- LÔ SƠN CHÂN DIỆN MỤC
- Tuệ Sỹ
- Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
- Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về
- (T.S.)
Lô sơn là một danh thắng kỳ tuyệt.
Núi non hùng vĩ, cảnh trí u trầm, mây trắng và sương mù quanh năm bao phủ,
từ bao nhiêu đời, nơi đó ẩn tích những cao nhân đắc đạo. Tìm đến
đó, để nhìn thẳng vào chân diện mục của Lô sơn, là đã quyết tâm
đoạn tuyệt với những vương vấn, buông lơi và thắt chặt, từ mấy vạn
đời trước. Thấy chỗ đó, là thấy Tâm Thiền. Nhưng Tâm Thiền thì tịch
mặc không nói. Một khi đưa lưỡi dao lên cắt đứt mớ tóc, đoạn tuyệt
hồng trần, thì cõi thơ sẽ mất một ngọn sao trời rọi sáng, cho khách tục
tử đang còn cặm cụi làm thơ. Nhà thơ phát tâm đại nguyện thượng thừa
vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường. Đại nguyện đó sẽ làm sáng
lên cái chân lý Dị và Đồng. Dị biệt và Đồng nhất là những con đường
chia rẽ phân đôi; nhưng đạt tới công án hiểm hóc của sinh tử, thì đã
xóa tan chân lý Dị Đồng. Đó là chỗ ta và người, tình và cảnh, đều
trở thành tịch mặc Không Không. Từ đó, nhà Thơ hẹn với nhà Thiền, mở
ra cánh cửa bắc, cất đầu nhìn lên 36 ngọn núi xanh kia.
Những lời dài dòng lôi thôi trên
đây quảng diễn từ những câu thơ này của ông:
Vị văn Lô nhạc đa chân ẩn
Cố tựu cao nhân đoạn túc phan
Dĩ hỉ thiền tâm vô biệt ngữ
Thương hiềm thế phát hữu thi ban
Dị đồng mạc vấn nghi Tam ngữ
Vật ngã chung đương phó Bát hoàn
Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ.
Cử đầu tam thập lục thanh sơn
(Nghe nói trên Lô sơn có nhiều
bậc chân ẩn. Vì vậy, tôi tìm đến cao nhân để xin cắt đứt những vấn
nhiều đời nhiều kiếp. Tôi đã vui với cái lẽ rằng Tâm Thiền thì
không có ngôn ngữ gì khác biệt với ngôn ngữ thường tình. Nhưng còn ngại
rằng khi đã cạo tóc mà tình thơ vẫn còn. Thôi thì, thiền đạo và thi
ca là đồng hay là khác, cũng chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi. Hãy quên đi những
sự phân biệt Ta và Người. Cuối cùng, tôi với anh mở cánh cửa bắc, ngẩng
đầu nhìn lên ba mươi sáu ngọn núi xanh.)
Nói như vậy, bằng lời lẽ như vậy;
người ta gọi là bộc bạch, là thổ lộ tâm tình. Ở đây cứ tạm nói
chắc là tình thơ và tình đạo, một cuộc giao tình để xẻ chiếc chiếu
làm hai. Còn ẩn tình nào sau đó, nó đã ẩn thì vĩnh viễn là nó ẩn,
không thể cưỡng bức để kéo nó ra.
Chỉ thẳng không quanh co, gãy gọn
và khúc chiết, bài thơ có chương pháp như một bản tường trình. Những
người đang ruổi ngựa chạy như bay, đang đi giữa phố chợ ồn ào, vừa
nghe một lần là hiểu; và có thể diễn lại tràng giang đại hải, như một
bài thuyết trình của một nhà thạc học đúc kết mười năm trời nghiên
cứu sách vở. Nhà thơ bất chợt đến nghe, ôm bụng cười. Ông sẽ về
Hàn lâm viện thảo chiếu đề nghị và quyết định bổ nhiệm, rồi sau
đó, trở lại Lô sơn, đẩy cánh cửa bắc, nhìn ra 36 ngọn thanh sơn.
Nhưng khi trở lại Hàn lâm viện, ông sẽ chứng kiến một cảnh tượng hãi
hùng: tên người được bổ nhiệm là ông. Thì người bộc bạch là nhà
thơ, người đi quảng diễn là nhà thơ; nhà thơ và nhà thơ, bóng dáng nhà
thơ trùng trùng điệp điệp, ẩn hiện giữa mây trắng và sương mù như
đỉnh núi Lô sơn. Vậy, đâu là chân diện mục của Lô sơn?
Cái đó có thể là đề tài cho
Trang Tử và Huệ Thi bàn cãi về lẽ Đồng và Dị?" Học bàn cãi nhau,
từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ông lại đứng ra làm trọng tài;
làm một đại quan của triều đình chứ không là một nhà thơ, vì lời lẽ
khúc chiết:
Mạc tương đồng dị giảo tri
thù
Nhược tin vạn thù qui nhất bản
Ngã kim tri nhữ nhữ tri ngư
Ông bảo họ đừng cãi nhau, chớ
so đo về lẽ Dị Đồng nữa. Vạn thù qui nhất bản, muôn vàn sai biệt
cùng quy về một gốc. cho nên, ông này biết ông kia, ông kia biết cá. Nếu
Huệ Thi mà có thể hiểu được Trang Tử, thì Trang Tử cũng có thể hiểu
được rằng đàn cá đang lội nhởn nhơ kia là đang vui đấy.
Nhưng kỳ cùng, ai dám bảo đó
không là thơ? Đó cũng là một công án hiểm hóc (của thiền sư Vô Trước
trên Ngũ đài sơn) : Tiền tam tam hậu diệc tam tam, trước ba ba sau
cũng ba ba, là gì?
Nói trắng ra, người ta muốn hỏi,
chỗ sơn cùng lộ tuyệt nơi thơ của ông là gì? Hay nói gọn lại, thơ Đông
Pha nói gì trong đó? Ông nói những tình cố quận, sầu tha hương, những mùa
thu tóc trắng, những thanh xuân và mộng tưởng; ông nói những thứ vân
vân đó ư? Thì quả nhiên, thơ ông chỉ nói vân vân như vậy. nhưng khi
nghe ra những khổ lụy kỳ cùng trong đó, người ta tự hỏi, đồng vọng
của một phương trời đọa đày viễn mộng nào đây? Đọa đày tức viễn
mộng; viễn mộng tức đọa đày. Cái đó nó phơi trần lộ liễu, nên một
người thô lỗ vội vàng cũng có thể nhận ra. Sau lớp mây trắng và sương
mù, là Lô sơn, ai lại không biết. Đã biết là như vậy; còn chân diện mục
của Lô sơn thì sao?
Trong những ngày tháng bị đày ải
ở Hoàng châu; ngày thiếu cơm, chiều thiếu gạo; (ông làm ruộng), trời nắng
ruộng khô, lúa mọc không nổi; (ông kêu trời), trời mưa thì xối xả,
nhà dột như mảng bè trôi. Ông làm một bài thơ dài cho bạn. Mấy câu đầu
như sau:
Đông Pha tiên sinh vô nhất tiền
Thập niên gia hỏa thiêu phàm duyên
Hoàng kim khả thành hà khả tắc
Chỉ hữu sương binh vô do huyền
Long Khâu cư sĩ diệc khả liên
Đàm Không thuyết Hữu dạ bất miên
Hồi văn sư tử Hà đông hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Tiên sinh Đông Pha không một tiền
Mười năm đèn lửa xin hai bên.
