KHƠI DẬY NGỌN LỬA THIÊNG
Tu Viện Bích Nham
Ngày 21-10-2009
Hôm qua tại thiền đường Đại Đồng của tu viện Bích Nham đã có lễ xuất gia
cho hai người trẻ tuổi, một người đã tốt nghiệp Nha Khoa và một người đã
tốt nghiệp Kinh Doanh. Đó là hai sư cô Chân Lân Nghiêm và Chân Mạnh
Nghiêm. Hai người này đã có cơ hội được thầy chỉ dạy về giới luật và uy
nghi trong suốt một tuần lễ trước ngày xuất gia. Các vị này đã được chấp
nhận thường trú ở xóm Hạc Trắng của tu viện Bích Nham.
Thầy nhớ khi xuống tóc cho các sư em thầy đã nhất tâm hộ niệm để các em
giữ mãi được tâm ban đầu trong suốt một đời tu. Giữ được tâm ban đầu thì
thế nào tu tập cũng thành công. Có những người tu thành công, và có
những người tu không thành công. Nếu người tu không biết cách thực tập
thì có thể bị hư hỏng trong khi tiếp nhận sự cung kính và cúng dường từ
người tại gia. Cho nên mỗi khi có một đợt người trẻ xuất gia, điều đầu
tiên thầy căn dặn họ là phải rất cẩn thận trước sự cung kính và cúng
dường của người cư sĩ.
Khi mặc vào chiếc áo tu, mình trở thành biểu tượng của Tam bảo là Bụt,
Pháp và Tăng. Mình đại diện cho Tăng Bảo. Trong Tăng Bảo có Pháp Bảo và
Phật Bảo. Vì vậy thấy hình dáng của một vị xuất gia, người cư sĩ có
khuynh hướng muốn tỏ bày niềm cung kính. Và cách thức tỏ bày niềm quy
kính ấy là lễ lạy và cúng dường.
Một người mới xuất gia phải thực tập như thế nào khi có người tới lễ
lạy? Ta có khuynh hướng muốn nói: xin đừng lạy tôi, tại vì tôi mới xuất
gia, chưa có đức độ gì để quý vị lễ lạy. Nhưng nếu ta từ khước như thế
thì vị cư sĩ kia mất đi một cơ hội để tỏ bày niềm quy kính Tam Bảo của
người ấy. Cho nên ta phải ngồi thật yên, theo dõi hơi thở và quán chiếu:
người cư sĩ kia đang tỏ bày niềm quy kính đối với Tam Bảo chứ không phải
đang tôn sùng cái ngã của mình. Mình phải ngồi thật yên cho người ấy
lạy. Họ lạy Tam Bảo chứ không phải lạy mình. Và như thế mình sẽ được an
toàn, và đức khiêm cung của mình sẽ được bảo vệ. Nếu không thì mình sẽ
hư hỏng. Hư hỏng vì mình tưởng mình là đối tượng của sự cung kính. Cũng
như lá cờ quốc gia. Lá cờ ấy chỉ là một mảnh vải. Người ta chào cờ là
người ta chào một quốc gia chứ không phải chào một mảnh vải. Nếu mảnh
vải nghĩ nó là đối tượng của sự kính trọng kia thì mảnh vải đã lầm.
Bản thân thầy vốn không thích để ai lễ lạy. Nhưng mà thầy phải tập ngồi
để người ta lễ lạy. Lễ lạy là một phép thực tập quan trọng của người tại
gia. Mình phải ngồi với chánh niệm để đại diện cho Tam Bảo. Nếu thực tập
được như thế thì người lễ lạy nuôi dưỡng được niềm tôn kính Tam Bảo, còn
mình cũng nuôi dưỡng được đức khiêm cung. Nếu không thực tập thì mình
trở thành nạn nhân của sự cung kính và đời tu của mình sẽ thất bại.
Sư Ông của các con, tổ Thanh Quý, là một người có đức khiêm cung rất
lớn. Bản tính của Sư Ông là không thích ai lễ lạy mình, nhưng vì là một
vị thầy nên Sư Ông phải để cho người ta lễ lạy. Khi đại sư Chí Niệm xây
tháp cho Sư Ông, Sư Ông dặn là phải an trí trên chóp tháp một tượng đức
Bổn Sư, như vậy sau này có ai đến lễ lạy ở tháp, Sư Ông muốn đó là họ
đang lễ lạy đức Bổn Sư chứ không phải là lễ lạy Sư Ông. Ở chùa tổ Từ
Hiếu ai cũng biết chuyện đó. Thầy trò chúng ta phải học cho được thái độ
khiêm cung ấy của Tổ Thanh Quý. Đức khiêm cung đó sẽ có thể giữ cho
chúng ta mãi mãi còn là chúng ta. Chúng ta thấy cả trong hai truyền
thống Bắc Tông và Nam Tông đều có những vị xuất gia hư hỏng vì thiếu sự
thực tập này; các vị ấy thấy người ta lễ lạy mình thì cứ tưởng là người
ta đang khâm phục cái ta của mình. Trong khi đó ai cũng biết rằng cái ta
là cái đáng ghét nhất. Trong truyền thống đạo Bụt, cái ta chỉ là một ảo
tưởng.
Khi lạy xuống, ta có cơ hội buông bỏ ảo tưởng về cái ta. Năm vóc sát
đất, ta mở rộng hai bàn tay. Ta quán chiếu: “Lạy đức Thế Tôn, lạy
chư vị tổ sư tâm linh và huyết thống, con không có gì để tự hào cả.
