tay kính cẩn dâng hoa, đôi cánh chim thần được
dangrộng. Chung quanh đều là những hình xoắn ốc vẽ hình hoa và mây.Bức
tượng không còn nguyên vẹn, mà theo những nhà nghiên cứu nghệthuật,
toàn bộ là một mảng chạm khắc dài hơn nhiều; mội hìnhKinnari đều được
lặp lại đều đặn bao trùm toàn bộ tác phẩm.Tượng Garuda có hình người
mình chim, theo truyền thuyết Ấn Độ.Con vật thần thoại nầy thân cao,
đôi cánh đang trong tư thế ưởnvai, nâng một vật quá đầu được chạm khắc
ở tại những góc của bệtượng đá (như tại chùa Ngọc Thu - Hà Sơn Bình).
Những loại hìnhnầy là kết quả giao lưu văn hoá Việt - Chàm. Theo đoán
địnhchung, đây là kết quả của những cuộc tiếp xúc lớn trong lịch sửvới
người Chàm trước đó và đương thời, là nguyên nhân của sự cómặt những
con chim thần thoại nầy. 5- Chùa Thầy (Thiên Phúc) nay còn lưu lại
nhiều tác phẩm điêu khắcgiá trị. Bộ điêu khắc "Di Đà Tam Tôn" (Di Đà,
Đại Thế Chí, QuanÂm) có niên đại sớm nhất.- Tượng Phật A Di Đà cao
1,75m, kể cả toà sen và bệ tượng, tất cả2,6m. Thế ngồi kiết già, thiền
định. Tóc xoắn ốc, nhọn dần lênđỉnh, khuôn mặt bầu bỉnh, phúc hậu; áo
cà sa hở ngực, chảy sệ,được đỡ lên bởi bộ anh lạc chạm mỏng nhiều hoa
và hạt ngọc trênngực. Áo nhiều nếp, chảy qua phía tay buông xuống, rồi
chảy quahai bên đùi. Đài sen không tròn, có hình tam giác lượn góc,
với 2lớp cánh, 1 úp, 1 ngửa.- Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát: cao 1,51m, bệ
tượng 0,52m, ngồi toạthiền, mặc áo cà sa hở ngực và áo trong, ngực đeo
anh lạc, vớiba bông hoa kết bằng những hạt nổi tròn. Toàn thân chạy
dọc 5đường tràng hạt qua hai vai từ hàng dọc bên trái qua lưng
sangphải; 1 đường ngang chạy lên đùi. Đài sen rộng, với 3 lớpcánh úp
và mở.- Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát: chiều cao 1,17m, bệ tượng 0,77m.
Ngồithỏng chân trái, chân phải khoanh cao. Nhiều nét giống tượng
đứcĐại Thế Chí Bồ Tát. Đầu đội mũ thiên quang, trang trí một lớptràng
hạt nhỏ. Ngồi trên một bệ 4 cấp, chạm khắc các đường hoavăn, cây mệnh
và lá đề.Những điêu khắc chân dung khác: chân dung bà Vũ Thị, công
chúaMinh Châu, bà Diệu Tuệ. Đó là những người từng đóng góp tiềntrùng
tu.6- Điêu khắc chùa Tây Phương: Những công trình điêu khắc tại chùa
Tây Phương khá hoàn chỉnh, đãđóng vai trò chính yếu về điêu khắc cuối
thế kỷ XVIII, với sắcthái Tịnh Độ Tông. Những pho tượng tại chùa nầy
không điêu khắccùng một lúc nhưng phần nhiều đều được hoàn tất vào năm
1794,trong lễ khánh thành chùa. Có pho tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát
12tay vào thế kỷ XVII là tượng cổ nhất của thế kỷ XVII còn lưu
lại;muộn nhất trong nhóm tượng nầy là 2 tượng Kim Cương, được mang
từnơi khác đến; tượng đức Quan Thế Âm 112 tay, vào thế kỷ XIX sauđó;
còn hầu hết đều thuộc thế kỷ XVIII.Những nhóm tượng tại chùa Tây
Phương còn lại thì phải kể đến:- 7 pho tượng Kim Cương.- Bộ tượng Di
Đà Tam Tôn; tượng Thích Ca Tuyết Sơn, tượng ĐươngLai Hạ Sanh Di Lặc
Tôn Phật, tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tượngĐại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.-
Bộ tượng Tam Thế.- 18 pho tượng các vị tổ Thiền tông.Sự sắp đặt các hệ
thống nầy có tính loại hình cao, mang tinh thầnnhập thế của Phật
Giáo.Bộ Di Đà Tam Tôn: gồm có tượng đức Phật A Di Đà; một bên là
ĐạiThế Chí Bồ Tát (179cm, bệ cao 40cm), một bên là đức Quan Thế ÂmBồ
Tát (chiều cao 185cm, bệ cao 37,5cm) được bày theo hàng ngangở hàng
trên cùng của điện thờ trung tâm của tòa giữa. Đặc biệttrong hàng nầy
là pho tượng Phật A Di Đà, chiều cao 184cm, có bềcao 90cm, đứng thẳng,
một tay giương ra như chỉ đường, một taycầm viên ngọc; đây là loại
tượng hiếm có của thế kỷ nầy. Theogiải thích thì: "Trong thời đại
nhiều khủng hoảng xã hội, đứcPhật dù tĩnh lặng nhất ở cõi Niết Bàn
cũng phải đứng dậy, cứunhân, độ thế". Ngoài ra cũng cần đề cập đến
tượng đức Phật Tuyết Sơn. Thậtra, tại miền Bắc Việt Nam nhiều chùa
chiền đắp tượng Tuyết Sơn,tức thời gian Thế Tôn tu khổ hạnh. Cũng như
tượng La Hầu La đãdẫn, tượng nầy đã mất nét Ấn Độ, mà được Việt Nam
hoá đi nhiều,từ khuôn mặt, đến y trang, phong thái. Nhìn chung, tượng
tạc hình dung của nhân vật đã trọng tuổi, gầygò, ngực trơ ra nhiều
xương sườn. Tư thế ngồi theo kiểu "Thức Mạn Di",tức là một chân xếp
bằng lại; một chân co lên; tay phải để trênđầu gối đang co; tay trái
để trên đầu gối xếp bằng. Mắt sâu trủngxuống, nhưng toát ra vẻ cương
nghị. Đôi tay dài là một trong biểu trưngtoàn bộ 32 tướng tốt. Nhà
nghệ sĩ khi tạc tượng đã tập trung vào hình tượng đức Thế Tôn đangnhập
định. Mọi vật chung quanh dường như không còn thấy nữa, tất cả trong
tưduy tham thiền. Nhìn chung, đây là công trình điêu khắc nổitiếng,
hiếm có và mang nhiều sắc thái độc đáo.Tượng Quan Âm tại chùa Bút Tháp
cao đến 3,7 mét, được xem làphoi tượng lớn nhất thờ nội điện trong hệ
thống chùa chiền tạiViệt Nam. Trong số những tượng nầy thì to lớn
nhất là Bát Đại Kim Cương và tượng Vi Đà ThiệnTướng Quân. Chiều cao
tượng vào khoảng ba mét, được sắp đặt chung quanhgóc chùa trong thế
phù trì.Những nghệ nhân nổi tiếng tại huyện Ba Vì đã chăm lo điêu
khắc;họ đã căn cứ vào đức tính và chức năng của mỗi vị Thần, để từ
đó,bố cục, trang trí những đường nét sao cho hợp lý về cử chỉ cũngnhư
trang phục cho từng vị một. Những tay thợ khéo cũng đã nghiên cứu từng
binh khí, giáp trụ,từng chiêu thức tiến thoái, bàn tấn trong võ thuật,
tạo những đường nét sinh động, tinh vi lạthường. Những nét chính của
sự sáng tạo và nghiên cứu tâm lý nầymà những pho tượng Bát Đại Kim
Cương nầy đã trở thành mẫu mực vềnghệ thuật diễn đạt dung mạo của chư
Thánh. Hiện nay, tượng đượcghi chép thành tư liệu cho những khuôn rập
khác tại Việt Namtrong lãnh vực nầy.Trên bệ cao của nếp thượng điện
chùa Tây Phương có ba pho tượngTam Thế lớn, biểu trưng cho Quá khứ,
Hiện tại và Vị lai của đức Phật. Những nét chạm đều hoà đồng một
khuôn mẫu, mỗi đường nét thậttinh xảo, mà nghệ nhân phải bỏ hết tâm
huyết, tài ba mới thựchiện nổi. Phía dưới có tượng đức Thích Ca Đản
Sinh (Cửu Long),cũng theo cách trang trí trên.La Hán: Linh động nhất
trong toàn thể những công trình nầy thì phải kểđến các pho tượng chư
vị La Hán. Tượng lớn bằng người thật, cótượng đứng, có tượng ngồi, ở
phía tường hậu của thượng điện. Tấtcả còn lại 14 pho tượng (trước kia
là 18 pho); mỗi pho tượng đềubiểu hiện cử chỉ, phong thái riêng, trang
phục riêng.Tượng của 18 vị tổ:- Tổ Ma Ha Ca Diếp: tượng đứng cao
188cm, bệ cao 40cm. Ông xuấtthân là thợ rèn, rất thông minh và khoẻ
mạnh, có chí tu hành theoPhật đi giảng kinh. Pho tượng thể hiện một
người lao động chửng chạc, trán hơi nhô,lưỡng quyền cao, má góp, lông
mày rậm, râu tỉa gọn, tay phải đểngang ngực, tay trái thu vào nách;
được bày thờ tại trung tâm,trên điện thờ Phật.- Tổ A nan Đà: tượng
đứng, cao khoảng 175cm, bệ cao 42cm. Ông làem ruột của Phật, tiếp nối
Ma Ha Ca Diếp, nổi tiếng thông minh vàtrí nhớ phi thường. Trong Phật
kinh, A Nan có nghĩa là "hoan hỷ".Pho tượng của vị nầy thể hiện con
người có niềm vui bên trong,tay ôm bó kinh, thể hiện sự trân trọng các
trước tác uyên bác củađức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.- Tổ Gia Na Hoà Tu:
tượng ngồi, cao 115cm. Là Thánh giáng trần,nằm trong bụng mẹ 8 năm
trời. Thích tìm hiểu và so sánh các nềntriết học. Pho tượng trình bày
trong tư thế ngồi bắt chéo, như sắp đứng lên.Vầng trán cao rộng, mắt
nheo lại trong dáng điệu suy tư một điềugì. Cơ thể gầy gò.- Tổ Ưu ba
Cầu Đa: Pho tượng ngồi, cao 99cm, bệ đá cao 42cm. Đắc đạonăm 20 tuổi,
thường hay đi thuyết pháp khắp mọi nơi. Nổi tiếnghùng biện. Pho tượng
thể hiện một người ngồi trên gót chân, hai tay đặt trênđầu gối trái,
mắt nhìn thẳng về phía trước dáng đăm chiêu.- Tổ Đề Ca Đa: Pho tượng
đứng, chiều cao 168cm, bệ cao 42cm.Tương truyền khi sanh ra thì ánh
sáng trong châu thân toả khắptrời đất. Tượng thể hiện một người đang
đi, tay mang nải, dángđiệu khoan thai, phóng đạt.- Tổ Di Trà Ca:
Tượng ngồi, chiều cao khoảng 102cm, bệ cao 41cm.Ngồi theo thế bán già,
một tay để trên đầu gối; tay kia cầm haiđoá hoa sen.- Tổ Ba Tu Mật:
Tượng ngồi, chiều cao 112cm, bệ cao 42cm. Xuấtthân là người dòng quý
phái, trải qua nhiều tôn giáo trước khitheo đạo Phật. Tượng ngồi
thoải mái. Một tay đặt trên đầu gối. Tay kia đang cầmchiếc quạt gải
sau lưng. Pho tượng thể hiện tuyệt mỹ một ngườigầy còm, tu khổ hạnh.-
Tổ Phật Đà Nan Đề: Tượng ngồi, chiều cao 122cm, bệ tượng 65cm.Thoạt
tiên tu theo đường khoái cảm, sau tìm hiểu Phật pháp và đầuPhật. Trí
tuệ uyên bác lạ thường. Hiểu biết nhiều ngành khoa họctự nhiên. Pho
tượng thể hiện một người ngồi trầm tư, suy nghĩ, đôi lông màynhíu lại.
Một tay cầm chiếc "ta đà la", tay kia cầm ngòi bút.- Tổ Phục Đa Mật Đa:
Tượng ngồi, chiều cao 118cm, bệ tượng cao65cm. Tương truyền cho đến 50
tuổi vẫn chưa đi được, chưa biếtnói, chỉ nằm. Sau được tổ Phật Đà Nan
Đề giáo hoá, lĩnh hộinhanh chóng và trở thành người hoạt bát. Tượng
ngồi trong thếkiết già. Tay khoanh tròn, lần dưới các lớp áo choàng.-
Tổ Hiếp Tôn Giả: Tượng đứng, chiều cao 156cm, bệ cao 34cm.Tương truyền
nằm trong bụng mẹ suốt 60 năm trời. Khi ra đời thìkhông bao giờ ngủ.
