Là những người tương đối mới
đến Hàn Quốc và những sinh viên Phật tử Việt Nam, chúng tôi đã tình cờ
đi đến sự so sánh giữa Phật Giáo Hàn Quốc và Việt Nam. Thật không may
mắn thay, chúng tôi đã khám phá ra Phật Giáo ở Hàn Quốc đã đến hồi
suy sụp bởi sự phân chia nội bộ, một mặt chịu sự tấn công từ những
người cực đoan theo Cơ đốc giáo, và mặt khác ở trong thế nguy bị làm
lu mờ dẫn bởi những nhà hoạt động Cơ đốc giáo, cùng với những
ngôi chùa dường như vắng vẻ, những tăng ni thì miễn cưỡng nói chuyện
với người phương Tây, cùng với sự có mặt tương đối những ngôi
chùa Phật giáo ở khu vực thành thị. Những điều kiện này đã dẫn
chúng tôi đi đến kết luận rằng Phật giáo ở Hàn Quốc đến thời suy
sụp nghiêm trọng. Trong nhiều phương diện, Phật giáo Hàn Quốc dường
như bị chôn vùi và ra khỏi tầm nhìn của những nhà quan sát. Ngược lại,
Phật giáo Việt Nam xuất hiện sinh động và đầy sức sống với nhiều
chùa ở các thành phố lớn, với giới tăng sĩ năng động, tận tụy, và
những sự ủng hộ phổ biến. Hơn nữa, trong thời gian viếng thăm thành
phố HCM gần đây, chúng tôi đã chú ý đến những dự án xây dựng lớn
một số địa điểm Phật giáo. Thật thích thú chúng tôi đã tìm gặp những
vị sư vừa cởi mở vừa sẵn sàng nói chuyện với chúng tôi về Phật
giáo và vai trò của nó ở Việt Nam ngay cả việc Phật giáo đã chịu sự
đàn áp lớn lao bởi chính quyền Đảng Cộng Sản.
Một trong những ngạc nhiên đầu tiên của chúng tôi là tỷ
lệ lớn những người theo Cơ đốc giáo ở Hàn Quốc so với Viêt Nam. Con
số phần trăm cao những người theo Cơ đốc giáo chủ yếu là do bởi bản
chất khác nhau của việc trải qua chế độ thuộc địa ở mỗi khu vực.
Xét rằng ở Việt Nam Cơ đốc giáo hoạt động như là một tổ chức của
Chủ nghĩa thực dân Pháp được tận dụng bởi kẻ độc tài Ngô Đình Diệm
để thiết lập quyền lãnh đạo đối v?i những Phật tử Việt Nam, Hàn
Quốc bị thuộc địa không phải bởi thế lực phương Tây mà là Nhật.
Do vậy, những nhà truyền đạo Cơ đốc giáo đã phục vụ như là một lực
lượng giải phóng trong việc giúp đỡ những người theo Chủ nghĩa quốc
gia chống sự tàn bạo cực kỳ của chủ nghĩa đế quốc Nhật. Thật ra,
những nhà truyền đạo Cơ đốc giáo thường ủng hộ cuộc vận động cách
mạng trong khi cũng thiết lập trường học và bệnh viện để rồi sau đó
trở thành những hạt giống của những hội từ thiện hiện đại ngày
nay. Do vậy, Cơ đốc giáo cố xoay xở để trở tránh danh hiệu gán cho là
người theo Chủ nghỉa đế quốc được phản ánh rằng 24.1% người Hàn
Quốc theo Cơ đốc giáo. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn quyết định là nhóm
tôn giáo lớn nhất ở Hàn Quốc với 24,4% tín đồ. 50.1% người Hàn Quốc
tự cho là không theo một tôn giáo nào cả điều này có lẽ là sự thể
hiện của những người chủ trương phi tôn giáo đang phát triển ở xã hội
Hàn Quốc và những thay đổi khó có thể tin nỗi đã xảy ra trong 25 năm
qua và nay đã trở thành một xã hội công nghiệp hiện đại.
Đáng ngại hơn, một học giả nghiên cứu Phật giáo đã kể
chi tiết nhiều cuộc tấn công bởi những nhà hoạt động Cơ đốc giáo
vào chùa chiền Phật giáo trong những năm gần đây. Hơn thế nữa, Cơ đốc
giáo dường như là tôn giáo của tầng lớp bóp chu trong xã hội, và hai kỳ
Tổng thống gần đây nhất cũng là người theo Cơ đốc giáo. Số lượng
Cơ đốc giáo vượt trội cũng được phản ảnh trong việc nỗ lực để
cải thiện nỗi đau của con người chính là một phần quan trọng của hệ
tư tưởng phật giáo. Ở Việt Nam, một tổ chức Phật giáo thực hiện
công việc từ thiện và chính phủ thường tập trung quỹ thông qua chùa Phật
giáo chính thức để giảm bớt nỗi khổ của người dân. Mặt khác ở
Hàn Quốc, công việc từ thiện được thực hiện chủ yếu bởi Cơ đốc
giáo mặc dầu mỗi một chùa đều có những nỗ lực đóng góp riêng.
