- VỀ LỄ NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- THÍCH LỆ TRANG
I. DẪN NHẬP
Lễ nhạc là điều rất quan trọng trong đời sống con người.
Vì lẽ, đời thiếu lễ, thì đời sẽ hỗn loạn; đời thiếu nhạc, thì
đời sẽ khô khan. Bởi vậy các tôn giáo có lễ nhạc cũng không ngoài mục
đích này. Vì thế, các tôn giáo cần phải phát huy và duy trì lễ nhạc để
gìn giữ nếp sống cao đẹp cho đời. Đạo Phật, ngoài kho tàng triết lý
sâu sắc ra, còn có âm nhạc, nghi lễ để ca ngợi công đức của chư Phật,
Bồ-tát và đồng thời là một cách để diễn bày chân lý vô thường, vô
ngã và giá trị giải thoát, dùng âm nhạc để thức tỉnh lòng người.
Theo truyền thuyết, khi Đức Phật còn tại thế, sau mỗi lần
thuyết pháp, có chư thiên rải hoa, trỗi nhạc cúng dường để tỏ lòng
quy kính và tán dương chân lý mầu nhiệm. Lúc sắp tịch diệt, Đức Phật
phó chúc cho các vị quốc vương hộ trì chánh pháp. Vì thế, những pháp hội
sau khi Phật nhập diệt, được vua chúa đem âm nhạc ở cung đình diễn tấu
để cúng dường pháp hội.
Phật giáo truyền sang Trung Hoa vào thời Đông Hán năm thứ
10, niên hiệu Vĩnh Bình, vào khoảng năm thứ 67 Tây lịch. Lúc bấy giờ
ở Trung Hoa đã có đạo Khổng và đạo Lão, vì muốn hoằng pháp phổ cập
đến mọi tầng lớp nhân dân, nên các Tổ sư đã dùng mọi phương tiện
như văn từ, âm nhạc, giọng điệu của hai đạo trên, rồi châm chước
những giọng điệu sẵn có của mình, rút lấy những kệ tụng trong Tam tạng
và giáo lý mà phổ vào. Còn âm nhạc thì dùng âm nhạc cổ điển ở
phương Đông, giọng điệu thì theo những điệu thứ của chư Thiên mà
táng tụng(1) với mục đích là làm phương tiện cho việ truyền bá chánh
pháp đến mọi người.
Về bộ môn này thì từ xưa tới nay sự giáo dục chưa
được thống nhất, những giọng điệu tuỳ theo sở kiến của vị thầy
tự vẽ cho đệ tử của mình; rồi tuỳ theo địa phương, tuỳ theo ngôn
ngữ, tuỳ theo tình huống mà giọng điệu được chuyển biến.
Âm nhạc Phật giáo Việt Nam, một phần nào đó cũng chụi
ảnh hưởngbởi nhạc Phật giáo Trung Hoa(2), nhưng các vị Tổ sư Việt Nam
sớm đã biệt hội nhập cái hay cái đẹp của người rồi tiêu hoá thành
nét đặc trưng của âm nhạc Phật giáo Việt Nam. Hơn nữa từ thời đại
Lý-Trần, đất nước chúng ta mở mang bờ cõi về phương Nam, lại được
tiếp nhận thêm âm nhạc Champa và Chân Lạp, đã giúp cho âm nhạc Việt
Nam có đến ba nét đặc trưng của ba niềm Bắc, Trung, Nam, với những đặc
trưng của mỗi vũng đất. Từ đây ta có thể khẳng định rằng, tôn
giáo không thể không có bộ môn lễ nhạc, vì đó là sức sống của tâm
linh được thể hiện ra giọng điệu, cung cách bên ngoài.
II. MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG NGHI LỄ
PHẬT GIÁO
Khi ta nói đến nghi lễ là nói đến nhiều khía cạnh
của các hình thức tổ chức trong sinh hoạt tôn giáo, chứ không chỉ có
riêng việc tán tụng mà thôi. Nay xin nêu ra vài khái niệm trong nghi lễ Phật
giáo như lễ nhạc, lễ tụng, lễ khí, lễ nghi, lễ bái, lễ phục, lễ
đường v.v…
1. Lễ Nhạc
Khổng Tử nói "Nhạc giả thiên địa chi hoà dã"
Nhạc là sự hoà hợp của trời đất âm dương vậy. Âm thanh êm ái, du dương
và cử chỉ thanh cao tốt đẹp là hai phương tiện giúp vào việc giáo hoá
con người trở về với đạo đức. A⭠nhạc Phật giáo Đông phương thuộc
về thanh nhạc (chú trọng ở âm thanh lời tán, còn nhạc khí chỉ là phần
phụ hoạ) (3).
Nét đặc thù của âm nhạc Phật giáo là không đưa ra điệu
nhạc nào để bắt buộc, mà tuỳ theo trường hợp địa phương, ngôn ngữ
mà tùy duyên, có nghĩa là kệ văn thì không khác mà điệu tiết thì chuyển
biến. Vì thế, các nhà nghiên cức âm nhạc Phật giáo Đông phương cho rằng
âm nhạc trong Phật giáo Đông phương có nhiều chất thơ. Cũng cần nói
thêm là, thể nhạc và văn chương trong nhà Phật là thể nhạc phổ thơ,
nhưng tài tình nhất là mọ6t thể thơ mà phổ rất nhiều nhạc. Vì trong một
thể thơ khi thì diễn tả về đạo lý, khi thì nói về sự khổ lụy của
chúng sanh, khi thì tả về sự ân cần ăn năn sám hối, khi thì tả về sự
nhiếp thọ độ sanh của chư Phật. Chỉ trong 4 câu kệ tứ tuyệt mà thể
nhạc phổ ra có thể dài hơn (1 thành 10) là tiếng ngân nga trầm bỗng, nếu
ghi nhạc ta sẽ thấy nhiều nốt (note) nối nhau bằng dấu liên âm mà lời
nhạc chỉ có vài chữ. Sở dĩ có những thể nhạc kỳ lạ như vậy là
vì đặc trưng âm nhạc Á Đông là thiên về tâm linh, tình cảm, nên phải
dùng thể nhạc này mới diễn tả hết được. Vả lại, muốn diễn tả sự
huyền bí cao siêu bằng tinh thần, thì phải dùng nét nhạc dài va ít lời.
Về âm điệu thể nhạc nhà Phật có chừng ba bốn chục điệu, còn thể
thơ ít hơn, đại để như:
Loại ngũ ngôn: Thập phương tam thế Phật v.v…
Loại tứ ngôn: Nhứt tâm quy mạng v.v…
Loại thất ngôn: Trí huệ hoằng thâm đại biện tài v.v…
Loại tứ tuyệt: Ngã kim phụng hiến cam lồ vị v.v…
Loại cổ phong: Dương chi, tán lễ v.v… Sơ hướng mộng huỳnh
lương v.v…
Thất ngôn trường thi: A Di Đà Phật thân kim sắc v.v… Quy
mạng thập phương Điều ngự sư v.v…
2. Lễ Tụng
Tụng là đọc giọng to có trầm phù, nhịp nhàng theo một
tiết tấu. Giọng điệu đọc kinh trong lúc hành lễ có chia ra làm hai giọng
căn bản:
a. Giọng lạc (vui) còn gọi là giọng thiền.
b. Giọng ai (buồn)
-Giọng lạc được đọc tụng trong thời công phu sáng hay
những lúc tuyên pháp ngữ, cầu an v.v…
-Giọng ai được đọc trong thời công phu chiều, khóa lễ
Tịnh độ chiều tối, hay lúc cầu siêu độ linh v.v…
3. Lễ Khí
Lễ khí là những đồ tự khí trong lúc cúng tế. Lễ khí
còn gọi là nhạc khí như chuông gia trì, mõ gia trì (mộc ngư), kích tử
(khánh), linh, đẩu (tang, tiêu cảnh), hồng chung, đại cổ, tiểu cổ (kinh
cổ (kinh cổ), thủ lư, phủ xích (chấn xích), kiền chùy, báo chung, mộc bảng,
bê, tích trượng, nhu ý, ống tiêu, ống sáo, đàn bầu, đàn nhị (cò), đàn
nguyệt (kìm), đàn sến, đàn gáo, đàn tranh, phách, cặp trống âm dương,
trống cái, thanh la, não bạt, kèn tiểu, kèn trung v.v… Những nhạc khí
này được dùng trong lúc tán tụng, tùy theo pháp họi lớn nhỏ.