Tượng đứng thẳng, trong khi đang thuyết pháp.- Tổ Phương Nam Hoả Tu:
Tượng đứng, chiều cao 161cm, bệ cao 34cmTrước khi theo giáo lý Phật đã
từng là một thuyết khách tàiba. Pho tượng thể hiện vị tổ nầy đang lễ
bái đức Bổn Sư Thích caMâu Ni, để tỏ lòng kính mộ Ngài.- Tổ Mã Minh:
Tượng ngồi, chiều cao 112cm, có bệ 56cm. Vị tổ nầyhọc vấn uyên thâm
từng tranh cãi với ma quỉ trong suốt ba nămtrời. Nét mặt tin tưởng,
thường hiện ra trong những cuộc tranhluân.- Tổ Ca Tỳ Ma La: Tượng ngồi,
chiều cao 89cm, bệ 46cm. Nguyêntrước mà một "ma vương" được tổ Mã Minh
giáo hoá. Về sau, muốngiác ngộ quần sanh đã đưa 3,000 đệ tử của mình
quyy Phật. Dáng thản nhiên, mắt nhìn thẳng như muốn giáo hoá kẻ ác.-
Tổ Long Thọ Tôn Giả: tượng đứng, chiều cao 132cm, bệ 34cm.Tương truyền
trước là một "con rắn" đã được tổ Ca Tỳ Ma Ha giáohoá và quy y Phật
Pháp.- Tổ La Hầu La Đà: tượng ngồi, chiều cao 132cm, bệ tượng
34cm.Đáng nói nhất trong các công trình điêu khắc trên đây là tượngđức
La Hầu La (Rahula) (tức con trai của Thái tử Tất Đạt Đa) và tượngPhật
Tuyết Sơn (tức tượng đức Thích Ca trong thời kỳ tu khổhạnh). Tượng đức
La Hầu La, vốn người Bắc Ấn, nhưng khi thể hiệnlại đã được Việt Nam
hoá. Đây là khuôn mặt của một nhân vật trungniên, với nhiều tướng tốt
như: mặt hơi bẹt, đôi mắt khép kín trầmngâm, môi mỏng, tai dài. Cũng
như tượng Tuyết Sơn, tượng nầy gầygò, ốm yếu, với lớp áo rộng choàng
chung quanh. Những nếp áo được chạmvới đường nét tinh vi, phất phơ
trước gió. Đức La Hầu La trong tưthế chuẩn bị lên đường; một tay chống
gậy hướng phía trước; taykia đặt trên đầu gối. Khuôn mặt trầm tư khổ
hạnh, hình dáng khi trở vềgià. Bên cạnh ngài là một chú hươu sao, nằm
quay đầu, mặt ngẩnglên trên; toàn cảnh trông thật sinh động. Toàn cảnh
mô phỏng theomột bức tranh cổ cũng được treo trong chánh điện chùa Tây
Phương.Bezacier viết: Pho tượng của đức La Hầu La (Rahula), con của
thái tử Tất Đạt Đa, tức đức Thích Ca Mâu Niđã theo cha tu hành và đắc
đạo. Pho tượng nầy đã được chuyển hoátheo sắc thái Việt Nam với những
đường nét thần tình, từ nét mặtđến nếp áo, y hệt như một cụ già Việt
Nam đang ngồi trầm tư mặctưởng. Hai bàn tay gầy guộc, trông rõ từng
đốt xương, một tay cầm gậy,còn tay kia để trên đầu gối, diễn đạt thế
ngồi thật thoải mái củamột vị tu sĩ già nua.- Tổ Tăng Già Nan Đề:
Tượng ngồi, chiều cao 79cm, bệ 35cm. Vốn làhoàng tử, gặp nhiều éo le
trong hoàng tộc, xuất gia tìm được giảithoát. Mắt nhìn xuống giòng
sông, dáng suy tư.- Tổ Già Gia Xá Đa: Tượng đứng, cao 134cm, bệ 39cm.
Nổi tiếng làvân du để thuyết pháp không mệt mỏi "đi theo chiều gió".-
Tổ Cưu Ma La Đa: Tượng ngồi trên toà sen, cao 99cm, bệ cao39cm. Trước
là "người trời", do phạm lỗi, bị đày xuống trần giới,trước theo đạo Bà
La Môn, sau theo Phật Pháp, nổi tiếng về nghịluân. Tượng thể hiện đôi
mắt sáng quắc, biểu trưng trí thôngminh.- Tổ Chà Dạ La: Tượng đứng,
cao 119cm, bệ tượng 37cm. Sinh tronggia đình nghèo nàn, sau cố gắng
học hành, tu tĩnh và trở thànhmột đại đệ tử đức Phật nổi tiếng từ bi
và uyên thâm. Tượng thể hiệnngười ốm yếu, trán rộng, mắt sáng.7- Điêu
khắc chùa Mía (Sùng Nghiêm Tự - Sơn Tây): Những công trình điêu khắc
tại chùa Mía còn đượcbảo lưu cho đến nay rất lớn nhưng không thuần
nhất. Phần lớn donhiều chùa chung quanh vùng, trong thời chiến tranh
bị hư hỏng đãđược thỉnh về chùa nầy. Trong số đó, những pho tượng có
phongcách điêu khắc thế kỷ XVIII chiến địa vị quan trọng vào bậc
nhất.Theo thống kê gần đây thì chùa Mía có đến 287 pho tượng lớn
nhỏ(nghiên cứu năm 1998), tuy nhiên nổi tiếng nhất trong những
côngtrình nầy, được xem là tuyệt tác nhất đó là tượng đức Quan thế
ÂmTống Tử.Hai pho tượng Hộ Pháp (Thiên và Ác) cao 3,45m, kể cả bệ (bệ
cao40cm) và 8 pho tượng Kim Cương cao 2,2m là những nét đặc trưngcho
loại tượng làm bằng đất sét, bên ngoài đắp phủ sơn. Theonhững nhà
nghiên cứu thì tính chất tạo dáng ở đây có nhiều chitiết và màu sắc
rất sinh động; nếu đem so với những tượng KimCương chùa Tây Phương làm
bằng gỗ, thì tượng Kim Cương chùa Míanhờ đắp bằng đất, dễ đi vào chi
tiết, cho nên những đường nétthay đổi mạnh mẽ hơn, cương hoạt hơn. Các
màu vàng nâu, màu sonđỏ, màu xanh, màu hồng, màu tía được phủ rất hoà
hợp, tự nhiên,không tương phản, cường điệu.Mười tám pho tượng La Hán,
có chiều cao trung bình khoảng 1,35m,cũng làm bằng đất sét tô màu, cấu
trúc giản dị. Nghệ nhân chútrọng đến sự dịch chuyển khác nhau của từng
chi tiết, đồng thờinhìn chung, cũng nhất quán toàn bộ, tạo thành một
bức tranh toàncảnh khá linh động.Trên thượng điện có các pho tượng Tứ
Bồ Tát, có chiều cao trungbình 1,30m kể cả bệ tượng, cũng cùng một
phong cách kiểu sức củanhững pho tượng La Hán kể trên. Những động tác
khác nhau: chắptay trước ngực, giơ tay lên chỉ định, cầm lọ hoa, tư
thế thiềnđịnh.Tượng Quan Thế Âm mô tả một phụ nữ thùy mị, vẻ mặt
thoáng buồn,hiền hậu, tay ẳm một đứa bé (tống tử) kháu khỉnh. Những
đường nétđiêu khắc mềm mại, tự nhiên về dáng điệu, sinh động về tinh
thần.Pho tượng Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật ở đây rất đẹp,
trangnhã, được đánh giá là loại tượng đẹp nhất trong điêu khắc
cổ.Tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và hai Thị Giả đều làm bằng đấtphủ,
phủ sơn. Ngoài ra còn có các tượng đồng thếp vàng cỡ nhỏ(khoảng 30cm)
là tượng các quan hầu.Trên gác ở tam quan có treo một chuông đồng đúc
năm Cảnh Hưngthứ 4 (1743) và một khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6
(1846).
8- Điêu khắc chùa Tây AnTrong bài bia Vĩnh Tế Sơn được dựng lên vào
tháng tư năm 1828 củaThoại Ngọc Hầu cũng đã tả lại khung cảnh tươi đẹp
của ngôi chùa TâyAn như sau: "Rành rành chân núi trắng phau. Trơ trọi
ngọn tre xanhngắt. Cảnh núi trở nên tươi đẹp, sừng sửng vọt lên. Ngắm
dòng nướcbiếc bên bờ cao, ruộng vườn bao quanh chận lấy núi. Hơi tan
tuôn cuốnlẫn khói lam chiều. Chùa chiền trên chót, hương toả mây hồng.
Thậtkhông kém gì phong cảnh trung châu vậy..."Về việc xây dựng chùa
tháp miền Nam trong thời gian đó, những nhànghiên cứu kiến trúc Phật
Giáo Việt Nam đã viết như sau: "Trongnam Bộ, vùng đấy nầy (Châu Đốc)
nổi tiếng sùng tín đạo Phật, chùatháp mọc lên hàng loạt. Người các nơi
đến để khai phá đất đai, họdựng lên chùa để cầu an, cầu phước, để gần
nhau, giúp đỡ nhau,trong việc làm ăn sinh sống".Trong thời gian ban
đầu, ngôi chùa chưa có một quy mô và diệnmạo kiến trúc như hiện nay,
mà chỉ được xây dựng bằng tườnggạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói
nhưng không lớn lắmTừ đó đến nay, qua bao nhiêu biến chuyển, chùa Tây
An đã bị hư hỏng nhiều nhưng cũng đãkiến thiết kịp thời và những lời
truyền tụng như trên đến nay vẫncòn nhiều ý nghĩa.Chùa Tây An đã hai
lần được trùng tu đại quy mô: lần thứ nhấtvào năm 1861, do Hoà thượng
Nhất Thừa chủ trì trùng tu chánh điện vànhà Tổ rộng rãi thêm và có
nhiều công trình điêu khắc trang nhã hơn;qua lần thứ nhì vào năm 1958,
do công trình của thiền sư Bửu Thọ;những công trình chính trong giai
đoạn sau gồm có: xây ba ngôi lầucổ, xây tiền đường của chùa, xây dựng
và trang trí lại ngôi chánhđiện. Qua những đường nét kiến trúc và
điêu khắc, nền mỹ thuật nầychịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Hồi Giáo kết
hợp lại. Du khách đến vãncảnh hay lễ bái chùa phải lên 32 bậc thềm,
vào cổng chùa, qua Đôngmôn hay Tây môn, trước khi đến tiền sảnh rộng
thênh thang của ngôichùa. Ngôi chùa được bố cục theo hình chữ Tam,
chính giữa là chánhđiện; bên phải là khu mộ tháp; bên phải là nhà Tây
lang. Ngay ở cửa tam quan, đã trông thấy được tượng Phật Bà Quan Âm
Thị Kính tay bếThị Mầu. Đây là pho tượng Quan Âm Tống Tử mà người bình
dân thường quengọi là Quan Âm Thị Kính. Pho tượng diễn tả tư thế của
một phụ nữđang bồng con, nét mặt của pho tượng cho thấy đây là một phụ
nữhiền thục, đượm vẻ buồn bả, ẵm đứa bé kháu khỉnh. Đường nét chạmkhắc
của pho tượng mềm mại, sinh động.Pho tượng nầy được trình bày theo sự
tích Quan Âm Thị Kính đượctruyền bá sâu rộng trong dân gian. Theo
những nhà nghiên cứu lịchsử nghệ thuật thì loại tượng nầy xuất hiện ở
Việt Nam tương đốimuộn, niên đại vào thế kỷ XVIII hay XIX về sau.Hình
thức pho tượng nầy có thể xem là việc đổi mới của tượng QuanThế Âm Tọa
Sơn,tuy nhiên khi thờ phụng thì hai tượng được thiếttrí đăng đối nhau.