Hoàng kim làm được, sông lấp được;
Chỉ có tóc sương không chịu đen.
Long Khâu cư sĩ cũng vô duyên.
Bàn Không bàn Hữu thức suốt đêm.
Bỗng nghe sư tử Hà đông rống;
Hốt hoảng tâm thần rơi gậy thiền.
Bài thơ làm gởi tặng Trần Quí Thường.
Có lẽ trong số những người bạn, Thường là người được ông mến chuộng
và kính phục nhất, về cốt cách cũng như về đời sống.
Trần Tháo tự Quí Thường, hiệu
Long Khâu cư sĩ; cũng được gọi là Phương Sơn Tử. Đọc bản tiểu sử
của Quí Thường do ông viết cũng có thể thấy sự mến phục của ông như
thế nào. Bản tiểu sử được viết:
"Phương Sơn Tử, người ẩn
cư trong khoảng Quang, Hoàng. Thiếu thời, hâm mộ Chu Gia và Quách Giải. Bọn
hào hiệp trong làng xóm đều qui phụ theo. Hơi lớn, biết chiều lụy người,
và đọc sách; muốn lấy việc đó mà chen chân với đời. Nhưng rồi không
gặp thời. Đến tuổi xế, về ẩn lánh trong khoảng Quang, Hoàng, nơi chỗ
gọi là Kỳ đình. Ơ렮hà tranh, ăn rau trái,
không giao thiệp với người đời. Bỏ xe ngựa, vứt áo mão, đi bộ. (...)
"Tôi bị biếm trích ở Hoàng
châu, qua Kỳ đình, thì thấy. Mới kêu: ‘Hởi ôi! Đó là cố nhân của
tôi, Trần Tháo Quí Thường đó. Sao lại ở đây?’ Phương Sơn Tử cũng
kinh ngạc, hỏi tôi tại sao đến đây. Tôi nói duyên cớ. Ông cúi đầu không
đáp; rồi ngửa lên trời mà cười. Gọi tôi ngủ lại nhà. Tường vách xơ
xác, nhưng vợ con trông chừng có vẻ thỏa ý. Tôi giật mình lấy làm kinh
ngạc.
"Tự nghĩ, Phương Sơn Tử khi
thiếu thời, ưa rượu và thích kiếm, xài tiền như đất cát (...)
"Tôi nghe nói trong khoảng Quang
Hoàng có nhiều dị nhân, thường thường giả bộ ngây dại, dơ bẩn, khó
gặp được. Phương Sơn Tử cũng trong hạng đó ư?"
Trong cái được mến phục đã ẩn
hiện một phần cốt cách và cuộc đời của mình. Phần đó nằm ngoài
ven trời viễn mộng.
Đông Pha tiên sinh và Long Khâu cư
sĩ, mỗi người ở mỗi ven trời, cùng nhìn nhau qua một cõi mộng, và cũng
mang những khổ lụy hình hài như nhau. Khổ lụy của hình hài, mà lại
khôi hài. Đông Pha tiên sinh có tài làm ra vàng, có thể lấp được sông,
nhưng không thể làm cho tóc của mình đừng bạc trắng. Long Khâu cư sĩ
say sưa đạo lý thượng thừa, nhưng không giữ nổi cây gậy của đạo đó
trong tay, khi nghe tiếng sư tử Hà Đông rống:
Hốt văn sư tử Hà Đông hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Tâm mang nhiên, tâm sững sờ ngơ ngác,
là lúc sắp tỏ ngộ, sắp hoát nhiên đại ngộ. Thế thì, là chuyện đùa
hay chuyện thật, mà chân tướng của nó, của cõi mộng đó, ra sao? Chân
diện mục của Lô Sơn không dễ gì khám phá.
Bất thức Lô sơn chân diện mục
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung
Không biết được chân diện mục
của Lô sơn, tại vì mình đang ở trong đó, hay tại vì mình không ở trong
đó?
Từ thượng cổ, Lô sơn đã quyến
rũ những người tiêu dao thế ngoại. Tương truyền, trong buổi giao thời
giữa nhà Thương và nhà Chu, trên một nghìn năm trước Tây lịch, có người
tên Khuông Tục, trốn đời, hay lánh đời, đến ẩn dưới núi, lập nhà
tranh (lô) ở đó, và sau đắc đạo tiên. Vì vậy, núi được gọi là Lô
sơn, hoặc Khuông sơn.
Đời Tam quốc, có đạo gia Đổng
Phụng chân nhân đến tu tiên và luyện đan tại đây. Bấy giờ Thái thú
Giao chỉ là Sĩ Nhiếp mất đã ba ngày; tiên ông cho một hoàn thuốc, cạy
răng đổ vào miệng, đổ nước vào, rồi nâng đầu lên cho thuốc chạy
xuống cổ. Trong khoảng bữa cơm, nhan sắc tươi lại như thường. Một nửa
ngày, đứng dậy, đi lại được. Bốn ngày sau, nói năng như bình thường.
Đến đời Đường, có Từ Tri Chương làm bài ký cho miếu thờ của Chân
nhân. Đến thời Đông Pha, người ta vẫn còn đọc được bài ký đó.
Thời Đông Tấn, tăng Tuệ Viễn cất
am tu ở đó, nơi sườn núi bắc; phía dưới có khe Hổ khê, nơi Tuệ Viễn
dừng chân mỗi khi tiễn khách; và trọn đời thề không bước qua khe đó.
Sư cùng mười tám người bạn cùng ẩn cư tại chùa Đông lâm, đời sau kính
trọng, gọi họ là "Đông lâm thập bát hiền".
Trải qua nhiều đời, Lô sơn càng
quyến rũ, từ đạo gia, tăng lữ, công khanh, văn sĩ, thi sĩ, vân vân. Từ
Tấn cho đến Đường, Tống, đã có rất nhiều bài thơ lưu đề rất nổi
tiếng, từ Tạ Linh Vận, Bảo Chiêu cho đến Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch,
Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, vân vân….
Ơ렦#273;ây,
xin trích một ít bài để thưởng thức cảnh trí Lô sơn.
Thơ của Mạnh Hạo Nhiên, buổi chiều
thuyền đổ bến Tầm dương, vọng về Lô sơn:
Quải tịch kỷ thiên lý
Danh sơn đô vị phùng
Bạc châu Tầm dương quách
Thủy kiến Hương lô phong
Thường độc Viễn Công truyện
Vĩnh hoài trần ngoại tung
Đông lâm tinh xá cận
Nhật mộ đản văn chung
Lang thang mấy vạn dặm;
Lô sơn vẫn tít mù.
Bến Tầm dương thuyền đỗ,
Chợt thấy đỉnh Hương lô.
Từng đọc truyện Tuệ Viễn;
Hoài mộ gót phiêu du.
Chùa Đông lâm gần đó;
Sớm tối nghe chuông đưa.
Từ bến Tầm dương, nhìn lên thấy
một ngọn trong dãy Lô sơn, mây vần vũ như khói bốc từ lò hương, ngọn
núi đó gọi là Hương lô phong.