4. Lễ Nghi
Lễ nghi là cách thức bày tỏ, sắp đặt bên ngoài để nói
lên lòng kính trọng bên trong. Lễ nghi trong Phật giáo còn có nghĩa là nói
về tác phong, uy nghi của vị Tăng khi hành lễ trước trước đại chúng,
phải có đủ thân giáo(4) để cảm hoá chúng.
5. Lễ Bái
Lễ bái là cách lạy bên trong lúc làm lễ. Về cách lạy
trong nhà Phật là ảnh hưởng cách lạy của người Ấn Độ. Nguyên khi Phật
còn tại thế, các đệ tử mỗi khi gặp Ngài, để tỏ lòng tôn kính, đều
quỳ xuống đặt đảnh đầu mình lên bàn chân Phật. Cho nên khi lạy phải
"ngũ thể đầu địa" (đầu, 2 khuỷu tay, đầu gối 2 chân) sát dất,
hai tay trải ra như thể đang nâng chân Đức Phật. Lễ bái phải lạy 3 lạy
tiêu biểu cho Tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Nhất là khóa lễ cùng đại chúng,
mọi người phải lạy nhịp nhàng, chứ không được tùy tiện theo ý
riêng.
6. Lễ Phục
Lễ phục là y phục dành riêng trong lúc hành lễ (hội hè,
cúng tế). Về pháp phục của Tăng sĩ thì có 3 y là: 5 điều, 7 điều, 9
điều v.v…Đức Phật đã dạy rõ trong trườnghợp nào được mặc 3 y
như trong luật đã dạy. Riêng Phật giáo Bắc tông thì ngoái 3 y ra còn có
những y phục khác nữa như áo vạt khách, áo nhựt bình(5), áo tràng đi
đường, áo tràng hành lễ v.v… Ngoài pháp phục lại còn có những mạo
phục khác nữa như: mũ Quan Âm, mũ tỳ lô, mũ hiệp chưởng(6).
7. Lễ Đường
Lễ đường là chỉ những nơi cúng tế, hành lễ. Trong Phật
giáo, lễ đường còn chỉ nơi thờ chư Phật, Bồ tát. Chánh điện phải
thờ tự như thế nào cho trang nghiêm hợp lễ từ cách bay tượng thờ, đồ
tự khí, màu sắc, ánh sáng… phải được bố cục đúng chủ đề, mang nét
thiền vị, tránh những màu sắc diêm dúa gây nên sự mất tập trung nơi
người chiêm bái.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NGHI LỄ TRONG
HAI THỜI KHOÁ TỤNG
Nếu có dịp tham quan những ngôi chùa cổ, ta sẽ thấy trước
nhà thiêu huơng, phần nhiều có treo câu đối: "Mộ cổ thần chung, cảnh
tỉnh ái hà danh lợi khách. Triêu kinh vãng kệ hoán hồi khổ hải mộng
mê nhân". (Trống sớn chuông chiều, thức tỉnh khách trần danh lợi chốn
sông yêu. Kinh mai kệ xế, kêu về kẻ tục mộng mê nơi biển khổ). Phải
chăng câu đối này đã nói lên công năng của những hồi chuông điệu trống
trong các thời kinh để cảnh tỉnh khách trần mải mê trong con đường
tranh đua danh lợi sớm quay về chánh đạo đường chơn. Vì thế, nếu mang
nặng tâm hồn trần tục, ta sẽ không cảm nhận được những lời kinh
ấy. Lời kinh tiếng kệ được diễn tấu thành những nét nhạc du dương,
huy26n mặc như khói trầm, an tĩnh như định lực, cao vút như núi tuyết
và uyển chuyển như tràng phan. Không chỉ giá trị ở văn thơ, triết lý,
nét nhạc diễn tả ý thơ, mà đạo lực của người tu mới chính là phần
quan trọng đáng kể hơn cả. Nội tâm thì chánh niệm mới tỉnh giác, ngoại
cảnh thì u nhã thanh tịnh, nên nghi lễ âm nhạc của hai thời khóa tụng
mang tính chất siêu phàm thoát tục, không vướng lụy trần ai. Nếu chúng