Tại chùa Mía (Hà Tây) pho tượng Quan Thế ÂmTống Tử được xem là đẹp
nhất về đồ hoạ, màu sắc và thể dáng trongtất cả những pho tượng cùng
chung thể tài nầy. Tượng to vừa phảibằng con người thực, dáng dấp của
một thôn nữ hiền thục, phúc hậu,ngồi trên một mỏm núi, chân trái hơi
co, còn chân kia duỗi thẳng,rất tự nhiên, hai tay đỡ một đứa bé (con
của Thị Mầu). Bên cạnhcó một con vẹt đậu, mà theo một số truyền thuyết
(Quan Thế ÂmTruyền Kỳ - 1943) thì con vẹt biểu trưng cho Thiện
Sỹ.Những chi tiết chạm khắc trên đã theo như tích truyện, mà trongđó
đứa bé thì được hình dung hoá là "chúng sanh trong bể trầmluân". Nhìn
chung lại, những hình tượng đức Quan Thế Âm rất gần gủi vớingười bình
dân Việt Nam, thường biểu hiện cho sự "cứu khổ, cứunạn", "viễn ly khổ
ách". Những ngôi chùa thuộc Phật Giáo Đại Thừathường thiết lập tượng
nầy trong nhiều kiểu dáng, có khi có đủ 5kiểu nêu trên.Ngoài những
loại tượng Quan Thế Âm kể trên, nhiều chùa còn có bộtranh Thập Điện
Diêm Vương đang xét xử những người từng gây nhiềutội ác trên dương thế;
trong đó có cả cảnh đức Quan Thế Âm vàotận ngục thăm hỏi và cứu độ
chúng sanh. Trước thềm của chùa có hai tượng voi: một con voi trắng
cósáu ngà, một con voi đen có hai ngà. Chùa lợp mái chồng diêm hai
cấp,lớp ngói kiểu đại ống; thỉnh thoảng có điểm xuyết hình tứ linh.Mái
tam quan, cửa đông và cửa tây mang kiến trúc thuần túy dân dãViệt Nam,
Mái lợp ngói âm dương có hai lớp như nhiều kiến trúachùa chiền ở miền
Bắc, nhằm thể hiện một quan niệm vũ trụ củaDịch học: "âm dương phải
giao hoà trong ứng xử".Trên mái che có trang trí hình sư tử, con vật
thuờng được xưngtán là hiện thân cho sức mạnh siêu linh; hai con rồng
tranh châumang vẻ đẹp tượng trưng cho sự giao hòa của vũ trụ. Bên cạnh
đólà những hoa văn thường gặp ở các ngôi chùa cổ như hoa cúc, hoasen
thường gặp ở các ngôi cổ tự miền Trung hay miền Bắc. Qua khỏimái của
tam quan, Đông môn và Tây môn vút lên cao, trông tựa "nhưvạch một tia
chớp vào cõi thiên nhiên". Qua những đường nét nầycho thấy, ngay từ
cửa tam quan, Đông môn và Tây môn, chùa Tây Anđã không mang vẻ dị biệt
gì so với các ngôi chùa khác trong toànvùng. Tất cả những linh vật
trang trí và chạm khắc, những nét hoavăn bao quanh... đều là sự phản
ánh tâm hồn thuần túy dân tộc.Về điện thờ, chùa Tây An có những nét
chung của đa số chùa chiềnNam Phần. Từ ngoài cửa đi vào, trước mặt của
phần chánh điện làcác pho tượng được bài trí theo lớp lang. Chùa thờ
đức Phật A DiĐà cho nên lớp trong cùng cao nhất là tượng đức A Di Đà;
sau đólần lượt là các tượng Phật khác.Ngay nơi cửa ra vào, bên trái có
bàn thờ cô Hai Hiên mà người dântrong vùng thường gọi là "Phật Cô Hai";
bên trái là ban thờ CửuThiên Huyền Nữ; ở chính giữa thờ Thất Thánh có
Chúa Tiên mặc áoxanh, chúa Ngọc mặc áo nâu đứng hầu.Như thế, về phương
diện tín ngưỡng, chùa Tây An là sự hỗn dungphối tự với nhiều tượng thờ
của các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.Có thể thấy ngay sự hiện diện
của một tín ngưỡng trong dân gian:đó là tín ngưỡng thờ Mẫu. Việc thờ
Mẫu gắn liền với thờ Phật làtrường hợp bình thường trong nhiều chùa
chiền, đáp ứng với nhucầu tín ngưỡng bình dân. Tuy nhiên ở chùa Tây
An, tất cả tượngliên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu, như bà Chúa Tiên, bà
Chúa Ngọc,được thờ trong cùng một gian với các tượng Phật. Với kiểu
dángbài trí nầy, cho thấy rõ mô thức "tiền Mẫu, hậu Phật" (bên ngoài
thìthờ Mẫu, bên trong thì thờ Phật). Điều nầy cho thấy trọng tâm
thờphụng của chùa, mà các vị trụ trì đã chủ trương từ đầu, khác
vớinhiều ngôi chùa miền Bắc (tiền Phật, hậu Mẫu).Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng: Sự bài trí tượng thờ trong điệnthần của chùa Tây An đã chứng
tỏ sự hội nhập giữa tín ngưỡng thờMẫu đan xen giữa Đạo Giáo và Phật
Giáo. Tất cả đều bài trí trongcùng một gian chính điện. Với tín ngưỡng
thờ Mẫu ở đây, điều đángnói nhất là những pho tượng thờ Mẫu xuất hiện
ngay một nơi mà tụcthờ Mẫu đã lựa chọn bà Chúa Xứ để phụng thờ trong
một quy mô lớnlao. Hơn thế nữa, trong các ban thờ Mẫu tại chùa Tây An,
cómột nhân vật được phụng thờ khác lạ; đó là nhân vật Cô Hai Hiên.Căn
cú theo truyện tích thì: đây là người con gái nhà Mân, làmnghề bán
bánh lột, bị chết chìm xuống sông, nên đã được lập thờcùng với các bà
Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Cửu Thiên Huyền Nữ. Sựphụng thờ nầy càng làm nổi
rõ tín ngưỡng thờ Mẫu đối với ngườidân vùng đồng bằng sông Cửu Long
vẫn không hề đứt đoạn, cũng nhưsự tồn tại với người nông dân Việt Nam.
Sức mạnh tín ngưỡng thờMẫu đã phát triển mạnh mẽ trong việc thờ cúng
tại chùa Tây An, đãkhiến cho việc bài trí trong chánh điện có vẻ rối
rắm. Tuy nhiên,với ý niệm thờ cúng thì trong tư duy tín ngưỡng bình
dân lại rấtlớp lang hợp lý.Mặt khác, điện thờ chùa nầy còn có khá
nhiều các loại tượng. Cóthể gặp ở đây từ các tượng Thập Bát La Hán cho
đến các loại tượngTiên, tượng Thánh của Đạo Giáo với đủ các chất lịêu,
kích cỡ khácnhau: lớn có, nhỏ có, bằng gỗ có, bằng đá có, bằng xi măng
có, cónhững pho tượng bằng đồng mới kiến tạo trong thời gian gần
lạiđây nữa. Tính chung toàn bộ điện thờ có trên 200 pho tượng.
Nhữngnhà nghiên cứu nghệ thuật thường ca ngợi nghệ thuật tạo hình
củanhững pho tượng gỗ của thế kỷ thứ XIX, mà không một ngôi chùanào
tại An Giang có đầy đủ những thể loại đa dạng và sinh độngđến như vậy
cả.Trong những công trình đồ tượng, điêu khắc, hoạ hình nầy, khôngthể
không đề cập đến những ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer chiphối. Ở phía
những khung cửa, những đường viền chung quanh cổlâu, những chim Garuda
nối tiếp nhau do sự tiếp thu văn hoá Khmercủa nền văn hoá Óc Eo trước
đây. Tất cả những hiện vật thờ cúngnầy tuy đa dạng, nhưng nhìn chung
vẫn thấy được sự hài hoà, đanxen vào nhau rất cân đối.Ngoài những điện
thờ, bên ngoài chúng ta còn thấy được nhiều mộtháp nằm phía bên phải
của chuà. Năm ngôi tháp cổ, từ ngôi thápcủa Hoà thượng Hải Tịnh cho
đến tháp của thầy Nguyễn Thế Mật nóilên lòng sùng kính của những bậc
tu hành có công xây dựng, hoằngpháp tại đây.
Mỹ thuật Phật Giáo Việt Nam
A- Kiến trúc chùaĐời Đinh, Lê: Theo Thiền Uyển Tập Anh có nhắc đến
những ngôi chùa nổitiếng trong thời kỳ nầy như chùa Đại Vân, chùa Vạn
Tuế. Chùa Tháplà ngôi chùa mà ngày nay chỉ còn thấy dấu vết nền cùa ở
ven sôngHoàng Long. Trong một số đá tảng chân cột có viên hình vuông
cócạnh dài đến 1,06m, chứng tỏ quy mô kiến trúc chùa rất lớn. ChùaBà
Ngô ở Hoa Lư tương truyền cũng được xây dựng vào đời nhà Đinh.Tại kinh
thành Hoa Lư có tìm thấy vết tích của chùa Nhất Trụ.Thành thử ngôi
chùa hiện tại không phải là kiểu kiến trúc cổ.Sở dĩ chùa có tên là
Nhất Trụ vì trước chùa có một cột đá cao,khắc bài chú trong kinh Thủ
Lăng Nghiêm và một số bài kệ khác. Đời Lý: Vào đời Lý, Phật Giáo
phát triển mạnh mẽ, bành trướng trên nhiều địahạt khác nhau, trong đó
kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, hội họa,điêu khắc chùa chiền, bửu tháp,
điện Phật cũng chịu ảnh hưởng theo. Theo xu thế nầy, vấn đề hoằng
dương Phật Pháp trong đời nhà Lý đượctriều đình ra sức nâng đỡ, coi
trọng và được củng cố bằng những sắcchỉ quan trọng. Văn hóa Phật Giáo
đi vào đại chúng bắt đầu triều đại nầy.Sự lớn mạnh của Phật Giáo đời
Lý đã đem lại nhiều ưu thế về lịch sử bànhtrướng, hành đạo, truyền đạo,
cả đến các lãnh vực thuộc văn hóa, nghệthuật mang tính chất bác học
lẫn tính chất đại chúng. Năm 1031, nhà vuađã ban nhiều sắc chiếu cho
chính quyền địa phương cũng như tín đồ xâydựng đến 950 chùa khắp nhiều
địa phương trong một thời gian ngắn; nhiềucao tăng từ Trung Hoa cũng
sang truyền bá Phật Giáo trong thời gian nầy.Giới quý tộc trong thời
gian đó cũng đã tham gia những công trình xâydựng. Những công trình
xây tháp và đúc chuông được tiến hành ở nhiều nơitrong nước. Từ kinh
đô đến nông thôn, đâu đâu cũng dấy lên một phongtrào học đạo, hành đạo
và truyền đạo sôi nổi.Những thế hệ sau lại thường trùng tu chùa chiền
thường xuyên, đồng thờicũng được tín đồ bảo vệ. Những luật lệ trong
thời nầy đã cấm người thường dân không được xây những ngôinhà lớn,
khang trang hơn nhà quan hay trong cung đình. Những nét điển hình
trong việc xây cất chùa chiền dưới đời nhàLý là: (1) Những ngôi chùa
đời nhà Lý được xây dựng quy mô, vữngchắc. Việc xây bửu tháp, tượng
Phật thường xuyên được tổ chức khắpnơi. Nhiều vị danh sư từ Trung Hoa
được mời sang giảng kinh vàchứng minh giới đàn. (2) Những ngôi chùa
đời Lý thường chiếm những vị trí tốt đẹp. Chùađược xây trên những ngọn
đồi, có long, có thủy. Chùa Phật Tích trênnúi Lạn Kha, chùa Giạm trên
núi Giạm, chùa Quỳnh Lâm trên núi TiênDu, chùa Sùng Thiện Diên Linh
trên núi Đọi, chùa Chính Sơn trên núiNgô Xá, chùa Báo Ân trên núi An
Hoạch, chùa Linh Xứng trên núi LĩnhSơn... (3) Ảnh hưởng Chiêm Thành:
Kỹ thuật xây cất, điêu khắc, trang trítrong ngoài ngôi chùa có những
đường nét chịu ảnh hưởng Chiêm Thành.Chùa Phật Tích xây trên núi Lạn
Kha một điển hình về các thắng cảnh;thậm chí dân chúng còn tương
truyền có thần tiên hiện lên trong vùng nầy.Chùa Giạm được xây trên
triền phía Tây Nam của vùng đồi núi Giạm,cũng là một thắng cảnh nổi
tiếng khác về lãnh vực kiến trúc, điêu khắc.Chùa Quỳnh Lâm xây trên
vùng đồi núi Tiên Du cũng là một kỳ công khácdo sự đóng góp lớn lao
chung của dân chúng, chính quyền địa phương vàchính quyền trung
ương.Chùa Linh Xứng ở trên núi Ngưỡng Sơn nổi tiếng có nhiều bảo tháp
caovà xây rất công phu. Nơi đây tập trung nhiều bộ kinh quý giá.Chùa
nầy trở thành một quần thể kiến trúc khá hoà hợp và công phu.Chùa
Hướng Nghiêm xây dựng trên núi Can Ni (xã Lâm Trang - ThanhHoá) được
nhiều vị cao tăng từ Trung Hoa sang tu hành và thuyết pháp,trong đó có
những đại sư danh tiếng như: Huyền Nghiêm, Trí Tịnh, ĐạoTràng, Trí
Quang...Chùa Bà Tấm ở huyện Gia Lâm tương truyền là có đức Phật bà
Quan ThếÂm hiện ra và cứu độ, phù trì cho nhiều người dân nghèo trong
vùng nầy;chùa được dựng lên ngay sau đó và 12 ngọn tháp nhỏ tiêu biểu
việc thờphụng 12 đại đệ tử của đức Phật. Chùa Báo Thiên ở Hà Nội là
nơi vua vàtriều đình đến hành lễ trong những ngày chính lễ Phật Giáo.