Lý Bạch có đến sáu bài thơ về
Lô sơn. Bài được truyền tụng rất nhiều là "Lô sơn dao", bài
ca từ Lô sơn: "Ta vốn là người cuồng nước Sở, cuồng ca cười Không
Khâu. Tay cầm gậy lục ngọc, sớm từ Hoàng hạc lâu… đi tìm khắp các
núi non, vân vân…" Bài thơ đó dài quá, không tiện trích ra ở đây.
Dãy Lô sơn núi non trùng trùng, mây
bay điệp điệp. Sông hồ in bóng Lô sơn như từng chấm nốt ruồi xanh
xanh trên mặt nước trong xanh kiều diễm. Những thác nước từ chóp đỉnh
cao tuyệt mù đổ xuống, như giải Ngân hà treo chênh vênh bên cầu Tam thạch.
Từ giã sư tăng chùa Đông lâm, Lý Bạch lưu đề bài thơ:
Đông lâm tống khách xứ
Nguyệt xuất bạch viên đề
Tiếu biệt Lô sơn Viễn
Hà phiền quá Lổ khê
Đường Đông lâm tiễn khách
Vượn trắng gọi trăng ngàn
Chào Lô sơn ở lại
Khe Cọp cách hồng trần
Lô sơn ba mặt là nước, một mặt
đất liền. Trước mặt, phía nam, là sông Trường giang đổ vào khúc Cửu
giang. Phía tây là bến Tầm dương, phía đông là bến Bành lãi. Núi có bảy
ngọn lớn chập chùng, chân núi chiếm một khoảng rộng chừng năm trăm dặm.
Cảnh trí hùng vĩ được ông ghi lại trong hai bài thơ, vịnh hai nơi: đình
Thấu ngọc chùa Khai tiên và cầu Tam giáp chùa Thê hiền. Đại khái như
sau:
Đình Thấu ngọc, nói theo nghĩa
đen của nó là đình "đánh răng". Thác nước từ đỉnh cao chót
vót đổ xuống, mà Lý Bạch nói là trông giống như giải Ngân hà đổ xuống;
thác đổ đến phía đông chùa Khai tiên, chảy thành dòng suối; hai bên đá
nhấp nhô như những hàng răng ngọc, có lẽ vì thế mà gọi là Thấu ngọc
đình:
Cao nham hạ xích nhật
Thâm cốc lai bi phong
Phách khai thanh ngọc giáp
Phi xuất lưỡng thanh long
Loạn mạt tán như sương
Tuyệt đàm dao thanh không
Dư lưu hoạt vô thanh
Khoái tả song thạch hồng
vân vân…
Sườn cao tuôn nắng đỏ
Hang sâu động gió rầu
Chẻ đôi mõm thanh ngọc
Hai rồng bạc đổ ào
Bọt nước bay sương trắng
Đầm tuyết rung trời cao
Dòng suối tuôn lặng lẽ
Chảy xiết qua hang sâu
….
Rồi đến cầu Tam giáp, phía đông
chùa Thê hiền. Những tảng đá qua hàng vạn năm thi đua kêu gào với những
dòng nước vỗ ầm như sấm sét. Cầu bắc ngang qua một khe nước sâu hun
hút không thấy đáy. Sóng cuốn những con cá trôi nổi bập bềnh; tiếng
sóng kinh hoàng cho đến vượn khỉ leo lên cây cũng rụng rời rớt xuống
đất. Hơi lạnh thấm vào sương tủy của núi. Cỏ và cây cứng, và gầy.
Giữa lớp mây mù kéo qua các hốc trống, khua lên những âm thanh như tiếng
nhạc tấu lên từ những tiếng kim tiếng thạch. Chiếc cầu uốn cong treo
lơ lửng trên suối như mảnh trăng vòng cung…
Núi non bên trong rầm rộ với những
tiếng reo hò, gào thét như thác nước, của gió ào ạt và mây vần vũ.
Nhưng ở ngoài xa, chỉ thấy chập chùng một dãy núi, ẩn hiện mơ hồ giữa
đám mây trắng và sương mù. Thế thì, đâu là chân diện mục của Lô sơn?
Trong thời kỳ bị biếm trích ở
Hoàng châu, ông mới có dịp lên dạo Lô sơn. Ông nói, khi mới đến Lô sơn,
thấy cảnh núi non thanh kỳ tú lệ, quả là điều mơ ước được thấy từ
trước. Tăng và tục trong núi thấy ông, ai cũng nói: "Tô Tử Chiêm đến
rồi đó".
Ông tự cho là mình có duyên rất
đậm đà với Lô sơn. Trước ngày ông đến, ngài viện chủ Viên thông
thiền viện đã được báo mộng; cho đến chiều hôm sau thì ông lên. Sư
nói: "Hôm qua nằm mộng thấy bửu cái bay xuống, chỗ đó liền có lửa
cháy sáng lên. Há không là điềm báo tốt đẹp cho ngày hôm nay sao? "
Ông cảm động, làm tặng ngài viện chủ một bài thơ thất luật, có hai
câu 5 và 6 như sau:
Tụ lý bửu thơ do vị xuất
Mộng trung phi cái dĩ tiên truyền
Bửu thơ trong tay áo chưa lôi ra,
mà bửu cái từ trời đã bay xuống báo mộng trước.
Ông ghé lại đề thơ nơi sơn phòng
của Lý Thường, tại Bạch thạch tăng xá. Lý Thường, tự Công Trạch, vốn
là bạn của ông. Thường trước khi ra làm quan, đọc sách tại đây. sách
vở chất chứa hàng vạn quyển. Sau khi Thường ra làm quan, chỗ đó được
dọn thành thư viện, lấy tên là "Lý thị sơn phòng". Ông có viết
bài ký cho sơn phòng này. Ông lưu đề tại đây một bài thơ tứ tuyệt:
Ngẫu tầm lưu thủy thượng thôi
ngôi
Ngũ lão thương nhan nhất tiếu khai
Nhược kiến Trích tiên phiền ký ngữ
Khuông sơn đầu bạch tảo qui lai
Ông nói, ngẫu hứng lần theo dòng
suối mà lên đến chỗ cao chót vót đó. Ngọn Ngũ lão, như năm ông lão da
mồi, cùng nở nụ cười chào đón. Nếu có gặp Trích tiên Lý Bạch, nhớ
nhắn hộ là bao giờ đầu tóc bạc trắng hãy trở về Khuông sơn, tức Lô
sơn. Ông nhắc đến Lý Bạch, có lẽ gợi hứng từ bài thơ "Trông về
ngọn Ngũ lão trên Lô sơn" của Lý Bạch với lời hẹn trong hai câu thơ:
Cửu giang tú sắc khả lãm kết
Ngô tương thử địa tỏa vân tùng
Lô sơn với dòng Cửu giang thanh kỳ
tú lệ, sẽ chọn nơi này để khóa cửa tùng cao vút tận mây.