Ở Việt Nam, 80% đến 90% ủng hộ đạo Phật trong một hình
thức nào đó người xem Phật giáo là một phần thiết yếu của mình.
Thêm vào đó, lòng can đảm và sự tận tụy của những tăng ni phật tử
đã tạo ra những điều kiện nơi mà nhiều người Việt Nam xem những nhà
sư Phật giáo như là những người dẫn dắt đạo đức của quốc gia. Do
vậy, Phật giáo có thể duy trì sức mạnh của nó ở Việt Nam mặc dù
lúc nào cũng gặp khó khăn và trở ngại.
Việc thờ cùng tổ tiên là một phương diện quan trọng
ở xã hội Hàn Quốc nhưng cũng bị giảm bớt bởi ưu thế của những
người theo Cơ đốc giáo. Nhiều người Hàn Quốc tin vào việc thờ cúng tổ
tiên nhưng không có bàn thờ ở gia đình bởi sự ảnh hưởng của Cơ đốc
giáo. Ngược lại ở Việt Nam, mỗi nhà đều có một bàn thờ ở trung
tâm với những bức ảnh của tổ tiên những người được sự đề cao về
sự khôn ngoan của mình và sự phẫn nộ mà cò thể ập xuống bất kỳ
gia đình nào quên đi sự kính trọng đích thực đối với tổ tiên. Hơn
thế nữa, bởi việc thờ cúng tổ tiên con người đã nối liền với quá
khứ và chú tâm đến tầm quan trọng của truyền thống gia đình. Đồng
thời, nền văn hóa nào mà tôn trọng tổ tiên nó thì tự nhiên đặt gia
đình làm trung tâm của xã hội và chứng tỏ sự tôn kính sâu sắc đối
với người lớn kể từ khi họ nói về sự khôn ngoan của kinh nghiệm và
lịch sử. Nhiều người Hàn Quốc chê bai đến sự suy sụp giá trị gia đình
và sự thiếu tôn trọng đối với người lớn đã xảy ra trong những năm
gần đây. Thường họ đổ lỗi cho những biến chuyển bất ngờ cùng sự
phát triển kinh tế ở Hàn Quốc nhưng nó đang xảy ra vì sự suy tàn trong
việc thờ cúng tổ tiên.
Như Việt Nam, Hàn Quốc là một xã hội cổ xưa trở lại
khoảng 4000 năm trước. Ảnh hưởng tôn giáo đầu tiên là đạo Shaman, một
hình thức của chủ nghĩa vật linh tương tự như tôn giáo của dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Phật giáo đến Hàn Quốc năm 372 chủ yếu từ
Trung Quốc và lúc đó được thiết lập ở vương quốc Koguryo. Năm 384,
được truyền vào Paekche và sau đó đến Shilla vào thế kỷ thứ 5. Phật
giáo lập tức phát triển mạnh ở Shilla, trở thành tôn giáo của chế độ
quân chủ và giới quý tộc. Trước thế kỷ 7, Phật giáo đã đáp ứng như
là một tôn giáo nổi bật ở Hàn Quốc và là một sức mạnh cho phép triều
đình thống nhất đất nước. Phật giáo đã có ảnh hưởng đáng phê
bình vào nền văn hóa Hàn Quốc cả về lĩnh vực phát triển triết học
và ngôn ngữ. Trong những năm đầu, Phật giáo ở Hàn Quốc, nhiều nhà sư
đã đi qua lại giữa Hàn Quốc và Trung Quốc do vậy dễ dàng trao đổi
văn hóa và giới thiệu nền văn hóa Trung Quốc vào Hàn Quốc. Người Hàn
Quốc sau đó thiết lập Phật giáo ở Nhật Bản.
Như ở Việt Nam, những Phật tử Hàn Quốc hướng đến việc
đánh giá ngang bằng tài sản của quốc gia với sung mãn của Phật giáo,
và do vậy các nhà sư đã lao động một cách cần mẫn để làm lợi cho
quốc gia và phục vụ như những người bảo vệ quốc gia. Ở một vài địa
phương nhiều ngôi chùa thậm chí đã tạo ra quân đội các nhà sư đảm
nhiệm việc bảo vệ quốc gia. Cuối cùng Phật giáo đã trở thành tôn
giáo chính của quốc gia mặc dầu nó vẫn còn sự pha trộn những tín ngưỡng
đạo Phật, đạo Cao đài , và đạo Shaman. Của cải và quyền lực, gồm
cả việc miễn thuế, đã dẫn dắt các Hoàng đế sau này đàn áp tôn
giáo những người muốn làm tăng ảnh hưởng quyền lực đang phát triển
của mình vào đất nước được tiếp tay bởi những người theo đạo Khổng
hiện đại.