Nhiều bảotháp cũng được xây lên trên những ngọn đồi hùng vĩ, cao hơn
chung quanh. Đời Trần: Xã hội Việt Nam đời nhà Trần trong tình
hình nầy đã đưa PhậtGiáo đến độ hưng thịnh cao nhất. Những ngôi danh
tự quan trọng cũngđã quy tụ nhiều nhà sư nổi tiếng: Hai ngài Pháp Loa,
Huyền Quang đãtừng đứng ra tổ chức những đoàn truyền đạo, tu bổ chùa
chiền kể cảnhững ngôi chùa danh tiếng trong kinh đô và chung quanh
kinh đô. Nhà Trần cũng xuống chiếu bắt quan lại địa phương phải trùng
tu nhữngngôi chùa danh tiếng như: Diên Hựu, Bảo Thiên, Khai Nghiêm,
Yên Phong,Thái Nghiêm, Thái Đạo... Mỗi xã thôn dù lớn dù nhỏ, tất cả
đều có nhữngkế hoạch phát triển Phật Giáo về chùa chiền và về nhân sự.
Thậm chítrong những tổ chức chỉnh đốn hàng tu sĩ cũng được triều đình
đặt thànhnguyên tắc để thi hành. Những chức quan lại mang tên Pháp
Bảo, PhápHoá, Pháp Truyền... trong triều đình đủ chứng tỏ những triều
vua nhàTrần đã đặt việc chấn hưng nầy lên hàng quốc sách. Những người
racông đóng góp trong mọi cuộc kiến thiết chùa chiền nầy đều được
nhàvua và các quan lại địa phương tưởng thưởng. Tinh thần Phật Giáo
triềuđại nầy cũng đã ăn sâu vào những ngành văn chương, nghệ thuật,
họcthuật, kiến trúc, điêu khắc, nhân văn... Ngoài những chương
trìnhquảng bá Phật Giáo ra, chính quyền lại còn hoạch định và hoàn
thànhviệc xây thêm những ngôi chùa danh tiếng. Tính ra, có đến 102
ngôichùa trong toàn quốc, lớn hay nhỏ đã được xây dựng trong vòng 5
năm,quả là một kỳ công hiếm có trong chương trình xây dựng nầy.Trong
số những công cuộc trùng tu lớn lao trong giai đoạn nầy, phảikể đến:
chùa Hương Tích (Hồng Lĩnh, Nghệ Tĩnh), chùa Hoa Long, chùaThông (Thanh
Hoá), chùa Hang ở núi Úc (Hoàng Liên Sơn), tháp Bình Sơn (Vĩnh
Phú)tháp Bái Khê (Hà Đông), chùa Phổ Minh (ngoại thành Nam Định),chùa
Dương Liễu (Hà Sơn Bình)... Những ngôi chùa lớn trên núi Yên Tử
được xem là quymô nhất và được trùng tu không ngừng. Thượng tọa Thích
Mật Thể,khi viết về giai đoạn phát triển Phật Giáo lớn lao nầy cho
biếtthêm: Nhà vua cũng khuyến khích và giúp đỡ nhiều phái đoàn tăngsĩ
lên đường sang Trung Hoa để cung thỉnh nhiều bộ kinh giá trịtrong
chương trình thu thập kinh điển. Bên cạnh đó, nhiều trungtâm đào tạo
tăng tài cũng được tổ chức khá sâu rộng. Một khí thếchấn chỉnh chưa
từng có trong lịch sử truyền bá Phật giáo từ thờidu nhập cho đến đời
Trần. Riêng núi Yên Tử trên ngót 30 km từ chânnúi lên có đến chính
điện của chùa Trúc Lâm Yên Tử đã có đến 20 côngtrình nổi tiếng. Tuy
Khổng Giáo vốn là cơ cấu chính của triều đình Lý,Trần, nhưng Phật Giáo
trong giai đoạn nầy cũng đã truyền bá sâurộng trong dân gian.Ngoài ra
còn có những chùa nổi tiếng: chùa Lân, chùa Giải Oan, chùaHoa Yên,
chùa Bảo Sái, am Vân Tiên, Thạch Thất Mị Ngư... Mỗi ngôichùa trên đã
được kiến trúc theo mô thức riêng và mở rộng thêm nhiềugiá trị nghệ
thuật kiến trúc Phật Giáo Việt Nam trong giai đoạn nầy.Những ngôi chùa
được bố cục theo 3 loại: kiểu chữ Đinh, kiễu chữCông và kiểu Nội Công
Ngoại Quốc. Có chùa bố cục theo hình chữ Tam.Những nét kiến trúc
chùa chiền vào đời nhà Lý đã thể hiện ở những nét tiêubiểu như sau:
trên nguyên tắc chính thì nghệ thuật nầy đã thể hiệnđược nhiều đường
nét cấu trúc cổ truyền của nền văn minh Đông Sơn.Chẳng hạn như những
mái cong vút, trên mái có nhiều mô hình điêu khắckhá tỉ mỉ. Những vật
liệu xây cất cũng đã có tiến bộ; thường dùng gạchđá thay đất nung ở
giai đoạn trước đó. Những đường nét kỹ thuật cũngkhá hơn nhiều. Trong
"Truyền Kỳ Mạn Lục" của Nguyễn Dữ viết về việc xây dựngchùa chiền vào
đời nhà Trần có đoạn: "Các chùa như Hoàng Giang,Đồng Cổ, Yên Sinh, Yên
Tử, Phổ Minh, Ngọc Thanh... được dựng lênnhan nhản khắp nơi. Những
người cắt tóc làm tăng ni nhiều bằngnửa số dân thường. Nhất là ở huyện
Đông Triều, sự sùng thượng lạicàng quá lắm: chùa chiền dựng lên, làng
lớn có đến hơn mười chùa,làng nhỏ cũng có chừng năm sáu; ngoài bao
bằng lũy, trong tô vàng son..." Đời Lê: Khi nhà Lê (1428 - 1788)
bắt đầu xây dựng cơ nghiệp vào thế kỷthứ XI, Nho giáo chiếm địa vị độc
tôn, tất nhiên Phật giáo suyyếu dầu. Những điều nầy không có nghĩa là
Phật giáo đã bị đẩy lùihoàn toàn. Trong tín ngưỡng dân gian kết hợp
với tín ngưỡng Phậtgiáo đã có từ trước, đã tạo thành một sức mạnh tiềm
tàng mà ngaycả những ông vua Lê theo Nho giáo cũng khó vượt qua. Chẳng
hạnnhư năm 1434, có hạn hán, vua Lê Thái Tông đã phải sai qua rướcPhật
từ chùa Pháp Vân (chùa Dâu) về kinh thành Thăng Long để cầumưa, dựng
đàn chẩn tế ở ngay điện Cần Chánh. Năm 1448, có hạnhán, vua Lê Nhân
Tôn ra lệnh cho quan lại cao thấp trong triềuphải ăn chay và tới chùa
Báo Ân ở cung Cảnh Linh để làm lễ đảovũ. Đích thân nhà vua lạy trước
điện Phật. Lần nữa, tượng Phậtlại được rước về ở chùa Báo Thiên ở kinh
đô và các sư tăng đượclệnh đến tụng kinh, cầu nguyện. Như vậy trong
giai đọan nầy, các chùa vẫn được xây dựng. Vì lẽ đócho nên đến năm
1464, vua Lê Thánh Tông đã ra lệnh :"Cấm xây cấtthêm các ngôi chùa mới".
Tuy rằng trong thế kỷ XV, Phật Giáo mất vai trò chính trị và ýthức hệ
của mình tại triều đình như thời Lý Trần, trong guồng máychính quyền,
tuy nhiên vẫn được tiếp tục phát triển tại vùng thônquê trong quảng
đại quần chúng. Tại những nơi nầy, Phật Giáođược truyền bá không theo
hướng tìm đến các triết lý sâu xa, màtrong những tầng lớp quần chúng
bình dân, đã dần dà hình thànhtruyền thống văn hoá Phật Giáo dân gian.
Để tồn tại và pháttriển, Phật giáo lại còn hỗn dung với những nguồn tư
tưởng khác.Nhiều nơi thiết lập hệ thống thờ cúng "tiền Phật hậu Thần"
hay"tiền Phật hậu Thánh" cũng không ngoài chiều hướng phát
triểnnầy.Đời Mạc: Đến đời nhà Mạc, những cấm đoán đối với Phật Giáo đã
không cònnữa. Nhà Mạc với nguồn gốc là dân chài, đã tỏ ra phóng túng
trongsinh hoạt, coi trọng tinh thần tư do của làng xã bên cạnh đờisống
làng xã được phát triển lên, nhiều quý tộc hay hoàng tộccũng quan tâm
đến việc xây dựng chùa chiền. Chùa chiền đời Mạcnhờ đó được phục hưng.
Môt số kiến trúc chùa đương thời còn lưulại dấu tích. Những cuộc khai
quật gần đây cho biết đã tìm thấyđược 2,000 tấm bia và quả
chuông.Nhiều ngôi chùa như chùa Cói, chùa Thượng Trưng (Vĩnh Phú),
chùaNinh Hiệp, chùa Đa Tốn (Hà Nội), chùa Mễ Sở, chùa Đông Ngọ,
chùaCôn Sơn (Hải Hưng), chùa Bối Khê, chùa Hương Trai (Hà Tây),
chùaTrà Phương (Hải Phòng), chùa Phổ Minh (Nam Hà)... cùng hàng
trămngôi chùa khác đã được trùng tu với quy mô lớn hơn hay làm mớilại
trong thế kỷ XVI đời Mạc.
B- Điêu khắc Phật GiáoĐời Lý: Trong giai đoạn nầy, chùa tháp được
xây dựng rấtnhiều, khắp đất nước "chỗ nào có người ở tất có chùa
Phật" và ""hễ chỗ nào núi cao, cảnh đẹp, đều mở mang để lập chùa" (ĐVSKTT).Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư chép: "Vua sai thợ tạc hơn nghìn pho tượngPhật,
vẽ hơn nghìn bức tượng Phật, làm bảo phướn hơn một vạnchiếc, đến
đây công trình đã xong làm lễ khánh thành. Trong mộtbia văn tìm
thấy được tại chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) có đoạnviết về pho tượng
đời Lý "Vị sư Không Lộ Thượng đúc dựng photượng Di Lặc cao 6
trượng". Pho tượng đức Phật A Di Đà hiện còn lưu lại ở chùa Phật
Tích(Hà Bắc) là pho tượng Phật duy nhất vào đời Lý còn sót lại
chođến ngày nay. Ngoài những tượng Phật mà chúng ta chỉ biết được
qua những sửsách cũ và sự gắn bó giữa các tượng với kiến trúc của
chùa chiềnthời đại nầy. Hầu hết đã đổ nát, vết tích còn bảo lưu do
côngtrình khai quật sau nầy. Ngoài các tượng trên, còn thấy một
sốtượng thú vật bên ngoài các ngôi chùa nầy. Phần lớn là những convật
có thực, rất quen thuộc và tìm thấy ngay tại bản địa, như:voi, ngựa,
trâu (ở chùa Phật Tích), khỉ (ở tháp Chương Sơn)...Để cấu tác những
loại tượng hình nầy, các nghệ nhân thời đó hẳnphải sử dụng nhiều
loại chất liệu. Đá được dùng nhiều nhất vìthích hợp với tính chất
bền vững với thời gian và quy mô to lớncủa những chùa tháp thời Lý.
Hầu hết những pho tượng lớn đời Lýcòn giữ lại đến nay đều tạc bằng
đá. Ngoài ra, trong nhiều ditích chùa chiền thời nầy còn tìm thấy
được những pho tượng làmbằng đất nung. Rất nhiều trong số những
tượng đất nung nầy lànhững bộ phận trang trí nhỏ, những bức phù
điêu. Một loại chấtliệu khác khá phổ biến là đồng.Trong những thể
tài điêu khắc thì tượng Phật Thích Ca vẫn là quan trọng nhất.
Nhữngtượng nầy thường thể hiện năm giai đoạn trong đời ngài. Tượng
Phật Thích Ca ở ngôi chùa lịch sử nầy ngồi trên toà sen mườitám cánh.
Tượng cao 1,87 mét tính chung cả bệ tượng là 2,77 mét.Đức Bổn Sư ngồi
kiểu kiết già hai bàn chân để ngửa. Bên ngoài mặcáo pháp 3 lớp. Trên
tượng thể hiện đủ 32 tướng tốt: u trên đầu, tóc cuốnkhu ốc, trái tai
dài, cổ cao 3 ngấn. Những tượng Kim Cương ở đây biểu hiện cho những
Thần tướng nhà trời đượcgiáng xuống trần trong nhiệm vụ bảo vệ đức
Phật. Phần nhiều tại nhữngchùa Việt Nam, Kim Cương thường có tám vị
gọi là Bát Đại Kim Cương.