ta đem tâm thanh tịnh để lắng nghe thì sẽ cảm nhận được những chân
lý vô thường của kiếp người…
Trong nhạc lễ Phật giáo, nếu nghiên cứu ta sẽ thấy được
một nếp sống tâm linh cao đẹp. Với màu sắc thiền vị, âm điệu du
dương, thanh nhàn, nghĩa lý uyên thâm có công năng cảnh tỉnh người đời
về với đời sống thánh thiện, đạo đức, nhìn vào thực tại để thấy
được bộ mặt thật của mình, để không còn bị đảo điên trước huyễn
cảnh
IV. VIỆT HOÁ NGHI LỄ THÍCH ỨNG VỚI
THỜI ĐẠI
Lễ nhạc Phật giáo ngày xưa đã phát triển đến trình độ
khá cao, điều đó có thể thấy được q ua sự khảo cứu về lễ nhạc cổ
điển. Người thực hiện lễ nhạc cần phải có một đời sống tâm linh
vững chãi, thảnh thơi, bằng ánh sáng chánh niệm quán chiếu, lúc đó
thân, khẩu, ý tương ứng trong chơn lý của pháp ngữ, kệ tụng; sự
chuyên nhất này sẽ tạo thành một đạo lực thanh tịnh lan tỏa ra không
gian pháp giới, có công năng chuyển hoá nghiệp lực của chúng sanh. Nhưng
lễ nhạc bây giờ của Phật giáo, theo người viết, về hình thức lẫn nội
dung có lẽ thua kém xa ngày trước và phần nào không còn biểu lộ được
nếp sống tâm linh siêu việt như lễ nhạc cổ điển. Lời văn trong nghi lễ
đa phần là Hán văn, nhưng Hán ngữ ngày nay không được chú trọng va
không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của lời bài tán, câu kệ…
Chính vì thế mà chủ trương của giáo hội đề ra là cần phải Việt
hoá nghi lễ để khế hợp căn cơ người nghe và dễ cho ngừoi thực hành
nghi lễ. Muốn thực hiện được ước vọng này, thiết tưởng Giáo hội
cần phải đào tạo một số tu sĩ vững chãi về kiến thức và khả năng
trong ngành nghi lễ, để có thể đưa lễ nhạc của đạo Phật tiến đến
những hình thức phù hợp với tâm lý và ngưỡng vọng của con người thời
đại.
Lễ nhạc cần phải được thiết lập một cách trang
nghiêm, căn cứ trên truyền thống; những thang âm, điệu thức của thiền
gia phải được duy trì và sáng tạo, còn nhạc cụ có thể phương tiện dùng
bằng chất liệu bây giờ và kỷ thuật mới. Phải có sự phối hợp trao
đổi giữa ba niềm, tạo điều kiện gặp gỡ giữa các nhà có nhiều kiến
thức và kinh nghiệm về âm nhạc và đạo học. Giáo hội cần phải thành
lập mọ6t trường chuyên đề về âm nhạc Phật giáo, để huấn luyện, gạn
lọc những bài hát không phù hợp, cần phải cân nhắc kỹ có nên chăng cử
xướng trong điện Phật, vì những nét nhạc ấy không hội đủ tinh thần
từ bi và trí tuệ? Phải thống nhất nghi lễ Phật giáo 3 niềm để mọi
người thấy rằng đây là âm nhạc truyền thống của thiền gia, giống như
quốc ca của một đất nước. Nó chính là một thành tố của văn hoá Phật
giáo Việt Nam, cũng chính là âm nhạc truyền thống của Phật giáo và dân
tộc Việt Nam, và chỉ có đất nước Việt Nam mới có được những nét
nhạc, âm điệu đặc trưng như thế. Phải cấp thiết thành lập một ban
nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật; phải thu lượm những bài thơ, bài văn
đã phổ nhạc để tìm hiểu, phân tích truyền bá, bảo tồn và phát huy.
