I. THÂN THẾ:
Hoà thượng
thế danh là Nguyễn công húy Thí, sinh nam Kỷ Mùi (1919) tại làng Phú
Kinh, xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị
Thân phụ là
cụ đồ Nho Nguyễn Văn Cơ. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Dung. Hoà thượng
có tất caû 4 người anh chị em; trong đó ba trai và một gái. Hoà thượng
là người con trai thứ hai trong một gia đình trí thức Nho giáo thâm
tín Phật.
Nam 1934, Hòa
thượng vừa tròn 15 tuổi đã theo song thân và ba ngu?i con trong gia
đình vào Huế lập nghiệp, trú tại thôn Nham Biều, xã Hương Hồ, huyện
Hương Trà. Thành phố Huế, chiếc nôi của Phật giáo miền Trung.
Được sự hướng
dẫn của song thân, gia đình của Hoà thượng đều một lòng quy kinh Tam
Bảo, thường qua lại, thăm viếng, thân cận các chốn Tổ như Linh Mụ Quốc
Tự, Tổ đình Phước Duyên, Kim Sơn , … nhờ đó cả gia đình đều trở thành
các Phật tử thuần thành, hết lòng kính tin Tam Bảo. Riêng Hoà thượng
khi được nghe tán tụng tại các đàn tràng liền được khai tâm, ngầm ước
vọng rằng trong tương lai mình sẽ chọn phương tiện này
để trở thành một bậc sứ giả Như Lai với tâm nguyện truyền thừa
chánh pháp của đức Phật.
Năm 1950,
Ngài quyết định rời Huế vào Đà Lạt, tìm tới vùng đất mới có nhiều hứa
hẹn trở thành cái nôi Phật giáo cho vùng cao Tây nguyên – Lâm đồng
trong tương lai.
Trời đất tinh
khôi - đời đổi mới !
Núi sông hùng
vĩ - cảnh khoe tươi .
Tình người
hoan hỷ vui Xuân thắm,
Ðức Phật từ
bi nở nụ cười.
Ðiềm ứng năm
nay nhiều hứa hẹn,
Mây lành che
rợp … khắp muôn nơi.
(HT. Đức
Nhuận)
II. THỜI KỲ
XUẤT GIA TU HỌC:
Nhờ căn lành
xuất thế đã gieo trồng trong nhiều kiếp, lại có khuynh hướng ưa chuộng
đời sống đạm bạc của nhà Thiền, tham cầu học đạo, Hoà thượng đã không
chọn con đường bằng phẳng, an thân. Ngài đi theo dấu chân của các bậc
du hóa độ sanh, ẩn hiện trong bùn nhơ cánh sen mầu nhiệm.
Cũng từ đây,
Ngài theo các Ban Kinh Sư để tham gia vào Ban Nhạc Lễ hộ trì các đàn
tràng được tổ chức thường niên cùng khắp các đạo tràng, nhờ đó được
tham học được nhiều nơi.
Năm 1955, khi
vừa tròn 36 tuổi, được sự cho phép của song thaân, Ngaøi đã được thế
phát xuất gia với Hoà thượng Bích Nguyên, nguyên Trú trì chùa Tỉnh Hội
Linh Sơn, Đà Lạt. Sư Tổ là Ngài Hải Đức. Hoà thượng đã được Bổn sư đặt
pháp danh là Không Tâm, tự Thật Trí.
Từ thập niên
1950, chốn Tổ này cũng chính là Trường ñaøo taïo caùc lôùp Phật Học
của Tỉnh nhà. Dưới sự hướng dẫn của thầy Bổn sư, Hoà thượng đã được
thọ cụ túc giới vào năm 1958.
Căn lành tăng
trưởng, giới hạnh tinh chuyên, Hoà thượng đã được Bổn sư huấn dụ, nâng
đỡ, Ngài chuyên tâm lập hạnh tinh cần, chăm chỉ, ra sức vun trồng công
đức, công phu, công quả, không nề hà công việc nặng nhọc, sớm khuya,
mưa nắng, Ngài đã được Đại chúng tin cẩn, đề cử làm Tri Sự chùa Tỉnh
hội Linh Sơn trong thời gian này.