Đời Trần: Những ngôi chùa nổi tiếng
trong đời Trần phải kể đến: chùa PhổMinh (Nam Hà), chùa Bối Khê (Hà
Tây), chùa Ngọc Khám (Hà Bắc),chùa Thái Lạc (Hải Hưng), chùa Non Nước
(Ninh Bình), chùa Dâu (HàBắc), chùa Thị Đức (Hải Hưng), chùa Hướng
Trai (Hà Tây), chùa QuếDương (Hà Tây), chùa Xuân Lũng (Vĩnh Phú),
chùa Ngọc Đình (HàTây), chùa Nhạn Tháp (Hải Hưng), chùa Thầy (Hà
Tây), chùa ThanhSam (Hà Tây), chùa Vạn Đồn (Nam Hà).- Chùa Phổ Minh
(1262) đến nay còn lưu lại bộ cánh cửa gian giữa nhà tiềnđường, là
vết tích nguyên thủy của nó. Những cánh cửa nầy làmbằng gỗ lim,
to, dày, chắc nịch. Như vậy đã trên 700 năm mà vẫncòn nguyên vẹn. Bố
cục của hình trang trí cân xứng, hài hòa, phầntrên chạm rồng, phần
dưới chạm sóng nước, hoa văn hình học. Sóngnước gồm những khung tròn
nối nhau gãy khúc, to bè, có vẻ bìnhlặng.- Chùa Thị Đức (Hải Hưng)
kiến tạo vào năm 1331, nhưng nay chỉ còn lưu lại ítdấu tích, đặc biệt
là bia của chùa. Kích thước vừa phải, chiều caochừng 1,5m; bia dựng
trên lưng một hình rùa, với biểu tượng sâusắc. Khối bia bẹt, có trán
cong; đây là kiểu bia truyền thống củathế kỷ trước. Một số họa tiết
trên trán bia còn giữ đủ nét. Diềmbia có nhiều hình rồng rắn uốn
khúc, cổ chúc xuống, nhưng đầu ngẩng lên.- Chùa Thông (Thanh Hoá) xây
dựng vào năm 1270; đến nay chùa bị phá hủyhoàn toàn chỉ còn lại
một số di vật nằm rải rác trên một mặtbằng. Trong số nầy đáng chú
ý nhất là pho tượng con sư tử. Kíchthước hình nầy dài 1,25m. Hình nầy
diễn tả con sử tử trong tư thếnằm xoải dài, chân thu về phía trước,
đầu ngẩng cao lên. Hình sưtử thiên về trang trí hơn là tả thực.
Trong điêu khắc và trangtrí, sư tử thường biểu trương cho tính tự
nhiên, bình thản, kínđáo, khác với hình con hổ. Với phong cách tạo
hình quen thuộc củacon vật nầy thế kỷ trước, toàn thân có những hình
khối căng tròn,mập mạp, nghệ nhân bỏ nhiều công sức trau chuốt, tạo
những nétmềm mại.- Chùa Bối Khê xây năm 1338, nhưng bị hủy hoại
gần hết. Phần cònlưu lại đến nay là một số đầu bẩy, mà sau nầy được
dùng lại trongngôi thượng điện của chùa được trùng tu lại. Số lớn
các đầu bẩyđều chạm hình đầu rồng ngửa lên, há miệng ngoạm lấy cái đấu
đỡ xànhà. Đầu rồng nầy còn giữ lại được nguyên vẹn đầu rồng
truyềnthống, kể từ đời Lý. Mào rồng có hình ngọn lửa bốc lên cao,
mũirồng to như phập phồng. Trên đầu bẩy đều có những hoa văn
dạngxoắn ốc từng đôi ngược chiều, hình chữ "S".Đời Lê: Chùa Bút Tháp
là một quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tíchcủa phong cách thế
kỷ XVII. Điều đáng nói nhất tại đây là tháp của chùavà pho tượng Quan
Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt. Theo những tàilệu còn giữ thì tượng nầy
được tạc nên vào năm Bính Thân (1656), của nhữngtay thợ lành nghề nhất
của làng Phương Xá.Đời Nguyễn: Hầu hết điêu khắc, trang trí trong
các chùa tháp thường dùngnhiều hình loài vật: long, lân, qui, phụng,
dơi, hổ.Rồng đứng đầu trong bộ Tứ linh, phổ biến trong những công
trìnhđiêu khắc như nóc mái, đầu hồi, cột kèo, bệ thang cấp, bệ thờ...Rồng
trong điêu khắc Phật Giáo Huế đời Nguyễn khác hẳn với rồng của
cáctriều đại trước, kể từ loại rồng Lý. Hình rồng như con rắn
thần,uốn hình kiểu "Oméga". Đầu có mào bốc lên, trông như lưỡi
giáo,mang nở phình, có ý nghĩa tâm linh. Rồng đời nầy do ảnh
hưởngrồng Trung Quốc, có tính biểu tượng uy nghi. Hình tượng rồng
đạithể như đầu bò, râu người, mõm như mõm lửa, tai voi, vẫy cá,
thânrắn, chân vượn. Bên cạnh long là lân. Theo truyền thuyết lân là
một linh thú. Conđực gọi là Kỳ, con cái gọi là Lân. Lân biểu tượng
cho nhân đức,hiều hậu. "Chân không đạp loài vật, miệng không ngậm cỏ
non". Nhưvậy, lân được dùng nhiều trong nghệ thuật điêu khắc Phật
Giáo.Hình tượng con lân trong dân gian như một biểu tượng cho
đứchạnh, tu hành, may mắn, phúc đức. Rùa (quy) thường đứng chung
trong tứ linh. Rùa cũng thường để độibia (bi văn). Rùa là động vật "sống
đến ngàn năm" cho nên thườngtượng trưng cho trường thọ, cũng như chịu
đựng, nhẫn nhục, kiêntrì. Hình tượng con rùa dưới dạng mang theo cổ
đồ, cuốn thư đội bátquái. Trong điệu thức điêu khắc chùa chiền,
hình tượng rùa thườngngoảnh đầu phóng khoáng, kiêu hãnh, kết hợp với
các hoa lá. Kiểuthức "rùa với bát quái" có tính triết học phương Đông,
quan niệmvũ trụ bao la. Phụng là loài chim tiêu biểu cho sự trang
nhã, quý phái. Hìnhchim phụng rất đẹp với đầu gà, mỏ diều, mồng
mào diều, mắt nhưgiọt nước, tóc chim trĩ, chân hạc, đôi cánh vươn
dài rộng, cónhiều tia, đặc biệt là đuôi rất dài, uốn khúc uyển
chuyển mềmmại giống lông công có nhiều răng cưa, cổ rắn, sau đầu và
cổ cólông đuôi nheo.
Phác thảo ngôi
chùa Việt Nam
Dẫn nhậpNgười Việt tiếp xúc với đạo Phật rất sớm, so với nhiều nước
trongvùng Đông Nam Á, vào khoảng đầu Công nguyên. Từ đó đến nay
quanhiều triều đại, kinh qua thăng trầm, nhiều dấu ấn của đạo Phậtđã
lưu lại trong nền văn hóa Việt Nam, trong một chừng mực nào đó,đã tác
động đến cả phong tục tập quán, tình cảm và tư tưởngcủa mọi tầng lớp
xã hội.Vị trí của nước Việt nằm giữa đường giao thông của hai nước
lớn,có nền văn minh cổ là Ấn Độ và Trung Hoa. Điều kiện địa lý
vàcảnh quan nầy, tất nhiên Việt Nam không thể phát triển văn hoámột
cách hoàn toàn độc lập. Những ảnh hưởng của hai nền văn hoánói trên
trực tiếp hay gián tiếp, hữu cơ hay vô cơ, trong sự giaolưu là điều
tất yếu.Trong giai đoạn đầu tiên, khó có thể xác định được cụ thể
tôngphái Phật Giáo nào đã chi phối tới Phật Giáo Việt Nam; tuy
nhiênđiều khẳng định rõ là Phật Giáo Đại Thừa đã theo các vị sư Ấn
Độtheo đường biển đưa vào đất Giao Châu. Đường bộ cũng là ngõ vàothứ
hai.Sách "Ngô Chí" có đoạn chép: "Sĩ Nhiếp qua làm Thái thú quận
GiaoChỉ, sau lên làm Thứ sử Giao Châu; trước sau khoảng ngót 40
năm(187 - 222). Khi ra đường, người ta thường nghe có những tiếngmõ,
kiểng, chiêng, trống và thấy bọn Rợ Hồ cầm hương đi hai bênxe từng
toán hàng chục người..."Căn cứ vào tài liệu nầy, danh xưng "Rợ Hồ" ám
chỉ là các Tăng sĩ ngườiThiên Trúc (Ấn Độ), người Nguyệt Thị (Tây
Bắc Ấn Độ) hay ngườiKhang Cư (xứ Boukhara, Tân Cương thuộc Nga).Điều
nầy chứng tỏ những nhà sư Ấn Độ đã sang truyền giáo, tổchức lễ
hội và được dân chúng tin theo.Vối đường biển, đạo Phật và Bà La Môn
Giáo từ đất Ấn đã lan trànhầu hết các nước vùng Đông Nam Á, và trong
những phương thức hànhđạo và truyền đạo đã không tránh khỏi với văn
hoá bản địa để đượctrường tồn.Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: đạo Phật
đến đất Giao Châu còn sớmhơn các trung tâm Phật Giáo Bành Thành và
Lạc Dương. Có thể thấyđược tư liệu trong Thủy Kinh Chú ghi chép:
"Sau một thời vớinhững chiến tích oanh liệt, vua A Dục (Asoka) hối
hận trước cáccuộc chinh chiến đẫm máu, nên đã hồi hướng Phật Đạo.
Nhà vua đãtrở lại chuyên tâm làm điều thiện, hoằng dương Phật Pháp.
Mộttrong những ngôi tháp đã được nhà vua cho dựng là ở trên đất
Việt(thế kỷ thứ III trước Công nguyên).Vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ
thứ II, đầu thế kỷ III), có lẽ đạoPhật đã phát triển vững vàng tại
Luy Lâu, nơi mà nhiều cao tăngngười Ấn và người Trung Hoa đến thành
nầy để thuyết pháp.Cũng thời nầy, nhiều danh tăng nước ngoài đã đến
tu ở những ngôichùa Việt vùng Luy Lâu; trong số có nhà sư Khâu Đà La
(Ksuka) vàMa Ha Kỳ Vực (Jivaka). Câu chuyện về nàng Man Nương
trong mốiquan hệ với sư Khâu Đà La, nếu được coi là một cứ tích lịch
sử,thì ngay từ buổi đầu, Phật Giáo đã sớm kết hợp với tín ngưỡng
bảnđịa; việc thờ cúng một số vị thần về nông nghiệp hoá thân
thànhPhật như ở chùa Bà Dâu (Pháp Vân), chùa Bà Đậu (Pháp Vũ), chùa
BàGiàn (Pháp Lôi), chùa Bà Tướng (Pháp Điện). Cả 4 vị hợp thành
hệthống Tứ Pháp. Ngoài ra sự tích gắn liền với nhiều phép lạ
cótính chất phù chú (Tantrism), có thể được bổ sung trong thời đạisau,
tuy nhiên, ít nhiều vẫn nói lên thế giới siêu nhiên là thíchvào sự
linh dị.Đây có lẽ là một hình thức Mật Giáo hay đã nhiễm Bà La Môn
Giáovì Khâu Đà La là người xướng xuất, nguyên thuộc dòng nầy.
Nhưthế, nền tín ngưỡng thời nầy chưa hẳn là Phật Giáo thuần túy.Cũng
có thể tìm hiểu thêm trong sách Mâu Tử (tức Mâu Bác): "Saukhi vua
Hán Linh Đế (168 - 189) mất, trong nước (Trung Hoa) cóloạn, chỉ có
đất Giao Châu tạm yên, cho nên những sĩ phu sanglánh nạn. Nhiều đạo
sĩ đem truyền các "ngoại đạo" như: Thần đạo,Tiên đạo, Trường sanh đạo...".