Những gì con đang có như một chút ít tài năng, một chút thông minh, tất
cả đều do đức Thế Tôn và liệt vị trao truyền. Con chỉ là sự tiếp nối của
liệt vị.” Khi quán chiếu như thế ta thấy trong con người của ta có
rất nhiều không gian, có rất nhiều tự do, và ta buông bỏ được mọi mặc
cảm tự tôn. Nếu ta có mặc cảm tự ti, ta cũng quán chiếu như thế:
“Lạy đức Thế Tôn, lạy chư vị tổ sư tâm linh và huyết thống, con có những
yếu kém, những yếu kém này cũng không phải là con mà đã được trao truyền
lại. Là sự tiếp nối của liệt vị, con nguyện sẽ thực tập để chuyển hóa
những yếu kém ấy trong con, và đáp ứng được sự trông đợi của liệt vị.”
Đời sống của người xuất gia phải vừa khiêm cung vừa giản dị. Mười giới
sa di và sa di ni mà ta tiếp nhận ngày ta được gia nhập đoàn thể của
những người xuất gia là những giới pháp đẹp tuyệt vời. Giới thứ sáu là
không sử dụng các loại mỹ phẩm và các đồ trang sức, giới thứ bảy là
không vướng mắc vào các lối tiêu khiển trần tục, giới thứ tám là không
sống đời vật chất sang trọng và xa hoa. “Ý thức được rằng sống trong
những điều kiện vật chất và xa hoa, người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và
tự hào, con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục và
tri túc. Con nguyện không ngồi và không nằm trên những chiếc ghế và
chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là, gấm vóc, xe cộ bóng loáng
và nhà cửa cao sang.” Cái đẹp của người xuất gia được làm bằng đức
khiêm cung và nếp sống đơn giản. Cho nên khi tiếp nhận phẩm vật cúng
dường, người xuất gia không giữ phẩm vật ấy cho mình mà phải chuyển lại
cho đại chúng, nghĩa là cho đoàn thể của người xuất gia. Những phẩm vật
cúng dường này là để dành cho những vị nào đang thực sự thiếu thốn. Đời
sống xuất gia thì phải “tam thường bất túc” nghĩa là trong ba cái ăn,
mặc và ở thì đừng có cái nào quá đầy đủ. Phải thiếu một chút thì mới
đúng. Ví dụ ăn thì không nên ăn quá no. Mặc thì không nên mặc quá ấm,
đừng nói là quá đẹp. Ở thì không nên ở quá tiện nghi, đừng nói là quá
sang. Theo tiêu chuẩn ấy mà xét, ta có thể thấy được ai là người chân
tu, ai không phải là người chân tu. Khoác áo người xuất gia, ta có tư
cách để tiếp nhận sự cung kính và cúng dường. Nếu ta không thực tập, thì
ta sẽ lạm dụng sự cung kính và cúng dường ấy và đánh mất pháp thân của
ta. Pháp thân là đời sống tâm linh đích thực.
Thầy có cái may mắn là tới tuổi này rồi mà thầy vẫn còn cảm thấy e thẹn
khi có một vị cư sĩ cúng dường. Các con biết đó, thầy cũng sống đơn giản
như các con, và mỗi khi có ai cúng dường thầy chẳng bao giờ giữ lấy cho
riêng thầy. Đạo tràng nào của chúng ta cũng có chương trình Hiểu và
Thương, và chúng ta luôn luôn biết cắt bớt sự tiêu thụ để chia sẻ những
tài vật đang có với những người thiếu thốn: những bé cô nhi, những bô
lão cô đơn, những trẻ em thiếu học hành và dinh dưỡng, những nạn nhân
của nghèo đói, bệnh tật và thiên tai. Chúng ta nuôi dưỡng từ bi bằng
những chương trình cứu trợ ấy. Và ta có biết bao nhiêu sư anh sư chị và
các thân hữu cư sĩ đã và đang hết lòng giúp chúng ta làm việc này. Đó là
một trong những hạnh phúc lớn của người xuất gia. Đó là sự thực tập giới
thứ hai: chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật với những kẻ thiếu thốn.
Hạnh phúc của chúng ta được làm bằng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ
chứ không phải là làm bằng khả năng tiêu thụ. Sở dĩ những người trẻ tới
đông đảo với chúng ta vì họ thấy được cái hạnh phúc đó. Đến với chúng
ta, họ thực tập buông bỏ được những hệ lụy và khổ đau của họ, và họ nếm
được chất liệu hạnh phúc do lý tưởng và tình huynh đệ đem lại. Hai vị
mới được xuất gia ngày hôm qua đều là con nhà đại gia, có học vị cao, có
dư điều kiện sống một đời sống vật chất dư dã và xa hoa, nhưng các vị ấy
đã buông bỏ hết để được xuất gia. Mắt họ long lanh khi tiếp nhận giới
pháp, điều này chứng tỏ họ đang có hạnh phúc lớn, và hạnh phúc ấy được
làm bằng chất liệu lý tưởng và tình huynh đệ.
Thầy thấy người đi làm cách mạng cũng có chí hướng tương tợ như chí
hướng của những người xuất gia. Hành động của Siddharta Gotama khi bỏ
ngai vàng để đi xuất gia cũng là một thứ hành động cách mạng. Sở dĩ ta
buông bỏ được là tại vì ta có chí nguyện lớn. Người làm cách mạng phải
là người có chí nguyện lớn, nếu không thì người ấy cũng không buông bỏ
được nếp sống phù hoa để đi theo con đường phụng sự đất nước. Và cũng
như người xuất gia, người cách mạng cũng phải sống một nếp sống đơn giản
không nặng nề danh vọng và lợi lộc. Một nhà cách mạng chân chính cũng
sống một nếp sống đơn giản như một người xuất gia, và cũng có cái hạnh
phúc tương tợ như cái hạnh phúc của người xuất gia, nghĩa là có chất
liệu lý tưởng và có tình huynh đệ, có tình đồng chí. “Áo anh rách
vai, quần tôi có hai miếng vá. Miệng còn cười, chân giá buốt không
giày. Yêu nhau tay nắm lấy bàn tay.” Theo tinh thần này, thì một
người công an cũng là một chiến sĩ cách mạng. Người công an cũng có thể
sống có hạnh phúc với lý tưởng cách mạng và với tình đồng chí như người
xuất gia.