Phật tử Việt Nam sẽ tìm nguồn cảm hứng ở đây để sáng tác và phải
cố gắng tu tập cho tâm hồn an tĩnh, thanh thoát để sáng tác.
V. KẾT LUẬN
Qua sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng: Âm nhạc Phật
giáo làphản ảnh của đời sống an lạc, giản dị; của tâm hồn giải
thoát, thanh khiết. Nọ6i tâm thì bình tĩnh, ngoại cảnh thì trang nghiêm, nền
âm nhạc Phật giáo đã thấm nhuần tinh thần thoát tục, không hệ lụy ư
phiền. "Đã đến lúc Tăng Ni Phật giáo Việt Nam chúng ta phải bảo tồn
những di sản cao quý của cha ông, đừng hời hợt coi thường giống như bác
nhà quê đem một cái trống đời Khang Hy đựng lúa cho vịt ăn. Trong khi đó,
trên thế giới các nhà bảo tồn nghiên cứu trân trọng tìm những cổ vật
quý báu đó để đưa vào viện bảo tàng."(7)
Cuối cùng, để kết thúc bài viết này, xin dẫn câu nói của
Tổ sư trong Luật Sa di sớ chép rằng: "Giá biên na biên, ứng dụng bất
khuyết". Bên sự bên lý tất cả đều la phương tiện để đưa người
vào đạo, người học Phật phải tùy duyên ứng dụng, đừng có nhìn cục
bộ, tự tôn, cố chấp để làm mất đi những giá trị cao quý của tiền
nhân đã dày công xây dựng.
CHÚ THÍCH
(1) Tào Thực tự Tử Kiến, hiệu Đông An Vương, con thứ của
Ngụy Vương Tào Tháo, trước theo đạo tiên, thường tu luyện trên đỉnh
Viên sơn. Trong lúc sắp đắc đạo ông nghe được tiếng ca hát của tiên
nữ tán thán đạo hạnh tu hành của ông. Vì nét nhạc du dương, đượm
thiền vị, thanh thoát siêu trần nên làm ông say mê thâm nhập. Sau này được
tham vấn với các bậc cao tăng của Phật giáo và được nghiên cứu giáo
lý của Đức Phật, ông nhận thấy đạo Phật mới đích thực là chân
lý giải thoát khổ đau, nên ông phát at6m quy hướng học Phật. Được các
Tổ sư khuyến hóa, ông liền phổ những điệu thức của chư Thiên mà
chính ông được nghe, rồi thêm vào những giọng điệu sẳn có ở đời mà
chế ra giọng điệu tán tụng cho Phật giáo. Nhờ đó mà âm nhạc Phật
giáo Đông phương rất du dương thanh thoát, nó có nhiều nét đặc thù, nhạc
điệu ở thế gian không thể sánh kịp (Pháp Uyển Châu Lâm).
(2) Theo tài liệu hiện có:
Pháp sự đạo tràng công văn cách thức-xuất bản năm
1299. đến năm 1302 có Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa sang Việt Nam truyền bá
khoa Chẩn tế Du già diệm khẩu (Phật giáo sử luận -Nguyễn Lang).
(3) Tiếng Phạn là Bái: chúc tụng; Bái tán: đọc anh, tán
tụng.
(4) Thân giáo: là dùng hành động, thân tướng để giáo
hóa chúng sanh.
(5) A
鯠