Giữa cảnh tượng nhộn nhịp của thủ phủGiao Châu bấy giờ với những
gia đình từ phương Bắc di cư tới,những khách buôn, những đạo sĩ từ
Tây Trúc, từ các xứ phương Namđến giao thương, lưu trú, đem theo những
nếp sống, những niềm tintưởng phức tạp, khác biệt nhau. Chùa Pháp
Vân vẫn là trung tâmtín ngưỡng quan trọng hơn cả.Cũng nổi tiếng
trong giai đoạn đầu của thiên niên kỷ thứ nhất,trên đất Giao Châu
còn có nhiều nhà lý luận Phật Học như Mâu Bácvới Lý hoặc luận",
Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương Tiếp, Ma HaKỳ Vực... Nhìn chung,
bóng dáng của Thiền Tông, nhất là yếu tốMật Tông đã được các đại
sư phát chiếu trên đất Việt. Kháp nơiđược dân chúng sùng bái.Trong
Thiền Uyển Tập Anh - Truyện Thông Biện, nhà sư Đàm Thiênnói với
Tùy Văn Đế như sau: "Xứ Giao Châu có đường thông sangThiên Trúc (Ấn
Độ), khi Phật Giáo chưa phổ cập ở Giang Đông, mànơi ấy đã xây ở thành
Luy Lâu hơn 20 ngôi bảo sát (nơi thờ Phật),độ được hơn 500 nhà sư,
dịch được 15 bộ kinh rồi..."Trên đây là hình ảnh Phật Giáo vào Giao
Châu buổi đầu. Việt Namqua thời kỳ ban đầu thành lập, trải qua
nhiều biến động liêntiếp; kể từ đời nhà Đinh (968) nhiều vị thiền sư
đã thực thụ thamgia triều chánh, đưa ra nhiều dự án cải cách, về
quốc phòng,ngoại giao, luật pháp, hành chánh, xã hội, văn hoá.Sang đời
Lý, nước Đại Việt bước vào thời cực thịnh. Các tôn giáođược phát
triển mạnh. Khổng giáo cũng được nâng đỡ để tiến phát.Nhiều khoa thi
Tam giáo tổ chức để chọn nhân tài ở các tôn giáolớn. Những công trình
văn hóa cung đình cũng như văn hóa dân gian đều nởrộ. Ca nhạc, kiến
trúc, nhất là kiến trúc đô thị, chùa tháp, đìnhmiếu, điện đài đã phát
triển mạnh. Nhà Lý đã triệt để áp dụng lýthuyết đạo Phật vào mọi lĩnh
vực...Dưới đời nhà Lý chùa chiền, bảo tháp được kiến tạo nhiều
hơntrước. Tuy nhiên các chùa tháp được xây dựng trong thời kỳ
nầykhông đồ sộ, tốn kém lấm những các chùa tháp của Chiêm
Thành,Kampuchia, Trung Hoa... đã gây hao hụt tài nguyên quốc gia,
nhânlực của toàn dân. vào đời Lý, các vị thiền sư cũng như vua
quan,dân chúng không kỳ thị tôn giáo, chủng tộc, quý tiện, đều đối
xửrộng rãi, bình đẳng với mọi người trong mọi trường hợp. Tam
giáo(Nho, Thích, Lão) đượ nâng đỡ ngang nhau. Năm 1069, vua Lý
ThánhTông đích thân sang đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước đó là
ChếCủ vùng nhiều tù binh, trong số có nhà Hòa thượng Thảo Đường.
Saungày được suy tôn làm vị Tổ của một Thiền phái tại nước ta,
pháiThảo Đường. Các vua, quan, quần chúng tới xin làm đệ tử rất
đông.Các ngôi chùa trong giai đoạn nầy không chỉ dành để thờ Phật,
màcòn sử dụng như là một trung tâm sinh hoạt văn hóa, xã hội, giáodục,
đồng thời cũng là nơi để vua quan đến thăm viếng, nghỉ ngơi,luận bàn
giáo lý và các vấn đề trọng đại khác. Đạo Phật khôngngăn bước phát
triển cho quốc gia, dân tộc.
Tông pháiTrong quá trình phát triển Phật Giáo trên đất nước ta, đã
hìnhthành nhiều tông phái.a) Tông phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi: vào thế kỷ
thứ V và thứ VI, đạoPhật ở đất Việt trên đà phát triển khá mạnh.
Một người con Phậtđã từng làm vua nước vạn Xuân là Lý Phật Tử (Hậu
Lý Nam Đế). Vàcuối thế kỷ thứ VI, với sự xuất hiện của ngài Tỳ Ni
Đa Lưu Chi(Vinitarusi) với những đệ tử truyền thừa như là một khẳng
địnhnước đi của Phật Giáo Việt Nam. Tông phái nầy lan toả rộng
khắpmọi vùng đất nước, truyền thừa qua nhiều thế hệ. Vì đã ăn sâu
bámrễ trong quảng đại quần chúng, cho nên tông phái nầy đã có
nhiềuđóng góp trong công cuộc xây dựng đất nước trên nhiều
ngành,nhiều lãnh vực.Một số nhà sư của tông phái Tỳ Ni đã là những
nhà trí thức lớn,có vai trò góp phần quyết định trong cuộc kiến tạo xã
hội. Có thểthấy rõ với vai trò của thiền sư Vạn Hạnh (thế hệ thứ
12) vàngười em ông là Lý Khánh Văn trong việc đưa Lý Công Uẩn lên
ngôivua, lập ra triều Lý. Vạn Hạnh thiền sư và nhiều vị danh
tăngkhác đời Lý đã đi vào huyền thoại dân gian một cách sâu đậm.
Chẳng hạn như công năng, truyền đạo của nhà sư Từ Đạo Hạnh đã gợiý cho
nhiều nhà nghiên cứu Phật Giáo trong thời gian gần lại đâysuy nghĩ
đến về một dòng Phật Giáo du nhập vào đất Việt, theođường sông Hồng,
từ phía tây bắc của đờng bằng Bắc Phần Việt Nam.Qua những giải lý,
tông phái Tỳ Ni không hoàn toàn đặt trọng tâmvào ý nghĩa cứu cánh của
Phật pháp, mà tìm đường giải thoát, liễungộ Niết bàn bằng cả những
phương thức khá xa với giáo lý gốc nhàPhật, gần gủi với Mật Tông. Mặt
nào đó lại chịu ảnh hưởng của LạtMa Giáo và Phù Chú Giáo, đồng thời
hoà nhập với tinh thần tínngưỡng bản địa.Tông phái nầy khuyên hành
trì nhiều về thiền tọa và những mậtngữ, để thúc đẩy sự tinh tiến
trên đường tu hành. Phái nầy đã làmcơ sở cho việc thờ cúng các chùa
làng trong giai đoạn đó.Nhữngngôi chùa cổ thời nầy không thể tránh
khỏi sự hội nhập vào tín lýnhững vị thần linh địa phương.b) Tông phái
Vô Ngôn Thông: Vào thế kỷ thứ IX, một tông phái khácđã phát triển
mạnh trên đất Việt có tên là Vô Ngôn Thông. Tôngphái nầy đi sâu
vào nghĩa cứu cánh của Phật pháp, nhưng chủtrương đốn ngộ, cho
rằng: Con người có thể đạt đến sự giác ngộtrong khoảng thời gian
ngắn bằng cách tu trì đặc biệt. Như têngọi, Vô Ngôn Thông là thông
hiểu và tu trì theo lối "nói các lờikhông nói". Phái nầy chịu ảnh
hưởng của Tịnh Độ Tông, đã để lại cho đờinhiều suy nghĩ về lẽ
huyền vi của đạo. Do đó ít được phổ cậptrong dân chúng, vì lề lối
tu trì thiên về tâm tưởng, xuất thếgian. Lối tu phổ cập nhất của
tông phái nầy là "quán bích" (quaymặt vào tường, nhìn vào một điểm
tập trung tư tưởng) của Bồ ĐềĐạt Ma. Tập trung tư tưởng để tìm tới
"Diệu Tâm Chân Như", tùytheo trình độ giác ngộ của từng người, đó
là điểm then chốt củatông phái nầy.Hiện nay, vết tích của Vô Ngôn
Thông chỉ còn lưu lại cho chúng tadấu ấn tại chùa Kiến Sơ (Gia Lâm,
Hà Nội), vài đoạn trên sách sửvà niềm hoài niệm bàng bạc trong số
những nhà tu hành uyên bác.Có thể nhận định rằng: vào giai đoạn
đó, đã có một hệ thốngtruyền thừa Vô Ngôn Thông, nhưng ảnh hưởng
trong dân gian vẫnchưa sâu đậm mấy.c) Thiền phái Thảo ĐườngNăm 1069,
vua Lý Thánh Tông sang đánh Chiêm Thành thắng lợi, bắtđược nhiều tù
binh; trong số có nhà sư Thảo Đường từ Trung Hoasang truyền giáo.
Khâm phục về tinh thông uyên bác và đạo hạnhcủa ngài, vua Lý phong
làm quốc sư, trụ trì chùa Khai Quốc. Thiềnhọc của Thảo Đường chứa sắc
thái mới, nên đã trở thành một thiềnphái mang tên ngài. Một trong
những đặc điểm của thiền phái ThảoĐường là dung hợp Phật Giáo và Nho
Giáo; chính điều nầy đã ảnhhưởng nhiều đến Phật Giáo đời Trần về
sau nầy. Theo Thiền UyểnTập Anh thì phần lớn những môn đồ của phái
Thảo Đường thuộc hàngngũ trí thức, quan lại, vua chúa. Vì chủ trương
thiên trọng vềtrí thức và văn học, cho nên phái nầy không lan rộng
trong quảngđại quần chúng, cũng không tạo nên một truyền thống sinh
hoạt tăngviện. Thế hệ thứ hai của thiền phái nầy là thiền sư Bát Nhã.
Vịsư nầy chú trọng đến tà thuật, thần bí, không sống trong hệ
thốngtăng viện. Do đó không ảnh hưởng lâu dài sau nầy.d) Trúc Lâm Tam
TổNăm 1299, vua Trần Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử,
đượcnhận là truyền thừa thứ sáu của phái Yên Tử, sau đó trở thành
đệnhất tổ của phái Trúc Lâm. Một vị vua từng đánhbại quân Nguyên, đem
thái bình thịnh trị cho đất nước, trở thànhnhà tu hành, cho nên được
mọi người trọng vọng. Tông phái nầy nhờđó phát triển rất mạnh. Năm
1306, đệ tử chân truyền của Trúc Lâmlà thiền sư Pháp Loa (1284 -
1330) trở thành Trúc Lâm đệ nhị tổ; năm 1309,thiền sư Huyền Quang
(1254 - 1334) trở thành đệ tử của Pháp Loavà là Trúc Lâm đệ tam
tổ.Chủ trương của thiền phái Trúc Lâm là: phát triển Phật Giáo
tronglòng thế tục "hòa ánh sáng Phật Pháp vào cuộc đời vốn đã
nhuốmbụi bặm".Khác với thiền phái Thảo Đường, Trúc Lâm Tam Tổ sinh
hoạt theoquy chế thiền viện, tăng sinh theo giáo chế, tham dự những
buổi"đại tham" để tham vấn kiến thức về thiền.Thiền phái Trúc Lâm có
ảnh hưởng đến triều chánh, đồng thời cũngđược sự hỗ trợ của triều
đình để xây chùa, dựng tháp. Nhưng vềsau, Nho Giáo phát triển làm nền
tảng chính trị, khiến vị thế cáctăng sĩ trong triều không còn là mấy.
Do đó, thiền phái Trúc Lâmcũng suy thoái dần.Trên đây là những nét
chính về những tông phái Phật Giáo từ đờiLý Nam Đế về sau. Sự lớn
mạnh của đạo Phật đưa đến sự phát triểnchùa chiền. Theo thời gian,
sắc thái chùa tháp cũng biến đổi.Từ kiến trúc, đến điêu khắc, bài
trí đồ tượng, hướng xây, cảnhquan nội thất... đều được chỉnh đốn dần.
Kiến trúc chùa Nước ta là một nước vùng nhiệt đới, diện tích rừng
chiếm phầnlớn. Những công trình kiến trúc thời trước toàn bằng gỗ.
Với khíhậu nhiều mưa, lắm nắng, gió bão thường xuyên, khí hậu ẩm,
chonên những công trình bằng gỗ chẳng còn lưu lại là bao nhiêu.
Nềnkiến trúc Phật Giáo đời Lý đồ sộ như thế, nhưng đến nay thì
bịhủy hoại gần hết. Đó là chưa kể những cuộc chiến tranh hủy hoạido
phương Bắc gây hấn thường xuyên. Thậm chí những kiến trúc vềsau nầy,
chẳng hạn thời Lê Mạc nhưng chẳng lưu lại là bao.Kiến trúc Phật Giáo
nguyên thủy vốn là một loại bảo tháp, bêntrong thờ tượng Phật.
Cùng với sự phát triển của Phật Giáo ViệtNam, kiến trúc chùa ngoài
chức năng ban đầu là khu tưởng niệm,khấn vái, rồi về sau trở thành
nơi tiến hành lễ hội, diễn xướng. Nếuở chùa chiền ở Kampuchia, ở
Indonésia, chùa tháp trở thành mộtquần thể đền đài, cung điện, thì
chùa Việt Nam thường tách khỏimộ tháp trong việc thờ phụng. Với kết
cấu nầy, ngôi chùa chỉ cònlà nơi lễ bái của Phật Giáo đồ, nơi hành
đạo và truyền đạo củatăng chúng. Chùa cũng là nơi biểu hiện các
phạm trù Phật Giáo,bằng một hệ thống các pho tượng Phật với những quy
phạm tương đốichặt chẽ.Những di tích kiến trúc còn sót lại một vài
phần thì phải kể đến: vìkèo chùa Thái Lạc (Lạc Hồng, Văn Lâm, Hải
Hưng), chùa Dâu (ThanhKhương, Thuận Thành, Hà Bắc), chùa Bối Khê (Tam
Hưng, Thanh Oai,Hà Sơn Bình).Ngoài ra còn tìm thấy được một số lượng
điêu khắc hình gỗ tronghố chôn ở cánh đồng làng Bối (Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc,
Hà Nam Ninh), bộcánh cửa chùa Phổ Minh.Vì kèo: Những thành phần kiến
trúc Phật Giáo còn lưu lại chủ yếu là ởnhững bộ khung giá chiêng
tại chùa Thái Lạc làm tiêu biểu. Niênđại được xác định là cuối thế kỷ
XIV. Khác với những thời sau, bộ phận nầy có dáng thấp hơn. Ở giữa
không đểrỗng mà được lắp ghép một mảng gỗ có tạo hình quần lửa nhọn
đầu.Ngoài ra, ở chùa Thái Lạc còn có một số mảng cốn và cột trốn
đượclấp trên các xà nách. Một số ván nong to lớn có những nét
chạmkhắc đẹp được ghép ở giữa các xà dọc thượng và xà dọc hạ.