Trong số các vị đệ tử thọ giới Tiếp Hiện tại Hoa Kỳ, có một đại úy công
an tên là Cheri Maples. Vị này đã tu tập rất giỏi theo pháp môn Làng
Mai, ban đầu thì thọ Năm Giới, nhưng sau đó nhiều năm đã thọ giới Tiếp
Hiện, và năm 2008 đã được nhận lễ Truyền Đăng làm giáo thọ cư sĩ. Thật
ra Cheri Maples trong hơn mười năm qua đã làm trách vụ giáo thọ cư sĩ
một cách xuất sắc rồi, và quần chúng mà vị này hướng dẫn tu tập phần lớn
đã thuộc về giới những người có nhiệm vụ giữ gìn an ninh cho xã hội,
trong đó có giới cảnh sát, công an, thẩm phán, luật sư và ban quản giáo
các nhà tù, các trung tâm cải huấn. Cheri Maples đã ở trong ngành cảnh
sát 20 năm, đã từng giữ trách vụ đào tạo cảnh sát công an, có nhiệm vụ
bổ dụng và cất chức những vị này.
Trong 20 năm phục vụ ở ngành Cảnh Sát, Cheri Maples đã thực tập theo
pháp môn Làng Mai được 14 năm. Sự thực tập này đã giúp cho Cheri chuyển
hóa rất nhiều và đã giúp cho Cheri thành công lớn trong việc đào tạo
phân phối và bổ nhiệm nhân viên Cảnh Sát. Do sự thành công lớn lao đó mà
Cheri đã được đưa lên một chức vị cao trong cục Cải Huấn và Tư Pháp.
Trong nhiệm vụ mới này, Cheri đã huấn luyện hơn 1500 nhân viên, trong đó
có các luật sư, chánh án, sĩ quan công an và quan chức nhà nước, huấn
luyện bằng cách sử dụng những pháp môn mà Cheri đã học được từ Làng Mai.
Trong hiện tại, Cheri đang áp dụng những pháp môn (gọi là kỹ thuật tu
tập) ấy để giúp cho những nhân viên quản trị các trại giam và ngay cho
những người bị giam giữ trong các trại tù ấy.
Năm 2003, Cheri đã tổ chức một khóa tu tại Madison, Wisconsin cho trên
650 người, trong đó phần lớn là các nhân viên Cảnh Sát, Công An, và các
viên chức trong ngành Tư Pháp. Thầy và tăng thân Làng Mai đã được mời
tới hướng dẫn khóa tu này. Trong khóa tu này, không có đốt hương, không
có tụng niệm, không có lễ nghi, chỉ có sự thực tập để làm lắng dịu và
chuyển hóa thân tâm, làm sống dậy và nuôi dưỡng chất liệu lý tưởng và
tình huynh đệ, đem một chiều hướng tâm linh vào đời sống chuyên nghiệp,
để có thể thành công hơn trong nghiệp vụ và để có thêm niềm vui trong
đời sống hàng ngày. Khóa tu thành công lắm. Các con hãy tưởng tượng
những chú cảnh sát Hoa Kỳ to con đang tập đi thiền hành với những bước
chân thảnh thơi, đang tập ngồi thiền với những hơi thở lắng dịu, đang
tập hạnh lắng nghe và ái ngữ với một thế ngồi bình an. Giới cảnh sát
công an và các viên chức làm trong ngành Tư Pháp có một đời sống rất
căng thẳng và nhiều khổ đau. Các con có biết là mỗi năm ở Hoa Kỳ có
khoảng 300 cảnh sát viên tự tử bằng súng của chính họ không? Hành động
này gọi là ăn súng của chính mình (eating their own gun). Số lượng các
vị cảnh sát tự tử bằng súng của mình đông bằng hai lần số lượng cảnh sát
bị côn đồ và tội đồ bắn chết. Giới viên chức quản trị các trại giam
cũng có rất nhiều căng thẳng vì phải đối diện thường xuyên với năng
lượng bạo động trong trại giam và ngay trong chính bản thân. Người ta
cho biết là sau 20 năm phục vụ trong ngành này, phần lớn các nhân viên
chỉ có tuổi thọ trung bình là 58 tuổi.
Những nhân viên cảnh sát và công an đã từng tới Bát Nhã và đã gây khó
khăn cho các con Bát Nhã của thầy chắc chắn cũng có nhiều căng thẳng và
khổ đau trong bản thân. Họ là viên chức nhà nước và phải tuân theo mệnh
lệnh của cấp trên, nhiều khi buộc phải làm những điều khiến cho họ cảm
thấy bứt rứt trong thân tâm họ. Các baby monks của thầy khi viết thư cho
các chú công an đã thấy được điều này, cho nên thầy đã thầm khen các con
khi thầy được đọc lá thư ấy. Lương bổng của người công an không đủ sống,
thầy biết như vậy, và một số những người công an đã phải sử dụng quyền
hành và chức vụ của mình để kiếm thêm tiền, do đó cũng dần dần đánh mất
lý tưởng phục vụ đất nước của họ.
