Trong một vài cuộc hội thảo khoa
học về Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đây, ý nghĩa chữ "nhàn" trong thơ
văn Nguyễn Bỉnh Khiêm được bàn cãi khá sôi nổi.
Bàn cãi như vậy đâu phải là câu chuyện trà dư tửu hậu
của những người hay nói chữ, sống nhàn rỗi, mà bàn cãi như vậy là để
tìm xem trong khái niệm "nhàn" mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao, thật
sự có nội dung tích cực, tốt đẹp, xứng đáng cho con người hậu thế
chúng ta học tập bắt chước hay không.
Ở đây có ba vấn đề đặt ra, không nên lẫn lộn:
Một là nghĩa thông thường, mọi người quen thuộc là chữ
"nhàn", trong các hợp từ như nhàn hạ, nhàn rỗi hay
là nông nhàn tức là thời gian nhà nông rỗi rãi, không có việc gì
phải làm ngoài đồng. Hay là trong câu "nhàn cư vi bất thiện",
nghĩa là nhàn là điều bất thiện.
Như chúng ta thấy nội dung chữ "nhàn" theo nghĩa thông
thường cũng không có gì là xấu, nhất là đối với người có tuổi, trừ
phi là ở nhàn, rồi làm điều bậy bạ, bất thiện.
Hai là nghĩa chữ "nhàn" trong văn chương Nho giáo.
Trước hết, cần nói rằng, chữ Hán "nhàn" có thể viết
hai cách: một là chữ môn là cửa ở ngoài, trong là chữ nguyệt là
mặt trăng. Hai cũng là chữ môn ? ngoài, và chữ mộc là gỗ
ở trong. Cả hai chữ đều đọc là nhàn, với nghĩa nhàn rỗi, nhàn hạ. Với
ý nghĩa đó, cả hai chữ đều không có ý nghĩa xấu, nhưng trong các đoạn
"nhàn đàm", "nhàn ngôn", "nhàn ngữ", ý tứ là
nhân lúc nhàn rồi ngồi nói chuyện chơi.
Trong LuậnNgữ của Khổng Tử có câu "đại đức bất
du nhàn".
Chữ nhàn ở đây có nghĩa là phép tắc, quy cũ. Nghĩa của
câu trong Luận Ngữ là người có đức lớn không vượt khuôn phép, quy cũ.
Ba là chữ nhàn trong văn chương của Đ?o gia. Trong các
thành ngữ quen thuộc, như "nhàn vân dã hạc" có nghĩa là
mây trói con hạc giữa đồng, nói lên con người sống nếp sống Đạo
gia, không bị câu thúc ràng buộc gì. Hay là thành ngữ "nhàn tỉnh,
dật trí", nói lên phong cách của Đạo gia sống an tịnh, siêu
thoát.
Bốn là chữ "nhàn" trong văn chương Phật giáo. Nghĩa
là chữ nhàn trong văn chương Phật giáo rất quan trọng, như chúng ta biết,
Nguyễn Bỉnh Khiêm khi về hưu, chọn cho mình tự hiệu là Bạch Vân Cư
Sĩ. Từ cư sĩ, lần đầu tiên được dùng trong văn chương Phật giáo
trong bộ kinh Đại thừa quan trọng "Duy-ma-cật" với nghĩa là người
Phật tử tri thức tại gia, tu hạnh Bồ-tát cứu nhân độ thế. Nói một
cách khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm tự xem mình là Bồ-tát, với lý tưởng suốt
đời cứu nhân độ thế. Nhưng muốn suốt đời phụng sự lý tưởng cứu
nhân độ thế, vị Bồ-tát phải biết hy sinh lợi ích nhỏ của tự thân,
phải hoàn toàn quên mình, quán triệt lý vô ngã, không còn vấn vương danh
lợi, tài sắc thế tục, chứ không phải là bàng quan đối với thế sự,
không phải là lánh đời. Bởi vì nếu lánh đời, thì làm sao để cứu đời,
làm tròn sự nghiệp của Bồ-tát?. Hơn nữa, đã lánh đời thì làm sao có
thể hiểu đời và ngõ đạo. Không nên quên rằng, một trong mười danh hiệu
của Phật là Thế Gian Giải, nghĩa là hiểu biết thế gian, tức là hiểu
đời. Có hiểu đời là vô thường thì mới ngộ được đạo lý bất tử.