Nhữngchi tiết nầy có tác dụng che kín các lớp kiến trúc và trang
tríthêm phần thẩm mỹ. Phân tách cấu trúc vì kèo nầy cho thấy: Bộ vì
kèo giá chiêng củachùa dựa trên kết cấu của 4 hàng chân cột. Trên
đỉnh là mộtthượng lương (nóc). Xà nầy tỳ lực trên một đấu hình
thuyền. Đấunầy tỳ vào một rường ngắn mập. Hai đầu rường thì lại được
tỳ lựclên cột trốn qua hai đầu qua đấu vuông thót đáy. Phần không
giangiới hạn giữa hai cột trốn bao giờ cũng được lồng một tấm
vánhình lá đề, có chạm khắc trang trí tỉ mỉ. Phía ngoài cột trốn
làhai phần hình tam giác dưới dạng văn bưng dày, để có thể chịu
lựcđược để đỡ phần hoành mái.Toàn bộ hệ thống kể trên được tỳ trên
một câu đầu vững chắc. Câuđầu nầy được bào xoi vỏ măng ở hai bên,
phần lưng và bụng thìbằng phẳng. Câu đầu thì được tỳ lực vào trên hai
đầu cột cái, quahai đấu vương thót đáy lớn.Với những thành phần cấu
trúc trên, chùa Thái Lạc thường được xemlà mẫu kiến trúc chùa điển
hình thời Lý Trần.Tại chùa Bối Khê, hiện nay còn giữa lại được
nhiều đầu đao củatòa thượng điện. Những chi tiết kiến trúc nầy dùng
để chống đỡcác mái chùa, cốt là giữ cho toàn bộ khung chùa được
vững chắchơn. Ở chỗ các đầu đao nầy cũng được các nghệ nhân thời đó
chạmkhắc công phu. Những nét chạm những đầu rồng to lớn đang há
miệngngậm ngọc và phía ngoài là một hình chim, loại Garuda của
điêukhắc Chàm. Đầu đao là mảng điêu khắc quan trọng nhất của
nghệthuật xây chùa. Các vì kèo gỗ của chùa chiền đời Trần cũngđược
khắc chạm phong phú hơn hẳn các đời sau. Ở phần ván lưng, cóhình quần
lửa nhọn đầu; cả hai mặt thường được chạm đôi rồng uốnkhúc từ trên
xuống, uốn vào giữa rồi ngẩng đầu lên. Đề tài nầythông thường là mẫu
kiến trúc, điêu khắc rất quen thuộc hầu hết các chùa chiềnđời Lý
Trần. Cũng trên mảng ván bưng nầy, người ta thay rồng bằnghai tiên nữ
"đầu người mình chim" (chùa Thái Lạc) hay bằng haihình chim phượng
chầu mặt nguyệt (chùa Bối Khê). Ảnh hưởng Chàmkhá rõ nét.Còn ở các
trụ chống, có lẽ vì diện tích quá hẹp (rộng 30cm), chonên được chạm
mỗi mặt một tiên nữ đang uốn người, giơ tay đỡ lấybệ sen phía trên;
còn phía dưới là hình sóng nước nhấp nhô. Cónhiều chỗ vì chiều cao
hẹp, cho nên nghệ nhân đã chạm hình ngườithượng giới; chẳng hạn như
hình ông phỗng (chùa Thái Lạc) có nơichạm hình hoa mẫu đơn (chùa Bối
Khê), những bệ tam cấp của chùaDiên Hựu...Ở các ván nong chùa Thái
Lạc, có chạm khắc nhiều cảnh về đề tàicác tiên nữ. Có nơi thì hai
tiên nữ đang cưỡi lên chim phượng,một người thổi tiêu, người kia kéo
đàn nhị (chùa Dâu). Nơi khác thì có hìnhcác tiên nữ đang thổi sáo,
đánh đàn, dáng điệu linh hoạt. Cũng cócảnh tiên nữ đầu người, mình
chim, giơ hai tay lên dâng hoa. Sinhđộng hơn cả là hình chạm ba nhạc
công đang sử dụng những nhạc khídân tộc thuộc bộ gõ (trống) và bộ
giây (đàn nhị).Những công trình trên đây chẳng những là thể loại tác
phẩm nghệ thuật, mà lạicòn là vốn tài liệu quý, giúp chúng ta hiểu
được nền ca nhạc nghệthuật Lý Trần.Đem so sánh, các nét chạm trang
trí trên gỗ đời Trần tỏ ra tinhxảo nhưng không bay bướm như đời Lý,
trông thật hơn và mạnh mẽhơn. Kiểu thức nầy đã tạo được cảnh trí
dung dị, gần gủi khi vàochùa. Tuy những đề tài trình bày có tính
cách quyền quý, chínhthống, nhưng vẫn tìm ra được tính chất nghệ
thuật dân gian.Nhìn chung, những di tích kiến trúc Phật Giáo đời Trần
được phânbố rộng hơn đời Lý, phát triển thêm ở vùng trung du và vùng
đồinúi, lên cả vùng biên giới sát Trung Hoa.Thời Lê Sơ, những di tích
Phật Giáo lưu lại không còn lại là bao. Phầnbảo lưu lại được tìm thấy
tập trung tại kinh thành Thăng Long vàLam Sơn, quê hương vua Lê. Vài
vết tích khác là những bi ký tạivùng Hoà Bình, vùng đồng bằng Bắc
Phần, bắc Trung Phần. Tuynhiên, vẫn chưa được xác định niên đại của
những chứng tích nầy,so với triều đại trước đó.Nhưng qua đời Mạc đã
có dấu hiệu mới. Có tác giả gọi đó là thời"bùng nổ" của các di tích.
Những di tích Phật Giáo đời Mạc tậptrung vùng đồng bằng Bắc Phần, nhất
là vùng Kiến An, Hải Hưng,vùng Thăng Long, vùng duyên hải Bắc Phần
rồi chạy dài vào tận Thanh Nghệ. Mộttrong những nét chính yếu của mỹ
thuật chùa chiền ở giai đoạnnầy là thể loại "kiến trúc - mỹ thuật",
mà trong đó, mọi chi tiếtkiến trúc, điêu khắc đều được thể hiện các
đường nét mỹ thuậtcao.Đời Hậu Lê, chiến tranh triền miên, kinh đô
đắm chìm trong tangtóc, tranh chấp; tuy nhiên, tại vùng nông thôn,
nhờ tránh đượcnhững áp lực của chính quyền thiên về Nho giáo, nên
chùa chiềnđược phát triển mạnh. Chùa dựng lên tuy cơ cấu nhỏ,
nhưng lạiđược trang trải về bề rộng. Trong khuôn khổ sinh hoạt nầy,
đã cósự đan xen giữa thờ Phật và thờ Thần.Trong khi đó, Phật Giáo Đàng
Trong lại được phát triển dưới thờicác chúa Nguyễn kéo dài qua triều
vua Nguyễn (1802 - 1945). Huếtrở thành kinh đô, cho nên chùa chiền
được xây dựng nhiều ở vùngđất Phú Xuân trở vào đến vùng Đồng Nai,
theo dấu chân của nhữngđoàn người di cư. Sự phát triển Phật Giáo miền
Trung và miền Namvừa truyền thừa những tông phái từ trước, mặt khác
phải thíchnghi với hoàn cảnh, tính bản địa, hoà hợp tín ngưỡng dân
gian đểphổ biến, trường tồn.
Thế đất, hướng chùaNếu ngôi đình thường được kiến tạo ở địa điểm
trung ương của làngđể tiện việc lễ bái, hội họp, thì ngôi chùa lại
thường được dựnglên trong cảnh thâm u, tĩnh mịch. Ở triền núi, trong
hang động,trong rừng sâu, ẩn khuất sâu trong những lùm cây um tùm...
đều là cảnh trí của chùa thường thấy nhất. ChùaHương ở huyện Mỹ Đức,
tỉnh Hà Tây, chùa Yên Tử ở Quảng Ninh, chùaTam Thanh ở Lạng Sơn,
chùa Tam Thai, Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn,những ngôi chùa phía bắc
kinh thành Huế... đều ở những vùng núicao, rừng thẳm, hang sâu.
Càng khó khăn trong việc hành hươngchùa chiền chừng nào, tín hữu
thập phương càng cảm thấy lòngthành tâm của mình càng được linh ứng
hơn.Đa số chùa chiền thường mở về hướng Nam, từ Đông Nam đến
TâyNam... Giải thích điều nầy, nhiều nhà nghiên cứu thường dựa vào
câu "Thánh nhân Nam diện nhithính thiên hạ". Nhưng điều nầy chỉ thích
hợp với cung điện nhàvua thời trước. Có người giải thích: Hướng Nam
là phương của BátNhã, là Trí Huệ, tức là cứu cánh của Phật Đạo.Tuy
nhiên, nhiều ngôi chùa lại được xây về hướng Tây tức là TâyPhương,
hướng của sự "ổn định", hợp với sự vận hành của lý âmdương. Linh
địa là một trong những điều chính yếu để dựng chùa, xâytháp.Trong
khi chọn hướng, yếu tố "nước" (dòng nước, hướng nước, mạchnước)
cũng rất quan trọng. Trung Hoa nêu lên 5 yếu tố để xây chùagọi là "Ngũ
bất khả" (5 điều không thể làm), trong việc chọn đấtxây chùa. Phong
thủy trở thành điều kiện không thể thiếu khi chọnhướng, lập nền, chọn
cảnh.Truyền thuyết có nói đến chuyện Cao Biền khi sang nước ta
thườngchọn những đại địa, quý huyệt để trừ yễm. Cao Biền đem những
câytháp nung đến Bát Vạn Sơn để dựng thành cây tháp lớn, với dụng ýđó.