Cheri Maples nói rằng năm 1984, khi đi vào ngành Cảnh Sát, nguyện ước
sâu sắc nhất của cô là phục vụ cho hòa bình, chấm dứt bạo động và bất
công xã hội. Đó là chất liệu lý tưởng. Cheri viết trong bài tựa một cuốn
sách của thầy những dòng sau đây: “Mỗi đêm, tôi đều trăn trở với những
khổ đau do nghèo đói, kỳ thị chủng tộc, bất công xã hội, trộm cắp, lạm
dụng tình dục, bạo hành trong gia đình, tiêu thụ bừa bãi và áp bức xã
hội gây nên. Tôi khao khát bình an, nhưng tôi không biết rằng cái bình
an ấy phải tới từ trái tim của mình trước. Tôi bị tràn ngập bởi những
khổ đau mà tôi chứng kiến được trong xã hội, bởi những hiểu lầm, và bởi
chính cái chính sách của nha Cảnh Sát Công An của tôi. Cái bất bình giận
dữ của kẻ khác đã thắp cháy lên cái bất bình giận dữ trong tôi. Và tôi
bắt đầu thực hành nhiệm vụ của tôi một cách máy móc. Tôi bắt đầu uống
rượu. Tôi bị chứng trầm cảm. Và tôi đã tạo ra khổ đau cho tôi, cho
những người thân, và cho cả những người khác.” Sau khi được tiếp xúc với
Pháp Môn Làng Mai, được biết rằng có thể mang bên hông một khẩu súng với
chánh niệm thì Cheri mới bắt đầu được chuyển hóa, và đã làm sống dậy
được lý tưởng của mình. Cuối cùng Cheri đã phục vụ được thật nhiều cho
đất nước và dân tộc của Cheri. Hạnh phúc của Cheri tăng tiến rất nhiều,
đó là nhờ công phu tu tập. Nghe tin các con bị trục xuất khỏi Bát Nhã và
đang bị bao vây tại Phước Huệ, Cheri đã viết thư cho Chủ Tịch Nước và
Ông Bộ Trưởng Bộ Công An để nhờ can thiệp cho các con được trở về tu tập
an ổn tại nơi các con đã được xuất gia, và Cheri đã gửi cho thầy một bản
sao của lá thư ấy.
Nếu Cheri đã tu tập thành công, đã làm sống dậy được lý tưởng phụng sự
đất nước, đã tìm được niềm vui trong đời sống phục vụ quốc gia, nhờ vào
công phu tu tập, thì các chú công an của mình cũng có thể làm như thế
được, phải không các con, nhất là khi ta biết rằng nhiều vị sĩ quan và
nhân viên công an cũng là con nhà Phật tử. Trong lá thư gửi cho Chủ
Tịch Nước và Ông Bộ Trưởng Bộ Công An, Cheri đã nói lên ước vọng là
trong tương lai sẽ có những khóa tu tổ chức cho giới cảnh sát và công an
tại Việt Nam như khóa tu đã từng được tổ chức ở tiểu bang Wisconsin, và
có thể có khả năng là các vị cảnh sát và công an Hoa Kỳ cũng được đi
Việt Nam thực tập chung với các vị cảnh sát và công an Việt Nam. Khóa tu
ở Wisconsin thành công lớn lắm, tuy không phải là một khóa tu dễ dàng.
Khổ đau và thành kiến lúc ban đầu rất lớn, đã được từ từ chuyển hóa
trong khóa tu. Khóa tu ấy có chủ đề là “Canh Giữ Cho Hòa Bình”
(Keeping the Peace). Chủ đề này làm thầy nhớ bài hát của thiếu nhi Việt
Nam ở ngoài Bắc “Chú bộ đội, chúng cháu yêu chú lắm, súng vác trên vai,
chú canh giữ cho hòa bình.” Những thực tập trong khóa tu đã giúp cho mọi
người thực hiện thêm được rất nhiều bình an trong lòng người nhân viên
công an và trong các cộng đồng xã hội mà những vị ấy phục vụ. Cheri đã
viết trong lá thư: “Nhờ sự giáo huấn của Thầy, cả Cục Cảnh Sát trong đó
có tôi đã được chuyển hóa. Từ những nhân viên chỉ biết sử dụng quyền
hành, chúng tôi đã trở nên những chiến sĩ hòa bình có liên hệ tốt đẹp
với quần chúng.”
Các khóa tu tổ chức cho giới cảnh sát công an, cũng như các khóa tu tổ
chức cho giới dân biểu và quan chức nhà nước đều được tổ chức dưới hình
thức không tôn giáo (non sectarian) vì vậy cho nên trong các khóa tu ấy
không có sự thực tập nghi lễ và tín mộ, bởi vì luật lệ của các nước dân
chủ Tây phương là như thế: “Không được trộn lẫn giáo quyền và chính
quyền.” Thầy và Tăng thân đã tôn trọng nguyên tắc ấy, và các khóa tu kia
không có mục tiêu khuyên người ta trở thành Phật tử mà chỉ muốn giúp cho
người thực tập chuyển hóa khổ đau và khó khăn nội tâm, tìm lại được niềm
tin nơi lý tưởng và tình huynh đệ. Cái học trong các Phật học đường của
chúng ta có tính lý thuyết nhiều hơn thực tập, và vì thế những pháp môn
thực tập này cần phải được đưa vào các trường cơ bản, trung cấp và cao
cấp Phật học, để cho đạo Phật thật sự có thể được ứng dụng thực tế vào
đời sống hàng ngày. Có sự thực tập này, người tu mới phục hồi và giữ
vững được lý tưởng của người xuất gia, không bị lợi và danh ràng buộc.
Sự thực tập này cũng rất có ích lợi cho các trường Trung Cấp Công An
Nhân Dân, các trường Đại Học Cảnh Sát Nhân Dân và các Học Viện An Ninh
Nhân Dân. Nó có thể được giảng dạy như một môn học và thực tập không có
màu sắc tôn giáo, giống như trong khóa tu Wisconsin. Thầy nghĩ rằng vị
Vụ Trưởng Vụ Hợp Tác Quốc Tế của ngành Công An có thể trao đổi với Giáo
Thọ Cheri Maples để có thêm kiến giải về vấn đề này và các vị giáo thọ
của chúng ta cũng sẽ có thể góp phần trong việc giảng dạy và thực tập
trong các cơ sở đào tạo nhân viên Công An và Cảnh Sát ấy. Làm được công
việc ích nước lợi dân thì dù có bị chụp mũ là cộng sản cũng không sao,
miễn là nhờ đó mà dân chúng bớt khổ. Công an khổ thì dân chúng cũng khổ
theo. Công an có những khổ đau trong lòng mà không giải tỏa được thì sẽ
trút lên đầu gia đình và trên đầu dân chúng. Công an mà tham nhũng và
lạm quyền thì không những tội cho công an mà còn tội cho chánh quyền và
nhất là cho dân chúng. Giáo dục làm sao mà những chánh sách của các Tổng
Cục và của các Cục có thể đáp lại nhu yếu đích thực của người dân thì đó
mới là một nền giáo dục thật sự hữu ích.