Cũng tại nơi
này, Hoà thượng đã lãnh hội được yếu chỉ của Phật pháp, phát tâm dũng
mãnh tu hành, trở thành một trong những Tăng sĩ trụ cột của chùa, quy
tụ ngày càng đông lớp cư sĩ tại gia để hộ trì, đỡ đần nhiều Phật sự
cho Hòa thượng Bổn Sư. Thành tích này luôn được chúng Tăng và Phật tử
nhắc nhở khi Ngài tạm rời Linh Sơn sang Tổ Đình Linh Quang để nhận
lãnh trọng trách Phật sự mới.
Hữu độ tức
phi tịnh
Ngôn thuyên
hà sơ vi?
Phật thuyết
nguyên vô ngã
Thiền sư vấn
thị thùy?
Có độ là
không tịnh
Lời nói dùng
làm gì?
Phật đã dạy
vô ngã
Thiền sư là
ai kia?
(Bảo Liên)
Cũng nhờ vậy,
Ngài đã có thắng duyên hạnh ngộ với Sư ông Nhất Hạnh tại ngôi Tổ Đình
Linh Quang này (Khu Phố 4, đường Hai bà trưng, Đà Lạt cũ)
Sau đó, Ngài
có được cơ duyên đến thăm viếng Phương Bối Am, nơi mà Sư Ông Nhất Hạnh
lần đầu tiên thể nghiệm đường lối tu tập hiện đại của Thiền tập chánh
niệm.
Hai năm sau,
1965, Ngài chính thức được Thượng tọa Thanh Văn, đệ nhất Giám đốc
Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (do Sư Ông Nhất Hạnh sáng lập vào
năm 1964 tại thôn Tân Phú, xã Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình cũ, nay là
khu vực chùa Pháp Vân và Trường Trung học Trần Phú) thỉnh về chung lo
Phật sự tại chùa Pháp Vân.
IV. TRỤ NHƯ
LAI XỨ, TRÌ NHƯ LAI SỰ:
Mùa Hạ năm
1967, Ngài chính thức làm Trú trì chùa Pháp Vân. Lễ Bổ nhiệm Trú trì
được tổ chức trọng thể dưới sự chứng minh của chư Tôn Hòa thượng Viện
Tăng Thống: HT. Thích Đôn Hậu, và Viện Hóa Đạo: HT. Thích Huyền Quang.
Từ đây cho
đến 1975, giai đọan chiến tranh khốc liệt diễn ra trên toàn miền Nam,
Ngài đã “kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật” cùng với Thượng tọa Giám
đốc Thích Thanh Văn, ra sức xây dựng nơi này làm chỗ lánh nạn bom đạn
cho đồng bào tản cư. Tết Mậu Thân – 1968, nơi này đã chứa trên 10.000
người lánh nạn.
Tôi sẽ đi một mình
Đầu tôi cúi xuống
Tình yêu thương
Bỗng trở nên bất diệt
Đường xa
Và gập ghềnh muôn dặm
Nhưng hai vầng nhật nguyệt
Sẽ vẫn còn
Để soi bước cho tôi
(Sư Ông
Nhất Hạnh)
Ngài đã nghe
theo “Lời Dặn Dò”ø của Sư Ông Nhất Hạnh, cùng với Tổ chức Trường Thanh
Niên Phụng Sự Xã Hội, Ngài đã tham gia tích cực các công tác từ thiện
xã hội như: Giúp tái thiết các khu vực dân cư bị chiến tranh tàn phá,
tham gia cứu tế xã hội, tải thương và cứu thương đồng bào đang bị lâm
nạn, và các công tác khác nữa: giáo dục, y tế, hướng nghiệp cho các
đồng bào nghèo tại các vùng sâu, vùng xa … không bao giờ tỏ ra mệt
mỏi và ngừng nghĩ trước những đau thương mất mác của người dân bị
chiến tranh tàn phá, hủy hoại.
Từ đó cho đến
năm 1987, do hoàn cảnh lịch sử thay đổi, Tăng chúng, tác viên của chùa
Pháp Vân và Trường TNPSXH phải ly tán hầu hết. Ngài một mình đơn độc
trụ lại, quyết tâm gìn giữ, duy trì: chùa Pháp Vân phải trở thành ngôi
Tam bảo uy nghiêm cho thế hệ tiếp nối nương tựa.