Trong hình thức tương tự, giới tu sĩ Phật giáo đã đánh
giá ngang bằng sự sống còn của đạo Phật với vận mệnh quốc gia. Những
tăng ni Phật tử đã dẫn dắt nhiều cuộc chiến đấu truyền thống chống
ngoại xâm. Nhiều ngôi chùa phục vụ như việc cung cấp kho hàng hóa và
là trung tâm của sự kháng cự trong suốt cuộc đấu tranh dài chống Pháp,
và những vị tu sĩ Việt Nam đã đảm nhiệm một vai trò lịch sử năng động
trong công việc chính trị, đặc biệt trong chiến dịch dài đánh đuổi
Trung Quốc. Thật vây, đỉnh cao của lịch sử Việt Nam là kỷ nguyên đồng
thời xảy ra cùng với giai đoạn lớn nhất của sự ảnh hưởng đạo Phật.
Phật giáo đến Việt Nam trong phần đầu của kỷ nguyên Cơ
đốc giáo qua con đường Trung Quốc và Ấn Độ. Phật giáo Việt Nam bị
ảnh hưởng nặng bởi Trung Quốc, hấp thụ những yếu tố đạo Cao đài,
đạo Khổng và việc thờ cúng tổ tiên cùng với việc thờ cúng các vị
thần địa phương. Điều nhấn mạnh ở đây là miền Bắc và miền Trung
đều bắt nguồn chủ yếu từ Phật giáo đại thừa phổ biến ở
Srilanka, Thái Lan, Lào, Burma, và Campuchia, và hiện nay đã đi vào miền Nam
Việt Nam trước khi bắt đầu của kỷ nguyên Cơ đốc giáo.
Không như sự thể hiện đa dạng của Phật giáo Việt Nam,
Phật Giáo Hàn Quốc luôn tập trung vào phái đại thừa và nhiều thế kỷ
này đã tách ra thành 2 phái chính: Chogye và Taego cùng với một phái nhỏ,
Chontae. Phái Chogye gần đây đã gặp rắc rối bởi sự phân chia nội bộ
khắc nghiệt điều này đã chảy tràn vào tầm nhìn quần chúng và xa hơn
nửa đã làm giảm đi giá trị hình tượng đạo Phật ở đất nước này.
Taego được thiết lập bởi người Nhật và cho phép các nhà sư lấy vợ.
Tuy nhiên, ở Việt Nam 7 nhóm Phật giáo chính tồn tại: Viện Hóa Đạo
(VHD); Phật giáo Trung Quốc; Phật giáo Việt Nam; Phật giáo Khờme; Phật
giáo Hinayana; Hòa Hảo; và không tôn giáo.
Điều cuối cùng, ở Hàn Quốc hiếm có những ngôi chùa ở thành thị và
xa hơn nữa có cảm giác thừa nhận sự suy tàn nghiêm trọng. Hầu hết
các ngôi chùa đều ở miền quê vì Phật giáo đã bị đuổi ra khỏi thành
phố trong thời kỳ sự đàn áp của đạo Khổng hiện đại ở triều đại
nhà Lý. Tuy nhiên, trên núi có rất nhiều chùa kể từ khi các nhà sư sớm
sử dụng tín ngưỡng đạo Shaman và tín ngưỡng vật linh trong các vị thần
núi để kết hợp tôn giáo địa phương và áp dụng chúng vào đền thờ
các thần Phật giáo như những vị Bồ đề đạt ma. Nhiều ngôi chùa ở
thôn quê trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời với những rặng tre,
bụi hồng, và những đám hoa dại. Thật vậy, ở thôn quê Phật giáo Hàn
Quốc cho phép các ngôi chùa đạt đến sự hài hòa đáng yêu và sự cân bằng
với thiên nhiên xung quanh. Phần lớn các Phật tử thăm chùa vào những
ngày lễ lớn âm lịch trong lúc những ngôi chùa được các ni coi giữ suốt
mùa hè vì các tăng ni lên núi để tu học.
Trong khi ở Việt Nam Phật giáo ngày càng thịnh vượng và phát triển,
thì ở Hàn Quốc Phật giáo dường như yếu thế đi vì sự ảnh hưởng của
Cơ đốc và chủ nghĩa thế tục đang phát triển cùng với sự phát triển
rực rỡ nền kinh tế Hàn Quốc từ những năm 1960. Trong lúc chúng ta gặp
một vài cá nhân tăng ni Phật tử họ sẵn sàng miêu tả đến sự ảnh
hưởng của đạo Phật vào đời sống của họ, hầu như tránh xa việc
giao tiếp với người ngoài. Mặc dầu sự tồn tại lịch sử tương tự lớn
giữa Phật giáo Hàn Quốc và Việt Nam, người Hàn Quốc đã không nhìn nhận
Phật giáo như là nhu cầu tinh thần của họ mặc dầu Phật giáo nắm giữ
mấu chốt đối với việc gây phiền hà cho xã hội nay đã sa vào hố sâu
của cuộc khủng hoảng kinh tế. Đối với nhiều người Hàn Quốc Phật
giáo đại diện cho những giá trị truyền thống và thôn dã, trong khi đối
với nhiều người Việt Nam Phật giáo đại diện cho sự tự do và tinh thần
của họ.