Này các con của thầy, trong lịch sử, cứ thỉnh thoảng lại có một vị đại
đạo sư xuất hiện để thanh lọc và làm mới lại truyền thống Phật giáo. Các
vị như Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Huyền Trang, Huệ
Năng, Lâm Tế, Trí Giả, Tăng Hội v.v. đều là những nhà cách mạng có khả
năng làm cho đạo Bụt trẻ lại, để có thể phục vụ hữu hiệu hơn trong những
hoàn cảnh xã hội đã thay đổi. Đạo sư Thái Hư trong những năm 30 của thế
kỷ trước đã kêu gọi “Cách mạng giáo lý! Cách mạng giáo chế! Cách mạng
giáo sản!”; rất nhiều người trong giới xuất gia nước ta đã lắng nghe
những lời kêu gọi ấy và đã nỗ lực tìm cách chấn hưng đạo Phật. Suốt một
cuộc đời thầy, thầy cũng chỉ tìm cách làm những việc ấy. Nếu không cách
mệnh giáo lý thì khó có thể ứng dụng giáo lý vào đời sống mới, vì vậy từ
đạo Bụt nhập thế mình đã có đạo Bụt ứng dụng. Nếu không cách mạng giáo
chế thì giới luật và uy nghi truyền thống không đủ để đối phó với những
vấn nạn lớn của thời đại và những băng hoại trong xã hội nhiều tệ nạn
ngày nay. Vì vậy mà mình đã có Năm Giới tân tu, Mười Giới tân tu, dòng
Tiếp Hiện, và giới Khất Sĩ tân tu. Nếu không cách mệnh giáo sản mà cứ
bám vào chế độ cúng dường thì làm sao có đủ tự do để thực hiện cách mạng
giáo lý và cách mạng giáo chế và để đóng góp được vào công tác thanh lọc
và xây dựng một xã hội công bình và lành mạnh? Không có cách mạng giáo
lý, giáo chế và giáo sản thì đạo Phật sẽ trở nên già nua, hư hỏng, thiếu
sự sống, không tiếp tục được nữa sứ mạng của mình, và sẽ bị đào thải.
Một tổ chức chính trị cũng vậy, nếu không có ngọn lửa cách mạng nuôi
dưỡng thì sẽ trở nên già nua, hư hỏng, đi ngược lại với bản hoài của
mình lúc ban đầu, và những người tìm cách gia nhập tổ chức cũng chỉ vì
lợi lộc mà không phải vì lý tưởng.
Trong chuyến về nước năm 2007 thầy đã có dịp một mình ghé vào một ngôi
chùa ở Hà Nội để quan sát. Trong chính điện, ở tổ đường, ngoài sân chùa,
hễ nơi nào có tượng Phật, tượng Bồ Tát, La Hán, Tổ Sư, Hộ Pháp, Thánh
Mẫu v.v. thì đều có tiền cúng dường trên tay các bức tượng. Thầy có cảm
tưởng là tất cả các vị Bụt, Bồ Tát, La Hán, Tổ Sư, v.v. đều trở thành
những người ăn hối lộ, và các vị đều là những vị thần linh chỉ phù hộ
cho những ai biết đút lót cho mình mà thôi. Hình ảnh này cho ta thấy
thế giới thần linh chỉ phản ảnh thế giới nhân sự: ai không chấp nhận
tham nhũng thì sẽ không thành công, và sẽ không làm gì được. Thầy đặt
câu hỏi: có phải vì Bát Nhã không chịu theo cái quy luật ấy cho nên Bát
Nhã đã không thể tồn tại? Có người đã nói: nước trong quá thì cá sẽ
không sống được. Có phải đây là sự thực hay không?
Không, thầy không muốn tin đó là sự thực. Chúng ta đang có những vị chân
tu trên đất nước, không bị danh vọng và tiền tài mua chuộc. Và các con
của thầy đang nối gót theo các vị ấy, dù quanh ta có nhiều người xuất
gia đã đánh mất tâm ban đầu và chỉ đang đi tìm những tiện nghi vật chất
và tình cảm để sống cho hết một cuộc sống thiếu lý tưởng và thiếu tình
huynh đệ của họ.
Trong giới trí thức, nhân bản và chính trị cũng thế, chung quanh ta còn
có những người liêm khiết, chính trực, thà chịu nghèo chứ không để tán
tận lương tâm. Ông thân sinh của sư anh Pháp Hội là một cán bộ rất liêm
khiết và chính trực; bác ấy đã chịu sống nghèo trong suốt cả một đời để
nuôi các đức liêm khiết và chính trực của mình cho nên ngày nay ta mới
có một sư anh Pháp Hội. Và có bao nhiêu người khác nữa, nhờ có niềm tin
nơi truyền thống đạo nghĩa của đất nước mà vẫn giữ được nếp sống liêm
chính của mình.