Liễu tức
nghiệp chướng bản lai không
Vị liễu
ưng tu hoàn túc trái
Tỏ rồi
nghiệp chướng hóa thành không
Chưa tỏ nợ
xưa đành trả mãi
(Chứng Đạo
Ca – Thiền sư Vĩnh Gia)
Giai đọan này,
mặc dù Ngài đả hết sức gia trì tâm lực để giữ gìn, duy trì ngôi Tam
bảo Pháp Vân, Ngài vẫn chưa mãn nguyện, vì phần đất thuộc Trường
TNPSXH vẫn chưa thuộc sở hữu Tam bảo (nay là Trường Phổ thông Trung
học Trần Phú).
Đến đây, Ngài
biết mình tuổi già, thân bệnh, nhiều lần Ngài đã đích thân cung thỉnh
chư Thượng tọa, chư Ni sư … về chùa Pháp Vân chung lo Phật sự nhưng
vẫn chưa hội đủ duyên lành.
Cuối cùng,
Ngài quyết định cùng với đại diện Ban Hộ Tự đến đảnh lễ cung thỉnh Hòa
thượng Viện chủ chùa Vạn Phước, quận 11. Hòa thượng Viện chủ chùa Vạn
Phước sau khi cân nhắc, xem xét kỷ lưỡng lời cầu thỉnh, Hòa thượng đã
hoan hỷ nhận lời và công cử Thượng tọa Thích Phước Trí, Trưởng Pháp tử
của Hòa Thượng chính thức về đảm đương Phật sự tại chùa Pháp Vân từ
năm 1987.
Đây là thắng
duyên, cuộc hạnh ngộ tâm đắc, ngọn đèn chánh pháp được trao vào tay
Thượng tọa Thích Phước Trí. Kể từ đó, chùa pháp Vân trở thành ngôi Tam
bảo trang nghiêm, uy nghi, thật sự làm trú xứ cho chư Tăng an cư tu
tập, thật sự là ngôi phạm vũ huy hoàng cho thập phương thiện nam, tín
nữ quy ngưỡng, nương tựa.
Thập
phương đồng tụ hội
Cá cá học
vô vi
Thử thị
tuyển Phật trường
Tâm không
cập đệ quy
Mười
phương đồng tụ hội
Mỗi mỗi
học vô vi
Đây là
trường thi Phật
Tâm không
thi đậu về
(Cư sĩ
Bàng Long Uẩn)
VI.
THUẬN THẾ VÔ THƯỜNG:
Ngọn đèn khi
đã được trao truyền hợp lẽ, đúng truyền nhân, Ngài an tâm lui về dưỡng
bệnh, cắt đứt hoàn toàn với các duyên ràng buộc vọng ngọai, tịch tĩnh
trong cõi tuyệt mù vô tướng, vô tác, vô nguyện. Từ đó, Ngài rời bỏ cõi
phiền trược, nhiêu khê của danh và sắc như quăng bỏ đôi dép cũ, mặc dù
hình sắc, thân bệnh còn đó, nhiều năm trôi qua, Ngài an trú trong tịch
tĩnh của riêng Ngài, cõi vô dư thâm huyền mà ít ai tỏ tường được.
Trúc ảnh
tảo giai trần bất động
Nguyệt
luân xuyên hải thủy vô ngân
Hay là:
Di Đà đích
thực Pháp thân ta
Nam, Bắc,
Đông, Tây khắp chói lòa
(Tuệ Trung
Thượng Sĩ)
Ngài đã thu
thần thị tịch vào lúc 13 giờ 30’, ngày 13 tháng Giêng năm Đinh Hợi
(01.03.2007), tại chùa Pháp Vân, quận Tân Phú, trụ thế 89 tuổi, hạ lạp
50 năm.
Duyên hoá độ
caàu chi laâu mau nữa,
Ngài giờ đây
đã cỡi hạc quy Tây.
Trong vô
thường, vẫn điềm nhiên tự tại,
Sống chết
dường gió thoảng, mây bay.
Nguyện Giác
linh sớm hồi nhập Ta-bà
Cùng pháp lữ
xiễn dương chánh pháp.
NAM MÔ TỰ LÂM TẾ PHÁP PHÁI
TỨ THẬP TỨ THẾ PHÁP VÂN TỰ VIỆN CHỦ Húy thượng KHÔNG hạ TÂM Hiệu THẬT
TRÍ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG GIÁC LINH
TÁC ĐẠI CHỨNG MINH
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/tieusu_ht_ThatTri.htm