Đến chùa Đông lâm, ông đề một
bài tứ tuyệt lên vách, và kể từ đó, Lô sơn trở thành một ẩn ngữ kỳ
lạ cho thi ca:
Hoành khan thành lãnh trắc thành
phong
Viễn cận cao đê các bất đồng
Bất thức Lô sơn chân diện mục
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung
Lô sơn, được nhìn ngang, nó như một
dải núi dài; nhìn nghiêng, lại thấy nó là một ngọn núi cao. Nhìn thấy
gần, hay xa, thấy núi cao hay núi thấp. Lô sơn ẩn hiện thiên hình vạn trạng.
Vậy thì, chân diện mục của Lô sơn làm sao mà biết cho nổi? Cứ vào
trong núi thì biết.
Một bài thơ khác, được truyền tụng
thịnh hành trong giới Thiền tông, nói là của ông. Nhưng không rõ ông làm
lúc nào. Trong các tập thi văn của ông, không thấy có. Bài thơ nói khá
tinh tế về đạo Thiền, cũng khó biết rõ chân diện mục như Lô sơn.
Lô sơn yên tỏa Triết giang triều
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô sơn yên tỏa Triết giang triều
Bài dịch thơ bằng tiếng Việt hay
nhất (không nhớ dịch giả):
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Khi chưa đến đó hận muôn vàn.
Đến rồi về lại không gì lạ.
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Sách Tục Truyền đăng lục chép:
"Dòng thiền Huệ Năng, đời
thứ 14, pháp tự của Đông Lâm Chiếu Giác Thường Tổng thiền sư: Nội hàn
Tô Thức cư sĩ.
"Nội hàn, Đông Pha cư sĩ, Tô
Thức, tự Tử Chiêm. Nhân ngủ đêm tại chùa Đông lâm (trên Lô sơn), cùng
với Chiếu Giác luận về đề tài "vô tình", rồi tỉnh ngộ.
Sáng ra, làm bài kệ trình sư :
Khe thanh tiện thị quảng trường
thiệt
Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân
Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ
Tha nhật như hà cử tợ nhân
Suối reo vẫn Pháp âm bất tuyệt
Màu non kia Chân thể Như lai
Đêm đó tám vạn bốn nghìn kệ
Ngày sau nói lại làm sao đây?
"Ít lâu sau, đến Kinh nam. Nghe
đồn thiền sư Ngọc Tuyền Thừa Hạo, biện luận sắc bén đụng không nổi.
Ông mới thay đổi y phục, trá hình tìm đến xin ra mắt. Hạo hỏi:
" - Tánh danh của tôn quan?
"Ông đáp:
" - Tôi tên Cân; tức là Cân hết
thảy các cái Cân trưởng lão trong thiên hạ.
"Hạo hét lên một tiếng, rồi
hỏi:
" - Nặng bao nhiêu?
"Ông không đáp được. Rồi từ
đó khâm phục.
Về sau, qua Kim sơn; ở đó có bức
chân dung của ông. Ông đề giỡn vào đó:
Tâm tợ dĩ hôi chi mộc
Thân như bất hệ chi châu
Vấn nhữ bình sinh hà nghiệp
Hoàng châu Quỳnh châu Huệ châu
Tâm như thanh củi tro tàn
Thân như thuyền lỏng theo ngàn nước trôi
Hỏi ông công nghiệp một đời
Hoàng châu, Quỳnh, Huệ, những ngày những năm.
…"
Hoàng châu, Quỳnh châu, Huệ châu,
vân vân châu; những đoạn đường đày ải; những ngày tháng đoạn trường.
Cuộc đời ông như một con thuyền buông lỏng, thả trôi cho nước cuốn.
Nhưng cuộc thơ của ông thì sao: khổ lụy? Phiêu bồng? Đọa đày? Viễn mộng?
Đâu là chân tướng, chân thể, chân tâm? Chân diện mục của Lô sơn, không
phải là dễ thấy.
Ông bị biếm trích ở Hoàng châu,
rồi sau qua Thường châu; 51 tuổi, được ân xá, chiếu hồi về triều. Cuộc
đời ông bây giờ sẽ bắt đầu một đoạn đường danh vọng gần mức tột
cùng. Sau năm năm trường đày ải, trên đường trở về triều, ngang qua
Tiền đường, ông gặp Dương Kiệt. Dương Kiệt, tự Thứ Công, hiệu Vô
Vi cư sĩ, bấy giờ đang làm quan ở bộ Lễ, Kiệt vâng mạng triều đình
hộ tống vương tử Triều tiên, đạo hiệu Nghĩa Thiên tăng thống, đi du
lãm các danh thắng vùng đất Giang nam. Ông làm bài tiễn Dương Kiệt và tự
viết lời dẫn cho bài thơ:
"Vô Vi cư sĩ đã có lần phụng
sứ lên Thái sơn tuyệt đỉnh, được thấy mặt trời lúc gà bắt gáy nửa
đêm. Lại đã có lần hữu sự ngang qua Hoa sơn, ngày trùng cửu (ngày lễ
hoa cúc, mồng 9-9), uống rượu trên ngọn Liên hoa phong. Nay ông lại phụng
chiếu cùng Tăng thống Cao ly sang chơi Tiền đường. Tất cả đều là do vương
sự mà lại được cái vui thế ngoại. Quả là kỳ diệu, chưa từng có."
Lời dẫn hé cho thấy một góc trời
trong cõi thi ca của ông; một góc cạnh nào đó của Lô sơn chân diện mục.
Cuộc chơi trong cõi mộng của thi ca còn có phong độ phiêu bồng của những
cuộc giao tình phương ngoại; cuộc giao tình với ngoài kia những phương trời
diệu vợi. Lô sơn hùng vĩ, phiêu bồng, nhưng u ẩn. Lòng núi dấu kín những
tâm sự nghìn năm không nói; lòng núi ủ kín những cuộc đời trầm mặc;
những thân thể khô gầy như hạc như trúc, những tâm hồn nguội lạnh như
tro tàn mùa đông. Núi âm thầm, cho gió ngàn gào thét, cho mây trời vần vũ,
và những dòng thác từ trên tuyệt đỉnh cao mù đổ ào xuống. Lô sơn đồng
vọng một cõi thi ca bát ngát. Cõi thi ca trùng trùng điệp điệp những ẩn
ngữ kỳ diệu. Khách phàm trần bươn bả, thuyền đỗ bến Bành lãi hay Tầm
Dương, chỉ thấy đó là một cõi đẹp của khói mờ sương phủ; chỉ thấy
đó là một bầu trời trong chiều tà rồi nắng quái, trong nắng quái rồi
chiều tà. Làm sao thấy và nghe những tình tự u trầm trong đó? Hoặc u trầm,
hoặc cuồng nộ, Lô sơn có thiên hình vạn trạng. Những chiếc nón hoàng
quan của đạo sĩ, những chiếc áo phá nạp của thiền tăng; đầu này vẳng
tiếng Huỳnh đình, đầu kia dội tiếng chuông triêu mộ. Những hình bóng
và những âm hưởng đó, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, bên dòng lịch
sử trường mộng của nhân sinh đổ ầm xuống; có những cuộc thi gan tuế
nguyệt diễn ra trong lạnh lùng, cô tịch. Ngày và đêm, đày đọa hình
hài và tâm trí, đứng trơ vơ, kinh đảm hãi hùng, trên chiếc cầu độc mộc,
bắc ngang qua ghềnh sinh tử. Phương ngoại là cõi của ngày tháng phiêu bồng,
có trăng thanh gió mát, có nắng quái tà dương, có xuân lan thu cúc, có đủ
tất cả mọi thứ thanh nhàn, tiêu sái, phóng dật… mà người đời mong
ước. Nhưng đó chỉ là Lô sơn từ bến Tầm dương nhìn lại, hay từ bến
Bành lãi trông sang. Xa hay gần, cao hay thấp, Lô sơn đẹp trong thiên hình vạn
trạng. Giữa lòng Lô sơn, ngày tháng u trầm trôi qua trong một phương trời
đọa đày viễn mộng. Phải chăng đây đã là nơi sơn cùng thủy tận của
một cõi thi ca bát ngát?