Những hạt giống Phật pháp, những hạt giống của Pháp môn gieo trồng trong
những năm qua đã bắt đầu nẩy mầm. Tiếp xúc với Pháp môn, tiếp xúc với
Tăng thân, những hạt giống tốt của lý tưởng và của hạnh phúc có sẵn nơi
người trẻ đã bắt đầu mọc lên tươi tốt. Người trẻ xuất gia cũng như người
trẻ tại gia thấy được một con đường tâm linh đẹp có thể mở ra một chân
trời mới của tình huynh đệ và của lý tưởng độ đời. Những Cheri Maples
của Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hiện. Có những sĩ quan công an và cảnh
sát trẻ đã tới với chúng ta để thực tập và bắt đầu được chuyển hóa. Các
con đã có dịp làm quen với các vị ấy. Một vị đã tâm sự: khi tâm ta bất
an thì ta không có khả năng đem lại sự an bình trong xã hội, và vì những
bất an trong tâm ấy mà ta có thể làm cho tình trạng xấu thêm. Đó cũng là
cái chân lý mà chính Cheri Maples đã tìm ra. Vụ việc đau thương của Bát
Nhã là chứng tích của sự bất an trong lòng người. Vì lo sợ, vì oán trách,
vì nhận thức sai lầm mà những người có trách vụ an ninh đã tạo ra những
bất an trong xã hội và làm xấu đi hình ảnh của đất nước trên vũ đài quốc
tế. Một trong những vị Cheri Maples của Việt Nam ấy cũng đã ngỏ ý muốn
xin được xuất gia.
Cách đây chỉ mới mấy hôm, một vị tập sự nữ ở xóm Mây Đầu Núi tên là
T.M.T. đã viết một lá thư làm cho chúng ta rúng động và đã cho ta thấy
được rằng ngọn lửa thiêng của lý tưởng và của tình huynh đệ có thể được
dễ dàng khơi cháy lại nơi tâm hồn những người trẻ. Vị tập sự nữ ký tên
T.M.T. trong lá thư ấy (Đằng Sau Ánh Hào Quang) đã chứng tỏ có khả năng
buông bỏ mọi ràng buộc, giàu sang và quyền thế đang có để được xuất gia,
sống đời đạm bạc mà hạnh phúc với lý tưởng độ đời và giúp người. Cả đại
gia đình của T.M.T. đều chống đối việc này và ai cũng cho T.M.T. là
điên. Các con nghĩ sao? Nếu T.M.T. có điên thì cái điên ấy cũng không
khác gì cái điên của thái tử Sĩ Đạt Đa khi bỏ ngai vàng mà đi xuất gia.
Sĩ Đạt Đa là ai? Sĩ Đạt Đa là một người trẻ có khả năng buông bỏ tất cả
để tìm cầu một lý tưởng đẹp. Sĩ Đạt Đa có ngọn lửa cách mạng trong lòng
nên mới có đủ năng lượng dứt bỏ tất cả mọi đặc ân và mọi tiện nghi. Sĩ
Đạt Đa là ai? Sĩ Đạt Đa chính là T.M.T. của ngày hôm nay đó. Chúng ta là
những người trẻ đi tìm một lý tưởng đẹp. Chúng ta là sự tiếp nối của Sĩ
Đạt Đa. Sĩ Đạt Đa đang có mặt trên quê hương cho nên ta có quyền hy vọng.
Những thanh niên đi xuất gia có tâm ban đầu rất mạnh, cũng như những
thanh niên đi làm cách mạng có tâm ban đầu rất mạnh. Phải giữ cho được
tâm ban đầu thì ta mới thành công. Có tâm ban đầu thì ta không bị ràng
buộc bởi lợi danh. Còn tâm ban đầu thì còn tự do và giải thoát. Phương
pháp của đức Thế Tôn là tưới tẩm những hạt giống ân nghĩa, từ bi, trí
tuệ và dũng cảm nơi ta. Những đau thương của Bát Nhã đã đánh động được
trái tim của bao nhiêu người trong nước và ngoài nước và giúp cho ngọn
lửa lý tưởng và chất liệu can trường nơi họ sống dậy. Nhà thơ Hoàng Hưng
đã viết trong bài Bốn Trăm Quả Chuông Bát Nhã rằng Lá Thư Thỉnh Nguyện
mà ông khởi xướng để kêu gọi sự che chở cho Tăng thân Bát Nhã đã có được
chữ ký của những tên tuổi lớn trong giới khoa học và văn nghệ, những
người “chưa bao giờ từng tham dự vào bất cứ một cuộc bày tỏ tập thể nào
trước chánh quyền.” Như vậy có nghĩa là hạt giống của từ bi và dũng cảm
nơi các vị ấy đã được tưới tẩm, do đó các vị ấy đã không ngần ngại ký
tên vào Lá Thư Thỉnh Nguyện. Có một vị đã tâm sự: “Trước đây tôi rất sợ
dính vào những chuyện như thế này, nhưng lần này tôi thấy mình không lên
tiếng thì hèn quá, sẽ tự mình không chịu nổi chính mình.” Và cố nhiên là
ký xong thì vị ấy có ngay được cái hạnh phúc của một người biết rằng
mình đang có chất liệu liêm trực trong trái tim. Công phu thực tập của
các con Bát Nhã của thầy đã tưới tẩm được hạt giống tốt trong lòng
người, Phật tử cũng như không Phật tử, trong nước cũng như ngoài nước,
người đồng bào cũng như người nước ngoài. Đó là những hạt giống của niềm
tin, hạt giống của thương yêu và của sự quả cảm. Cách hành xử bất bạo
động và không hận thù của các con đã khơi dậy niềm tin nơi một hướng đi
nhân bản thuần hậu của nhân loại trong tương lai, đã đánh động lòng yêu
thương nơi mọi người và làm sống dậy nơi mọi người đức vô úy sẵn có của
họ. Các vị tôn túc đã lên tiếng. Học tăng đã lên tiếng. Sinh viên đã
lên tiếng. Giới nhân sĩ và trí thức đã lên tiếng. Giới tiểu thương đã
lên tiếng. Giới cán bộ và đảng viên đã lên tiếng. Bằng hữu của các tôn
giáo bạn đã lên tiếng. Thế giới đã lên tiếng. Bát Nhã như một đóa sen
ngát hương đã làm sống dậy biết bao nhiêu tình cảm đẹp đẽ của con người.