Ngoài ra Cao Biền lại còn lập chùa Linh Diên bên thành ĐạiLa, chùa
Kim Ngưu tại Tiên Du, để lại nghi chủng (ngôi mộ giả) ởĐông Côi (Thuận
Thành), dựng tháp trên núi Đông Cứu là nơi caoBiền đóng quân. Để làm
gì? Sách "Nam Giải Lý" cho biết: "Cao Biềndùng các phương thức nầy để
trấn giữ địa huyệt, ghi dấu tích củamình cho được trường tồn".Âm phần,
dương cơ, cả 2 mặt đều phải được chọn hướng theo thuật phong thủy.sách
"An Tượng" của chùa Thiền Pháp, thôn An Trạch (Hà Nội) có nêu
lênviệc chọn địa điểm xây chùa như sau:"Lập chùa ở xứ nào thì nên
chọn đất lành, ngày lành, giờ lành.Đất lành là bên trái nên để trống
rỗng, hoặc có sông ngòi, ao hồôm bọc; bên phải, tay hổ (hổ sơn) nên
cao dày, lớp lớp quay đầulại; hay có hoa sen, tràng phan, bảo cái (gò
đất); hoặc có rồng,phượng, rùa rắn chầu bái. Ấy là đất dương cơ,
tay hổ vậy. Cũnglại nên cưỡi đảo lại, như người cưỡi ngựa đi thì đầu
phải đi vềphía trước, giòng nước chảy đảo sang bên trái. Trước mặt,
hoặc cóminh đường, hay không minh đường, đều được cả. Đằng sau không
nêncó núi, vì áp bức. Đó là đất lành. Muốn coi ngày tốt, giờ
tốt,thì nên dùng các sách "Ngọc Hạp", "Tu Cát"...Một trong những yếu
tố tạo nên khung cảnh trang nghiêm của mộtngôi chùa là quang cảnh
bên trong. Không gian của chùa vốn dĩthường đóng kín, ánh sáng chiếu
vào rất hạn chế. Khi ánh sáng toảvào chùa theo con đường khúc xạ và
phản quang, cho nên cường độcũng rất yếu, khác hẳn không gian nội
thất của đình làng. Đã thế,việc trang trí điện thờ ở chùa lại khá
phức tạp, nhiều tầng lớp,đủ thể loại, đã gia tăng thêm cảnh u tịch,
huyền bí, oai nghiêm.Bên trong, với không gian chùa như thế, những
khối tròn, nhẳnbóng thường đọng ánh sáng và nổi lên rất rõ nét. Do
đó, khi tạo hình,những pho tượng thường có bề mặt rất nhẵn, những
khối rất căngtròn. Những dãy tượng trong chùa thường xếp thành hàng
như Di ĐàTam Tôn, Quần tượng Tam Thế, những tượng Quan Thế Âm Chuẩn
đề,Tống tử, Niệm hương, Tượng Ngọc Hoàng, Đế Thích, Thập Bát
LaHán... cân xứng, đăng đối. Tất cả những tượng nầy thường bằng gỗ,sơn
son thếp vàng lộng lẫy. Cho nên khi ánh sáng dọi vào, nhữngkhối vàng
sơn đặt cạnh bên nhau nổi lên rất rõ nét. Cả không gianchung quanh
tràn ngập toàn màu vàng. Chỗ sáng, chỗ tối, chỗ đậm,chỗ nhạt, hư hư,
thực thực, mờ mờ ảo ảo, biểu hiện nét sắc sắc,không không của đạo
Phật. Màu vàng theo quan niệm triết lý ĐôngPhương là Hành Thổ, là
trung tâm điểm, là màu sắc của những gìquý giá, sang trọng, oai
nghiêm. Tất cả cảnh vật, màu sắc, ánhsáng đã tạo nên không khí linh
thiêng của cảnh chùa. Đã thế, trong những buổi lễ bái, đèn nến, khói
hương là ánh sángnhân tạo được đặt xen kẽ các bức tượng, khiến
cho không giantrong chùa bừng lên thứ ánh sáng màu vàng của lễ
nghi.Phân tách kiến trúc và điêu khắc trong chùa, thường nói đến
tínhhướng nội và tính hướng ngoại. Một bên là kiến trúc, một bên
làđiêu khắc. Hai mặt đối lập nhau. Nếu không gian bên trong
kiếntrúc nội thất của chùa có tính hướng nội, do cách bài trí
tượngthờ, thì điêu khắc lại có tính hướng ngoại, do khả năng
chiếmkhông gian ba chiều trên bề mặt của mọi vật bài biện. Mối quan
hệgiữa kiến trúc và điêu khắc được giao hoà giữa tính hướng nội
vàhướng ngoại đó. Nói tóm lại, trong chùa Việt Nam, điêu khắc trong
chùa tương xứngvới kiến trúc, do ảnh hưởng của không gian, ánh sáng,
trang tríđồ tượng. Tất cả ảnh hưởng đến tâm lý cảm thụ tầm mắt của
conngười.Trang trí: Trong những biến chuyển của nền mỹ thuật Việt Nam,
năng khiếu vềtrang trí trong nhiều thể loại khác nhau đã có những biến
chuyểnlớn lao. Những tiếp thu mới cũng như khả năng trau dồicủa nghệ
nhân, mỗi đồ vật thường dùng trong nhà cũng đều được giacông thêm về
mặt mỹ thuật. Trong những chùa tháp, miếu đình, phần cột, kéo, xànhà,
xuyên, trến, hổ phù, phù điêu, cột chống... cho đến nhữngbậc thăng cấp,
nóc nhà, gạch ngói đều có thêm những nét chạm trỗ,trang trí cả. Vật
dụng lớn nhỏ trong nhà như bàn ghế, tủ,những vật tế nhuyễn như khay,
hộp, lọ, bình... không vật nào làngười Việt không gia công trong việc
trang trí tỉ mỉ, để gửi gấmmột chút tâm hồn nghệ thuật của mình vào
trong đó, được xem nhưmột phần đời sống của mình vậy.Ảnh hưởng: Khi
ảnh hưởng của tôn giáo vào nước ta thì những hình thức trangtrí cũng
được áp dụng, chọn lọc khá tinh tế. Chẳng hạn như ảnhhưởng của Ấn Độ,
Trung Hoa, Chiêm Thành. Nghệ thuật Ấn Độ khôngchỉ là đồ án dùng hình
dáng những loài cầm thú, mà thể loại đượcbao trùm nhiều hình ảnh khác.
Vì quan niệm vạn vật nhất thể, màtrong nghệ thuật Ấn Độ đã đưa vào
những hình vật như voi, ngựa,rồng, hươu, khỉ, rắn... mà người phương
Tây ít khi nghĩ đến. Khinhững ảnh hưởng sang nước ta thì những thể
loại cách điệu như thếvẫn còn nguyên. Trung Hoa cũng vậy. Khi nền văn
minh Phật Giáo truyền sang Trungquốc, thì những nghệ sĩ của nước nầy
bổ sung vào kho tàng văn hoáẤn Độ cả một thế giới thần thoại khác. Họ
dùng những vật có thựcnhưng đã được thi vị hoá lên, để phù hợp với ý
nghĩa của tôn giáovà triết lý. Từ những con vật thần thoại, mà những
nghệ sĩ TrungHoa thời cổ cũng đã cụ thể hóa một cách chi tiết đến
những thảomộc bốn mùa, mang tính triết lý.Khi tiếp thu những nguồn ảnh
hưởng như đã nói, thì những nghệ sĩViệt Nam thời trước cũng đã biết
cách kết hợp đặc biệt với đồ ándân tộc và cơ sở cho nền nghệ thuật
trang trí Việt Nam.Trong nghệ thuật trang trí cũng như nghệ thuật nói
chung, nghệ sĩViệt Nam trước đây đã chịu ảnh hưởng của Phật Giáo và
triết lýcủa Khổng, Lão. Những vật có thật hay trong tưởng tượng
trongnhững đồ án trang trí hay trong đề tài của những tác phẩm mỹthuật
nói chung thường mang ý nghĩa về tôn giáo hay về triết lý,tư
tưởng.Nghệ thuật tạo hình: Trong thời đại Lý, Trần, Phật Giáo rất
thịnh hành tại nước ta, những thể loại tạo hình có liênquan đến Phật
Giáo như lá bồ đề, hoa sen, vũ nữ uốn mình theođiệu "Tribanga" của Ấn
trở nên rất phổ biến trong nghệ thuật trangtrí của những chùa chiền,
đền tháp; tuy nhiên những nghệ nhânthời Lý, Trần đã biết cách Việt Nam
hoá một số, để trở thànhnhững hình ảnh độc đáo không tìm thấy ở những
nơi khác.Chẩng hạn như hình lá bồ đề, thì thường có con rồng bé nhỏ
nằm gọn trongchiếc lá, một thứ hoa văn "gần giống như chữ ký" đời Lý,
hoasen được thể hiện trong nhiều hình thái và thường cũng có hìnhcủa
những con rồng nhỏ trong những cánh hoa nầy. Những loại đề tài thông
thường là thú vật và con người; thú vật nổitiếng là rồng, phượng, kỳ
lân, hổ, báo, chim, cá; hình người nhất làtượng Phật, Thánh, Tiên,
Quan Âm, Kim Cương được dùng trang trí đềnđài, chùa chiền. Những
tranh họa nhiều trường pháikhác nhau ở Trung Hoa cũng bắt đầu du nhập
sang Việt Nam qua nhiều ngõkhác nhau và hiển nhiên đã trở thành tư
liệu giúp ý cho ngành hội hoạ;tuy vậy, bản sắc Việt Nam vẫn được những
nghệ nhân bảo tồn vững chắc.Những đồ án thông thường nhất là Tứ Linh,
Long hàm thọ, Lưỡnglong tranh châu, Lưỡng long triều nguyệt, Ngư long
hí thủy, Sư tửhí cầu... Đồ án phổ biến nhất trong nghệ thuật trang trí
Việt Nam thờitrước là Tứ Linh, tức là long, lân, quy phụng. (Lân
thường đượcthay cho ly, tức là long mã). Trong tứ linh thì có đến quy
là con vậtcó thật, còn ba con kia đều do trí tưởng tượng của người xưa
tạonên, phần nào đã dựa vào một số hình ảnh của những con vật cóthật
rồi châm chước, điểm xuyết thêm lên. Được nói nhiều nhất là rồng.
Những nghệ sĩ Việt Nam trong nhữngtriều đại trước kia đã thể hiện hình
con rồng như một con rắn to,có bốn chân bé nhỏ, đầu như đầu của con
tắc kè, có sừng và córâu. Hình rồng thường rất phổ biến trong mọi hình
thái nghệthuật, nhưng lại hàm ý thiêng liêng, quý trọng. trong mọi
ngànhnghệ thuật, các nghệ nhân đã ghi lại một ấn tượng sâu sắc trong
tâmtrí mọi người từ đời nầy sang đời kia. Rồng là chủ đề quan trọng
trong những thể loại kiến trúc. Đó cũng là nétđặc trưng trong những
công trình kiến trúc, hội họa và điêu khắc, trangtrí chùa chiền, đình
làng hay lăng mộ, cung điện.Tuy nhiên, hình thức tạo dáng rồng mỗi
triều mỗi khác. Khởi đầu từ trongtư duy thần thoại Việt Nam cũng như
Trung Hoa, con rồng luôn luôn là biểutượng tốt đẹp của sự cao cả, oai
nghi. Do ảnh hưởng của triết lý âm dương,cho nên ở những mái đình chùa,
lăng miếu có đắp hình tượng những dạng thứcước lệ về lưỡng long tranh
châu và cũng thường trình bày trong tư thế đangcố vươn lên cao. Hình
chim phượng hoàng cũng thường thấy ở những đền đài, cungđiện thời đại
Lý, Trần. Điểm khác là chim phượng hoàng ở đây có đuôidài hơn và những
chùm lông ở vòng quanh cổ cũng dài hơn. Màu sắc lôngchim thường kết
hợp lại với nhau rất hài hoà, uyển chuyển. Chim phượngcũng thường
trang trí trong những khuôn hình vuông, hình chữ nhật, hìnhtròn, lá bồ
đề hay trong hình giọt lệ. Hoa văn đặc sắc nhất trong thời Lý, Trần,
Lêlà những "hoa văn hình ngọn lửa" thường được thực hiện trên
nhữngcông trình chạm nổi hay bất cứ hình thức nào, trong giai đoạnnầy.
đây là điểm chính yếu nổi bật của giai đoạn nầy.Những hình thức hoa
văn trong đời Hậu Lê khá phong phú, đadạng, tuy nhiên đã không độc
đáo như trong giai đoạn nói trên. Ngoài ra, có những ràng buộc, cấm
kỵ.Như trong Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có viết: "Năm
1734,Trịnh Giang đã cấm những thường dân trong nước không được
trangtrí hoa mỹ trong nhà cửa, đồ dùng; người thợ cũng không được
đuanhau chế tạo "những đồ mới lạ" trong quần chúng". Hạn chế nầy
đãlàm tê liệt nghệ thuật trang trí cung điện, chùa tháp một thời. Hình
những vũ nữ múa những khúc thường lại biến thành những vũ nữdâng hoa,
chẳng hạn như hình ở những bậc đá của tháp đời nhà Lý ởChương Sơn (Hà
Nam) hay những thiếu nữ sùng bái Phật như hìnhkhắc ở những chân cột
của chùa Phật Tích còn thấy như ngày nay.Cũng về phương diện nầy,
chúng ta thấy được những hoa văn hìnhnhững đám mây đang xoắn chung
quanh những nhân vật thần thoại,chẳng hạn như những bức chạm nổi tại
chùa Thái Lạc (Hải Dương)hay những cánh cửa của chùa Phổ Minh (Hà
Nam), những hoa văn hìnhsóng nước như ở nền tháp Phổ Minh, hoa văn
hình hoa cúc theo từngdây dài, như mặt đá chạm nổi tìm thấy ở tháp
Chương Sơn. Đây lànhững ví dụ điển hình của những công trình sáng tạo
nổi bật trongnền mỹ thuật trang trí thời đại Lý Trần. Bệ tượng chùa
Phật Tích là điển hình chonghệ thuật thời nầy. Bệ tượng đắp theo hình
bát giác. Phần dưới trangtrí hình sóng nước với 6 đợt sóng đều đặn
được sắp chồng lại với nhau.Phần trên có 3 tầng, trang trí rất tỉ mỉ.
Trong mỗi tầng đều có hìnhhoa sen 32 cánh mở rộng ra và sắp đều. Mặt
thẳng của tượng có những môhình nhạc công, vũ công đang múa hát, đánh
đàn, thổi kèn... Hình mây vớinhững đường gợn sóng song song với nhau.
Đa số là hình sóng nước và hìnhnhững đám mây đang bay. Những vòng tròn
hay hình đa giác cũng được điểmxuyết đều đặn hay tạo thành những khung
bao quanh bình đồ chính.Sau cùng là tranh vẽ, đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc trang hoàng các chùachiền, lăng miếu hay trong những
phẩm vật thờ cúng, nhà cửa hay tại nhữngđiện đài. Qua những thời đại,
nghệ thuật hội hoạ sau nầy đã pháttriển khá mạnh hơn những triều đại
trước.Tuy nhiên, cho đến nay thì vấn đề bảo quản những công trình
hội họađã không dễ dàng như điêu khắc, kiến trúc khác. Phần thì khí
hậu ẩm thấp,phần thì chiến tranh liên miên. Tuy nhiên hội họa cũng
được ghi lên nhữnghình điêu khắc, mô hình kiến trúc, nghệ thuật đồ gốm.
Những hình hoa sen,múa hát, sóng nước, hình kỷ hà đều rất thông dụng
trong những kiểu trìnhbày nầy. Đó là vết tích còn lại.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/tientrien_chuavietnam.htm