Từ khi bước ngang qua:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
(Kiều)
Và từ đó đã bước ngay vào một
trường thiên lịch sử đọa đày, khổ lụy:
Mối tình đòi đoạn vò tơ
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
(Kiều)
Tình cố quận, tình tha hương,
trong những ngày lưu lạc, và chân trời phương ngoại cho những ngày tháng
tiêu dao, hồn thơ bay cao vút đến mấy vạn trời mây, vẫn còn đồng vọng
Lô sơn; một chiếc cầu độc mộc cheo leo, bắc ngang qua bên này và bên
kia, hai bên bờ của một cõi sống và chết, mà bên dưới là vực thẳm
tuyệt mù, dội lên những ẩn ngữ kỳ lạ của dòng lịch sử kinh hoàng,
trôi ào ạt trong cái lặng lẽo vô thanh vô tức. A宠ngữ cùng tuyệt của thi ca đồng vọng từ đó, hay từ
đâu? Lô sơn đẹp trong thiên hình vạn trạng, và chân diện mục của Lô
sơn ra sao?
Ông viết về Sâm Liêu Tử, một người
bạn trong mối giao tình thi ca, và trong cuộc giao tình phương ngoại:
"Đông Pha cư sĩ nói: Thưa! Sâm
Liêu Tử, có cái thân lạnh mà đạo giàu. Văn thì rành rõi mà nói năng chậm
chạp. Bên ngoài mềm nhũn mà bên trong cứng cỏi. Đối với người thì
không ganh đua mà đối với cái quấy của bạn bè thì hay châm chọc. Hình
khô tâm tro lạnh mà thích nói lời cảm khái với thời, thưởng ngoạn với
vật, và không thể vong tình. Đó là chỗ mà tôi gọi là Sâm Liêu Tử có
năm điều không thể hiểu."
Xưa kia, Lý Bạch cũng có một người
bạn tên Sâm Liêu Tử. Đông Pha cũng có một ngưòi bạn như vậy. Sâm
Liêu Tử của Đông Pha là biệt hiệu của tăng Đạo Tiềm, một sư tăng
tu ở Tiền đường. Đạo Tiềm rất thích thơ. Trước khi Đông pha đáo
nhiệm Tiền đường hai người đã biết nhau, qua giấc mộng. Nên khi tới
Tiền đường, Đông Pha liền đi tìm gặp ngay Đạo Tiềm, rồi viết Ứng
mộng ký (?). Hai người qua lại và làm thơ với nhau. Thơ của họ được
khắc nhiều nơi các vách đá trong vùng Giang Triết.
Năm Nguyên hựu thứ 6 (1091), từ Tiền
đường, ông được lịnh gọi trở về triều, ông để lại bài từ, theo
điệu "Bát thanh cam châu", tặng Sâm Liêu Tử:
Hữu tình phong vạn lý quyển triều
lai,
Vô tình tống triều qui.
Vấn Tiền đường giang thượng,
Tây hưng phố khẩu
Kỷ độ tà huy.
Bất dụng tư lương kim cổ,
Phủ ngưỡng tích nhân phi,
Thùy tợ Đông Pha lão,
Bạch thủ vong ky.
Ký thủ Tây hồ tây bạn,
Chánh xuân sơn hảo xứ
Không thúy yên phi
Toán thi nhân tương đắc,
Như ngã dữ quân hi.
Ước tha niên đông hoàn hải đạo,
Nguyện Tạ công nhã ý mạc tương vi.
Tây châu lộ,
Bất ưng hồi thủ,
Vị ngã triêm y.
Hữu tình thì ngọn gió từ một vạn
dặm cuộn sóng tới. Vô tình thì đưa con sóng trở về. Thử hỏi, trên
sông Tiền đường, và phố khẩu Tây hưng, qua mấy độ tà huy? Không kể
gì kim hay cổ; cúi và ngước, thấy người xưa đã khác. Xem chừng lão Đông
Pha, đầu bạc dửng dưng đời.
Nhớ lấy cảnh bờ tây của Tây hồ,
sắc xuân lồng lộng, trời xanh thăm thẳm, khói mưa mù. Người thơ tương
đắc, như tôi với Ngài, phỏng được bao nhiêu? Hẹn sang năm, vượt bỏ
dặm ngàn trở lại đây, giữ mãi tấm lòng hoài vọng không bao giờ thôi.
Đường Tây châu, đừng có quay đầu, vì tôi mà đẫm áo.
Đó là cuộc giao tình tương đắc
của những người bạn thơ. Ngoài cuộc đó, còn là cuộc giao tình phương
ngoại. Phương ngoại du, là cuộc chơi của những mặt công hầu rám nắng,
trong một thuở tạm thời rửa mặt đi bàn chuyện Không hư, bàn cái Không
và cái Hữu của tử sinh trường mộng. Thì ở đó, một tấm lòng thơ đã
mở ra bao trùm cả hai cõi. Lời thơ sẽ lai láng cho tình thơ nồng nàn. Lời
thơ sẽ điềm đạm cho trời thơ nghiêm nghị. Lời thơ sẽ phiêu bồng cho
trời thơ lãng đãng. Lời thơ sẽ ngậm ngùi cho trời thơ cô tịch. Lời
thơ sẽ cay đắng cho trời thơ đày đọa. Lời thơ vần vũ, và trời thơ
trùng trùng điệp điệp bao la. Làm sao để mở rộng tấm lòng của mình
cho thành tấm lòng của trời thơ lồng lộng, nhìn thẳng vào chân diện mục
của Lô sơn, ba mươi sáu ngọn núi xanh cao ngất?
Thơ ông tiễn Đạo Tiềm nói:
Thượng nhân học Khổ Không
Bách niệm dĩ hôi lãnh
Kiếm đầu duy nhất quyết
Tiều cốc vô tân dĩnh
Hồ vi trục ngã bối
Văn tự tranh ủy bính
Tân thi như ngọc tiết
Xuất ngữ tiện thanh kỉnh
Thối Chi luận thảo thơ
Vạn sự vị tường bính
Ưu sầu bất bình khí
Nhất ngụ bút sở sính
Phả quái Phù đồ nhân
Thị thân như khâu tỉnh
Đồi nhiên ký đạm bạc
Thùy dữ phát hào mãnh
Tế tư nãi bất nhiên
Chân xảo phi ảo ảnh
Dục linh thi ngữ diệu
Vô áp Không thả Tĩnh
Tĩnh cố liễu quần động
Không cố nạp vạn cảnh
Duyệt thế tẩu nhân gian
Quán thân ngọa vân lĩnh
Hàm toan tạp chúng hảo
Trung hữu chí vị vĩnh
Thi Pháp bất tương phương
Thử ngữ đương cánh thỉnh
Đó là một bài thơ, hay một bài văn
luận về phép làm thơ, gọi nó là thế nào cũng được. Lô sơn có thiên
hình vạn trạng, nhìn ngang hay nhìn dọc, tùy. Ông nói, đại khái như thế
này:
Thượng nhân học về cái lẽ Khổ
Không; một trăm thứ niệm tưởng đã thành tro lạnh hết. Cũng tợ thể
vung lưỡi kiếm một cái là y như gió thổi chẻ hạt thóc lép, không còn
chút bụi cám. Tại sao ngài lại phải chạy theo bọn tôi, tranh đua cái vẻ
rực rỡ của văn tự? Bài thơ bọn tôi mới làm, nó đẹp như tán vụn
viên ngọc lóng lánh; lời thơ vừa ra là đã trong veo kỳ lạ. Hàn Thối
Chi (Hàn Dũ), luận cách viết chữ thảo, mà chưa hề bỏ bê mọi việc.