Pháp môn “tưới tẩm hạt giống tốt” của chúng ta có thể đem lại hoa trái
thương yêu và hạnh phúc rất mau chóng.
Này các con, nếu nhìn cho kỹ thì các con sẽ thấy các vị có trách nhiệm
giải thể Tăng thân Bát Nhã đã làm ngược lại với pháp môn. Họ chỉ tưới
tẩm những hạt giống xấu. Họ đe dọa và nói dối để tưới tẩm hạt giống sợ
hãi nơi chúng ta. Họ nói Tăng thân Bát Nhã làm chính trị. Họ nói sự có
mặt của Tăng thân Bát Nhã là một đe dọa cho nền an ninh quốc gia. Họ sơn
phết để gán cho Bát Nhã danh từ phản động. Một vị thiếu tướng của Tổng
Cục Xây Dựng Lực Lượng Công An Nhân Dân đã được gửi vào để “đối phó” với
Bát Nhã như là một tập đoàn phản động. Trong khi đó thì các con là những
người tu tập trong trắng, không tha thiết gì đến chính sự, rất mong muốn
được tu tập an lành dưới sự che chở của Giáo Hội và của luật pháp đất
nước. Họ thuê những người nghèo khổ, thất học, không biết gì về Phật
pháp, không phải là Phật tử đến để thay họ đánh phá và trục xuất các con
ra khỏi tu viện; họ lừa dối những người này, nói rằng các con là những
người đi chiếm chùa, các con là những người phản động, đi cõng rắn về
cắn gà nhà, rằng các con là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia, nói tóm
lại là họ tưới tẩm những hạt giống hiểu lầm, nghi kỵ, hận thù nơi người
đồng bào khác. Khi những người này mất hết bình an trong tâm thì họ mới
có khả năng tới chửi rủa, đập phá và xâm phạm đến tài sản và nhân phẩm
của những người đồng bào của họ. Làm gì có thứ Phật tử đốt kinh, đốt
tượng, liệng phân thối vào các vị tôn đức, xé ca sa của các vị xuất gia,
lôi xềnh xệch các vị ấy như những bao rác và xâm phạm vào chỗ kín của
những vị này? Thầy thấy cách hành động này rất nguy hiểm và những viên
chức nào sử dụng những người như thế sau này cũng sẽ trở thành nạn nhân
của chính những người này.
Nhìn lại cho kỹ ta thấy rằng không những Tăng thân Bát Nhã là nạn nhân
của một chính sách sai lầm mà chính quyền và nhân dân địa phương cũng là
nạn nhân của chính sách ấy. Các chú công an cũng như những viên chức
khác của chính quyền đã nhận được lệnh triệt tiêu Bát Nhã và đã phải làm
tất cả những gì có thể làm để hoàn thành nhiệm vụ này, dù những điều
mình làm có trái với luân thường đạo lý. Người ta nói vì Đảng, vì chế
độ, vì an ninh quốc gia, ta phải buộc lòng làm những việc ấy. Ta cố trấn
áp ta để tin rằng đó là việc làm vì nước vì dân. Nhưng trong chiều sâu
tâm thức ta, ta biết rằng đó là những việc làm thất đức, trái với luân
thường đạo lý. Lương tâm ta cắn rứt. Những người trong gia đình ta nhìn
ta bằng con mắt nghi ngờ, oán trách. Đồng bào ta nhìn ta với con mắt
khinh khi, chê trách và ghét bỏ. Cái khổ của một viên chức chính quyền
lương không đủ sống, đó là một cái khổ tương đối nhỏ. Cái khổ bị lương
tâm cắn rứt, bị gia đình và đồng bào nhìn bằng con mắt oán trách mới là
cái khổ thật sự. Mất đi sự bình an, mất đi sự tự trọng, cái ấy mới là
cái khổ to lớn. Đó là một tổn thất lớn. Ra trận, thì phải có tổn thất.
Đó là số người chết, số người bị thương và số người mất tích. Trận đánh
nào cũng phải có tổn thất. Trong những trận đánh như Bát Nhã, tuy không
có ai chết nhưng tổn thất rất trầm trọng.Đó là đứng về phương diện nhân
phẩm, lương tri, lý tưởng, tình đồng bào và thể diện của đất nước trên
trường quốc tế. Chúng ta đã không có công mà còn có tội với đất nước khi
bị dồn vào thế phải đánh những trận thất đức như thế. Cho nên tất cả
chúng ta, tu sinh, viên chức chính quyền hay công an đều đã trở thành
nạn nhân.
Một chính sách ích nước lợi dân luôn luôn được dựa trên nền tảng của một
cái thấy chính xác, trong đạo Bụt gọi là chánh kiến (right view). Nếu
tâm ta bị tham dục, sợ hãi và ghi ngờ che lấp thì ta không có được chánh
kiến, và cái thấy của ta bị méo mó, sai với sự thực. Cái thấy này gọi là
tà kiến (wrong view). Thấy Bát Nhã là một đe dọa cho một nền an ninh
quốc gia là một cái thấy sai lạc rất lớn. Một chuyện buồn cười như thế
mà xảy ra được, điều này thật là khó hiểu. Vì cái tà kiến đó cho nên mới
có loại tư duy sai trái: cần phải triệt tiêu Bát Nhã, bằng mọi cách. Đó
là tà tư duy (wrong thinking). Tư duy sai trái thì ngôn ngữ và hành động
cũng sẽ sai trái. Nói rằng Bát Nhã là một tranh chấp nội bộ, nói rằng
chính quyền và công an không can thiệp vào Bát Nhã, nói rằng Bát Nhã làm
chính trị, v.v. tất cả những lời nói ấy đều không phải là chánh ngữ mà
là tà ngữ. Tiếp theo là loại hành động được gọi là hành động sai trái,
tức là tà nghiệp (wrong action). Đập phá, trục xuất, bắt bớ, xâm phạm
vào nhân phẩm của người dân, đem lại khổ đau cho cộng đồng mà mình muốn
phục vụ và đem lại khổ đau cho chính bản thân mình. Cái gốc của khổ đau
xét cho cùng là ở cái thấy sai lạc. Vì cái thấy sai lạc ấy nên mới có
những chính sách sai lầm có hại cho dân và cho nước.