Có biết đời là khổ, mới chứng được cảnh giới Niết-bàn an lạc,
sung sướng.
Nói tóm lại, "nhàn" trong văn chương Phật giáo
hoàn toàn không có nghĩa là nhàn hạ, nhàn rỗi, như là theo nghĩa thông thường,
"nhàn" trong Phật giáo là không luỵ công danh, không vướng tài sắc-
là những cái ràng buộc rất tầm thường và thế tục, để làm tất cả
những việc có thể làm được để lợi lạc quần sanh, để cứu nhân độ
thế, cứu người và cứu đời.
Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã có những nhà Phật học Việt
Nam dùnng chữ nhàn theo nghĩa như vầy. Như Trần Nhân Tông, vị vua kiêm thiền
sư đời Trần, trong bài ca "Đắc Thú Lâm Tuyền Thánh Đạo Ca" viết
các câu như:
- "Công danh chẳng chuộng,
- Phú quý chẳng màng,
- Tần Hán xưa nay,
- Xem đà nhàn hạ".
Ý của Trần Nhân Tông là người Phật tử không ham muốn
gì công danh phú quý đời Tần, đời Hán bên Tàu. Chữ nhàn hạ,
trong bản viết Nôm, viết là nhèn hạ, nhưng không hiểu vì sao, có
người lại chú giải là hèn hạ, cho nên phiên âm trại đi là nhèn hạ.
Vì vậy, Trần Nhân Tông, định nghĩa nhàn là không màng
công danh phú quý, nhàn là hơn tất cả, cho nên trong bài thơ chữ Hán kết
thúc bài ca này, ông viết:
"Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn kim".
Vạn kim là vạn lượng vàng, là giàu sang phú quý. Không thấy
ở đâu, sách Phật hiểu nhàn là ngồi không.
Bây giờ, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng ta hãy xem ông:
- Hiểu chữ nhàn như thế nào?
- Thực hiện chữ nhàn ra sao?
Hiểu là lý giải. Thực hiện là hành động. Rất có thể
là nơi con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, do thời thế và hoàn cảnh, nhận thức
về chữ nhàn và hành động, thể hiện chữ nhàn đó trong cuộc sống,
không được hoàn toàn nhất trí. Nói cách khác, trong con người Nguyễn Bỉnh
Khiêm, hành và giải có thể là không nhất trí,
không tương ứng. Hay là nói như Nho, hành giả không hợp nhất.
Trong bài "Nhẹ Nhàng Danh Lợi", ông viết:
- "Để rễ công danh đổi lấy nhàn,
- Am Bạch Vân rồi nhàn hứng,
- Dặm hồng trần vắng ngại chen"
Rõ ràng, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thức chữ nhàn, đối lập
với công danh, với hồng trần. Trần là bụi. Hồng trần là bụi hồng,
là tất cả những gì ở thế gian làm ô nhiễm thân tâm con người.
Từ hồng trần, biểu trưng cho bụi đời, cũng được ông
dùng lại trong một bài thơ khác, với câu:
- "Xóm tự nhiên, lều một căn,
- Quyết không thay thẩy bụi hồng trần"
Đó là chữ nhàn theo nhận thức của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, còn vấn đề thật sự trong nhân tâm của ông có nhàn hay không, hay
là còn vấn vương thế tục thì e chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm mới biết
và trả lời được. Do đấy, tôi không thể bàn thay ông được.