Cái u sầu, cái khí bất bình, nội một nét bút là hàm tất cả.
Lạ thay, những người đi tu Phật,
coi thân này như là gò, như là giếng, chật hẹp và tù túng, nên chịu cảnh
đạm bạc trơ vơ, thì đi bộc bạch cái hào, cái mãnh với ai?
Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì không phải
thế. Cái ảo diệu không phải là cái ảo ảnh. Muốn cho lời thơ tuyệt
diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên
thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn
sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây
cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt
vời.
Thơ và Pháp (Đạo) không chống
trái nhau, không hại nhau. Cái đó lại nhờ Thượng nhân hạ quyết.
Nhờ hạ quyết? Không nhờ, cũng đã
quyết. Người học Thiền, học từ cái khổ đau, hư ảo; học cho thân
tâm ra là thứ tro tàn nguội lạnh. Học như thế là học để mà đoạ đày.
Sở đạt của sở học đó, là buông thả, hóa thành cái Không và trở
thành cái Tĩnh. Buông thả, thì không câu chấp, không còn bị ràng buộc. Cũng
tiêu dao như hồn thơ thoát sái và lãng mạn. Tâm Tĩnh, thì trầm lặng như
mặt nước không gợn sóng, phản chiếu trọn vẹn ngoại cảnh. Tâm Không,
thì Tâm rộng như mặt biển bao la, dung nạp tất cả ngân hà tinh đẩu.
Người học Thiền chịu đọa đày cho thân mình gầy, cho tâm mình nguội,
trong đó có cái diệu dụng phi thường của nó. Người làm thơ, cuộc đời
bị đày ải truân chuyên, trong đó cũng có cái ảo diệu của vị chua, vị
mặn. Suốt đời học Thiền; suốt đời vẫn đày đọa thân tâm; đày đọa
trong cái Không và cái Tĩnh. Đày đoạ đó, mà kỳ thực không là đày đọa.
Cũng vậy, suốt đời làm thơ, thì suốt đời khổ lụy lao đao; nhưng không
là khổ lụy lao đao. Chỗ ảo diệu đó, chưa đạt đến cõi thượng thừa
của thi ca, làm sao hiểu nổi?
Nhưng, ai nói người học Thiền phải
chịu đày đọa thân tâm? Họ nhàn hạ, họ thong dong, họ tiêu sái; họ
lãng đãng như Lô sơn thấp thoáng giữa mây trắng và sương mù. Tuy nhiên
như thế, nhưng ai quyết rằng tâm hồn đó trầm mặc như nước hồ không
dao động? Giữa lòng Lô sơn, giải Ngân hà trên bầu trời cô tịch không
ngừng đổ xuống ầm ầm như sấm sét.
Thi sĩ và Thiền sư cùng lao đao, và
cùng tiêu sái, trong cùng một cõi trầm mặc phiêu bồng, vừa Không vừa Tĩnh.
Ngọc đường kim mã hay Giang bắc Giang nam; hay lão thần cô quạnh nơi Hoàng
châu, Huệ châu... , đày ải hay không đày ải, hồn thơ vẫn điềm đạm
bao la trong thơ huy hoàng bát ngát.
Thế thì, cái chỗ đọa đày viễn
mộng nghe chừng như là phải kinh hoàng táng đảm, nó làm cho đất liền
cũng trở thành sa mạc, với nóng cháy và với gió rét kinh hồn. Thế mà lại
khác hẳn. Đó là cái Không Không và Tĩnh Tĩnh, cõi của mây trời trên đỉnh
núi. Khách phàm trần chưa bước tới nổi, nên cứ tưởng là nơi khổ lụy
tột cùng, hoặc huy hoàng tráng lệ. Cả hai, vừa phải vừa không phải.
Lô sơn có thiên hình vạn trạng. Cõi thơ có trùng trùng ẩn ngữ.
Đạt tới cõi thượng thừa của
Thơ, như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo; cái đó vừa
khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa thân tâm, mà
không thành. Phẫn chí, bỏ đi; bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi
Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng
cho thông. Cho nên, không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo
đây là chân diện mục của nó. Nói được một cách dễ dãi, hay không dễ
dãi, như thế chẳng khác nào đàn bà con nít cũng biết giảng chỗ ảo diệu
của Ngộ Thiền. Ông viết trong bài bạt của khắc kinh Lăng già như thế
này:
"… Chỉ lấy theo chỗ giản tiện;
được một câu kinh, một bài kệ, tự cho là liễu chứng. Cho đến cả bọn
đàn bà, con nít, dong tay cười giỡn, đua nhau bàn bạc hương vị Thiền. Kẻ
cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó không đâu
không chảy tới. mà cái vi diệu của Phật Pháp đã mất rồi. Chẳng khác
nào thầy lang quê mùa… (may mà chữa lành bịnh nhẹ)…"
Đại khái, nơi cõi Thiền cũng có
cái khó phân biệt Chân và Ngụy. Cõi thơ há lại không? Nhưng chỉ thẳng
vào chỗ đó, không thể được. Nó không phải là chỗ dị đồng giữa
con chó và con cọp, hay giữa cọp thực và cọp giấy.
Quả nhiên, điều thấy rõ là ông
đã giảng giải thế nào là Thơ, và thế nào là Thiền. Và cũng thấy rõ
là trong đó có chỗ đồng và chỗ dị. Nhưng chỉ thẳng vào những chỗ
đó, thiên nan vạn nan.
Có thể đọc lại bài thơ ông tặng
Đạo Tiềm, đã dẫn ở trên kia. Bài thơ:
Vị văn Lô nhạc đa chân ẩn
Cố tựu cao nhân đoạn túc phan
Dĩ hỉ Thiền Tâm vô biệt ngữ
Thượng hiềm thế phát hữu thi ban
Dị đồng mạc vấn nghi tam ngữ
Vật ngã chung đương phó bát hoàn
Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ
Cử đầu tam thập lục thanh sơn.
Tống Triết tông, năm đầu niên hiệu
nguyên hựu (1086), vương tử Cao li, Tăng thống Nghĩa Thiên, sang thăm Trung
Hoa, tìm hiểu Phật giáo Hoa Nghiêm tông. Vua sắc chỉ Đông kinh Giác nghiêm
Thành thiền sư ứng đối. Thành đề cử sư Tịnh Nguyên ở Tiền Đường,
thay thế mình. Vua mới lịnh cho Dương Kiệt hộ tống Nghĩa Thiên tăng thống
đến Tiền đường. Các tự viện làm lễ đón và đưa rất rầm rộ.