Để vực dậy niềm tin và sức sống của cộng đồng Phật giáo, các vị chân tu
phải tìm cách ngồi lại với nhau, nhất là các vị không còn giữ trách vụ
trong tổ chức Phật giáo. Vì sợ hãi nghi ngờ cho nên người ta mới có chủ
ý kiểm soát tổ chức Phật giáo. Mà cách thức kiểm soát lâu nay thường
được sử dụng là đưa người của người ta vào để có thể giật dây. Một chức
sắc Phật giáo mà có tỳ vết thì mới giật dây được. Nếu vị ấy liêm trực
thì mình không thể giật dây. Đưa vào những người như thế trong tổ chức
Phật giáo là làm hư tổ chức. Có những văn kiện của tổ chức đưa ra mà
ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ đích thực của truyền thống Phật giáo. Ai
cũng biết là các văn bản ấy đã được soạn thảo sẵn để viên chức Phật giáo
ký tên. Như thế thì tổ chức Phật giáo làm sao thực sự đóng được vai trò
lãnh đạo? Nếu một tổ chức tôn giáo mà bị kiểm soát đến mức tê liệt không
dám lên tiếng để bảo vệ cho con em của chính mình thì tổ chức ấy không
còn có đủ uy tín để lãnh đạo. Cho nên thầy nghĩ là các vị chân tu phải
ngồi lại với nhau, phải lên tiếng để hướng dẫn cho tuổi trẻ Phật tử và
chuyền năng lượng cần có cho tổ chức Phật giáo để tổ chức này có cơ
duyên thức dậy và đi tới. Điều này cũng đúng với một tổ chức cách mạng.
Các vị cách mạng lão thành liêm khiết phải ngồi lại với nhau và phải
cùng lên tiếng. Lên tiếng để chỉ dẫn cho tuổi trẻ, để khơi dậy niềm tin
nơi họ. Để giúp làm khơi dậy ngọn lửa thiêng của cách mạng đang thoi
thóp trong tổ chức. Phải làm sao cho những người tới với tổ chức cách
mạng là những người có lý tưởng, có bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, có khả
năng buông bỏ quyền hành và danh vọng. Nếu không tổ chức sẽ chỉ quy tụ
được những phần tử cơ hội chủ nghĩa, gia nhập vào tổ chức chỉ với mục
đích là tìm cầu địa vị và quyền hành. Một tổ chức như thế không còn là
một tổ chức cách mạng nữa, nhất là khi những bậc đàn anh trong tổ chức
là những kẻ kẹt vào địa vị và quyền hành, sống một cuộc đời quá sung túc
và xa hoa, có các bọc tiền khổng lồ chôn dấu tại các ngân hàng nước
ngoài. Không có ngọn lửa cách mạng trong lòng, làm sao chúng ta gọi nhau
là đồng chí mà không ngượng miệng?
Họ muốn tiêu diệt Bát Nhã nên mới đặt điều cho rằng các vị xuất gia ở
Bát Nhã là những người làm chính trị, chống đối chế độ, chống đối giáo
hội, và Bát Nhã phải được đối trị như một tổ chức phản động. Nước lã mà
người ta muốn vã nên hồ. Trong lá thư của tập sự nữ T.M.T. có câu: muốn
giết một con chó thì phải nói đó là một con chó điên. Đó là cái luật
ngàn đời, chỉ có kẻ ngu mới không hiểu điều đó. Tại sao con lại đi theo
cái dòng Bát Nhã đó? Đó là con đường đi vào cửa tử. Người ta đã muốn
triệt tiêu thì nó sẽ bị triệt tiêu thôi, dù sớm muộn nó cũng bị triệt
tiêu.
Nhưng các con của thầy chắc cũng đã thấy rằng trường hợp Bát Nhã đã trở
thành một trường hợp đặc biệt. Nhờ cách hành xử của các con, nhờ những
dòng nước mắt trong veo không hận thù không bạo động của các con mà
thiên hạ biết rằng đây không phải là một con chó điên, một con chó dại,
và người ta có thể sẽ không bao giờ giết được con chó Bát Nhã. Hàng xóm
của chúng ta, trong nước và ngoài nước, đã thấy được rằng đây là một con
chó khôn, ta cần bảo tồn tính mạng cho nó, bởi lẽ một con chó khôn thì
có khả năng giữ được cửa được nhà.
Các con nhớ thở thật nhẹ cho thầy và đi thiền hành thảnh thơi cho thầy.
Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng thực tập xử lý ngày hôm nay cho
thật hết lòng. Chúng ta cần tập sống cho thật, tập nhìn tất cả với con
mắt từ bi. Ngày hôm nay là chất liệu để làm nên ngày mai. Vì vậy ta phải
sống cho đẹp ngày hôm nay. Thầy có niềm tin lớn nơi các con. Năng lượng
lành của Tam Bảo đang che chở cho chúng ta. Các con hãy chuyên cần thực
tập bài thi kệ Quay Về Nương Tựa. Không nên đi tìm một nơi nương tựa
khác ngoài hải đảo tự thân. Đó là lời đức Thế Tôn căn dặn.
Về lại Mai Thôn, thầy sẽ có dịp viết tiếp cho các con.
Thầy của các con,
Nhất Hạnh
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vande/batnha_khoidayngonluathieng.htm