Khi Nghĩa Thiên mới đến Kinh sư,
vua sắc Lễ bộ Tô Thức tiếp đón. Rồi đến yết Viên chiếu. Bản thiền
sư, thảo luận về tông chỉ Phật Pháp. Sau đó, đến Kim Sơn. Ở đó, Phật
Aᮠngồi mà đón và nhận lễ cúng nạp. Dương Kiệt kinh ngạc hỏi. Phật
Aᮍ đáp: Nghĩa Thiên là tăng nước ngoài, nhưng luật của người xuất
gia không phân biệt biên vức quốc gia, do đó, không vì Nghĩa Thiên đến với
tư cách một vương tử ngoại quốc, được triều đình đãi như một thượng
khách, mà sư phải theo cách tiếp đãi của triều đình. Triết tông biết
việc đó, rất khâm phục thái độ của Phật Aᮮ Về sau, vua mang chiếc
áo nạp do Cao li tiến cống tặng cho Phật Aᮮ Đông Pha viết bài nạp
tán:
"T Ự A :
"Trưở讧 lão Phật Aᮠđại sư Liễu Nguyên, dạo chơi Kinh sư.
Thiên tử nghe danh sư, đem chiếc áo Ma nạp do nước Cao lệ cống hiến ban
cho sư.
"Khách có người thấy, khen rằng:
Hỡi ôi! Đẹp thay! Chưa từng thấy vậy. tôi và con tôi đã thử nắm vạt
nó trải ra, theo cái chéo nó trương lên mà tung ra; từ phía đông tận đất
Ngung di, phía tây tới Muội cốc, phía Nam Giao chỉ, phía bắc U đô, tất cả
đều nằm trong lỗ kim khe chỉ của tôi cả.
"Phật Aᮠcười hô hố, nói: Aꮠthua
gì! Cái ông nói còn quê mùa lắm. Tôi lấy con mắt Pháp mà nhìn nó, thấy
trong mỗi lỗ kim có vô lượng thế giới. Rồi trong mỗi thế giới đó,
có bao nhiêu chúng sinh, mà mỗi lỗ kim khe chỉ của mỗi chiếc áo chúng mặc
đều là thế giới. Cứ lần lượt như thế cho đến tám mươi lần, mà
quang minh của Phật tôi đều rọi tới, cùng với Thánh đức của Quân thượng
tôi bao trùm như đem biển cả mà đổ vào một lỗ chân lông, như để cõi
đất mà lấp một lỗ kim. Thì những Ngung di, Muội cốc, Giao chỉ, U đô,
có gì đáng nói. Nên biết rằng, chiếc áo nạp đó không phải lớn,
không phải nhỏ, không phải vắn, không phải dài, không phải nặng không
phải nhẹ, không phải mỏng, không phải dày, không phải Sắc không phải
Không. Hết thảy thế gian chịu lạnh đến nứt da, rụng ngón mà áo nạp
đó không lạnh; nóng đến độ đá tan, vàng chảy mà áo nạp đó không
nóng; năm thứ dơ bẩn lai láng của thế gian không làm nó bợn; lửa kiếp
tận hừng hực đốt rụi thế gian mà áo nạp đó không hoại. Sao lại có
tâm tư duy sinh ra nghĩa tưởng hèn kém?
"Nhân đó, người đất Thục là
Tô Thức nghe vậy mới làm bài tán rằng:
Xếp lại mà cất
Thấy nạp không thấy sư
Mặc mà không xếp
Thấy sư không thấy nạp
Chỉ sư với nạp
Phi một phi hai
Chột mắt mà nhìn
Rận rệp rồng voi.
…"
Phật Ấn Liễu Nguyên, hiệu Giác
Lão. Lúc Đông Pha bị biếm trích ở Hoàng châu, thì sư trụ ở chùa Qui
tông, Lô sơn. Hoàng châu và Qui tông đối ngạn, nên ông và sư thường hay
qua lại giao thiệp, trao đổi làm thơ, đi ngoạn cảnh.
Sau sư dời sang ở chùa Kim sơn. Một
hôm, ông đến thăm vào lúc sư đang giảng kinh cho tăng trong chùa. Họ đứng
hai hàng để nghe. Ông đến, sư nói: "Nơi đây không có giường ghế.
Cư sĩ đến, biết ngồi đâu bây giờ?" Ông bảo: "Vậy thì muợn
đỡ tứ đại của Phật Aᮠlàm giường ngồi." Nghĩa là, ông mượn cái
thân tứ đại của Phật Aᮠlàm giường ngồi. Phật Aᮠnói: "Sơn
tăng này có một câu hỏi, nếu thí chủ đáp được, sẽ theo lời cho mượn
thân tứ đại này làm giường ngồi. Nếu không, xin để lại sợi ngọc
đái làm vật trấn sơn môn." Ngọc đái là giải dây buộc ngang lưng của
bậc thượng lưu thời đó, được đem ra đánh cuộc, để làm bửu vật
trấn giữ cửa chùa. Ông liền cởi ngay giải dây đặt lên bàn. Sư hỏi:
"Tứ đại giai không, ngũ uẩn phi hữu. Cư sĩ muốn ngồi vào đâu?
" O⮧ ngẫm nghĩ, chưa kịp trả lời, thì sư đã gọi gấp thị giả
mang sợi đái đi cất, để làm vật trấn sơn môn. Ông làm ngay hai bài thơ
tặng sư (trích một bài đọc chơi):
Bịnh cốt nan kham ngọc đái vi
Độn căn nhưng lạc tiễn phong ki
Dục giao khất thực ca cơ viện
Cố dữ sơn vân cựu nạp y.
Xương gầy giải ngọc buộc sao vô?
Hồ đồ thấp trí chịu thua cơ.
Những mong kiếm chác trò con hát;
Nay để làm duyên với cửa chùa.
Chuyện đó trở thành cái giai thoại
mà người ta truyền tụng là "Ngọc đái trấn sơn môn" rất thịnh
hành.
Năm ông 49 tuổi. Kể từ khi bị biếm
trích ra Hoàng châu đến bây giờ, là đã hơn bốn năm. Tháng 4 năm đó,
Giáp tý (1084), ông được lệnh phải dời sang ở Nhữ châu. Trên đường
đi Nhữ châu, ông gặp Tử Do ở Quân châu. Lúc này, Tử Do ở Quân châu; sư
Vân Am ở chùa Động sơn; Thông thiền sư, người đất Thục, ngụ tại chùa
Thọ thánh. Tối đó, cả ba người cùng thấy một giấc mộng giống nhau.
Họ thấy đi đón Ngũ Tổ Sư Giới hòa thượng. Sư Giới là một thiền sư
đời thứ 9 của dòng thiền Huệ Năng. Cả ba cùng vỗ tay cười lớn:
"Thế gian quả có chuyện đồng mộng, lạ thay!" Ít lâu, thư của
ông đến báo tin là ông đã tới Phụng tân, sẽ gặp nhau trong sớm tối.
Ba người cùng ra ngoài 20 dặm chùa Kiến sơ thì gặp ông. Mỗi người lần
lượt kể giấc mộng của mình. O⮧ mới nói: "Tôi hồi 7, 8 tuổi, có
lần nằm mộng thấy mình làm tăng, qua lại bên Thiểm hữu." Sư Vân
Am cả kinh, nói: "Sư Giới là người ở Thiểm hữu. Tuổi về già, bỏ
chùa Ngũ tổ đến dạo ở Cao an, sau mất tại chùa Đại ngu. Tính ngược
lại, đã đúng 50 năm." Bấy giờ ông 49 tuổi. Vậy, đại khái, đời
trước ông là thiền sư Ngữ tổ Sư Giới. Nhưng nghe nói Sư Giới đã tỏ
ngộ đạo thiền, đã đắc đạo, sao thác sinh ra ông lại phải trải qua một
kiếp lao đao đày ải như thế?
Ông bị đày xuống Quảng đông, rồi
Hải nam, từ năm 59 tuồi, cho đến 66 tuổi thì được tha về.
Trong thời gian này, ông quen thân với
sư Trùng Biện. Ông viết dật sự của sư Trùng Biện, tức Nam Hoa trưởng
lão.
"Thiền sư Khế Tung thường sân;
người ta chưa từng thấy sư cười. Sư Hải Nguyệt Biện thường vui, người
ta chưa từng thấy sư giận. Tôi ở Tiền đường, chính mắt thấy hai vị
đó đều ngồi kiết già mà hóa (chết). Khế Tung đã trà tì (thiêu xác),
mà lửa không hủy hoại. Thêm củi cho lửa đỏ đến năm lần mới thôi.
Hải Nguyệt đến khi táng mà gương mặt vẫn tươi như còn sống, lại
còn cười nụ.
"Thế mới biết, hai người lấy
cái sân và cái hỉ mà làm Phật sự vậy.
"Người đời coi thân hình như
vàng ngọc, không để cho gót chân dính bụi. Bậc Chí nhân thì ngược lại.
Tôi lấy đó mà biết rằng, hết thảy các Pháp đều do ái mà hoại; do xả
mà thường. Há không phải vậy sao?
‘Tôi từ Hải nam trở về, thì
Trùng Biện tịch đã lâu. Qua Nam hoa điếu. Hỏi chúng tăng ở đó về chỗ
mộ tháp của Sư. Họ bảo: "Thầy tôi xưa đã có làm thọ tháp, về
phía đông Nam hoa vài dặm. Có người không ưa thầy, nên táng ở mộ
khác. Đã hơn bảy trăm ngày rồi. Nay Trưởng lão Minh Công ra sức một
mình, dời về thọ tháp. Thay quan, đổi áo, thấy trọn cả thân thể vẫn
như đang còn sống; áo vẫn tươi và thơm. Mọi người hỗ thẹn và kỉnh
phục."
"Đông Pha cư sĩ nói: Trùng Biện
coi thân là vật gì? Vứt nó vào rừng Thi đà để nuôi chim, nuôi quạ, đâu
có sự để ở thọ tháp cho an ổn. Vì là, Minh công là người biết rõ
Trùng Biện, nên đặc biệt muốn lấy sự họa phúc đồng dị mà thôi.
"Tôi mới đem trà, quả đến cúng
ở tháp sư, rồi viết lại sự việc đó để gởi cho thượng túc đệ tử
của sư là sư Khả Hưng. Nam hoa tháp chủ.
"Bấy giờ, niên hiệu Nguyên
phù thứ 3 (1100), tháng 12, ngày 19."
Độ nửa tháng sau, ông viết bài
"Nam hoa trưởng lão đề danh ký"
"Học giả lấy sự thành Phật
làm khó ư? Con nít vọc đất, vẽ cát mà giỡn thôi, cũng đủ thành Phật;
lấy đó mà cho là dễ ư?
"Những bậc đã được thọ ký,
đã đắc đạo, như các vị Bồ tát và các Đại đệ tử (của Phật Thích
Ca) mà còn không dám đi thăm bịnh (cư sĩ Duy-ma-cật); cái nghĩa đó là thế
nào?
"Lúc đang mê loạn điên đảo,
trôi lăn trong biển khổ, mà vừa có một niệm Chân thành, thì vạn pháp
đều có đủ cả. Còn như, cần khổ dụng công, như đắp núi đã cao đến
chín bậc, sau chỉ vì một chút sai sẩy cỏn con mà một nghìn đời không
phục lại nổi.
"Hỡi ôi, Đạo vốn là như vậy
đó!
"Nhưng riêng gì Phật thôi ư?
Thầy Tử Tư có nói: "Hạng phàm phu phụ không ra gì cũng có thể hành
(đạo) được; còn như chỗ tột cùng, thì dù là Thánh nhân cũng có chỗ
chưa đủ sức." Mạnh Tử thì cho rằng Đạo của Thánh nhân bắt đầu
ở chỗ không làm việc trèo tường khoét vách mà cái ác của việc trèo tường
khoét vách đã hiện ở lời nói. Không nói người chưa có ý muốn làm việc
trèo tường khoét vách, thì dù có việc trèo tường khoét vách cũng không
muốn. Từ cái tâm mình không muốn làm mà đi cầu nó (đạo), thì việc
trèo tường khoét vách đã đủ để làm Thánh nhân rồi.
"Đáng nói mà không nói. Không
đáng nói mà lại nói: những điều như vậy, dù là Hiền nhân, Quân tử cũng
không thể tránh khỏi. Nhân từ cái lỗi không thể tránh mà tiến tới,
dù là Hiền nhân Quân tử cũng có lúc phải đi ăn trộm.
"Đó là hai Pháp ngược nhau,
nhưng lạm dụng lẫn nhau. Nho và Thích cũng như nhau ở chỗ đó.
"Nam Hoa trưởng lão Minh Công,
trước kia theo cái học của Tử Tư, Mạnh tử. Sau bỏ nhà theo Phật. Người
không biết, cho là trốn Nho theo Phật, chứ không biết Sư vẫn còn Nho.
"Chùa Nam hoa này, từ Ngài Lục
tổ Đại Giám (Huệ Năng) thị diệt, những người truyền Pháp đắc đạo
đều phân tán tứ phương, cho nên Nam hoa lâu nay là chùa Luật (tông).
"Đến đời Tống ta, trong niên
hiệu Thiên hi thứ 3 (1019) mới bắt đầu có chiếu cử Tri Độ thiền sư
Phổ Toại làm trụ trì. Cho đến sư Minh Công bây giờ, đã được 11 đời.
"Minh Công nói với Đông Pha cư
sĩ: "Tể quan hành pháp thế gian. Sa môn hành pháp xuất thế gian. Thế
gian tức xuất thế gian, như nhau không khác. Nay các tể quan truyền nhau đều
có đề danh ghi lên vách; chỉ riêng sa môn là không có. Vả lại, đạo tràng
tôi ở đây, sửa sang chỗ Phật Tổ thì được, nhưng sự truyền không
nghiêm. Nhờ thầy viết hộ tôi bài ký.
"Cư sĩ thưa: Vâng.
"Rồi luận Nho và Thích
không gặp nhau nhưng đồng nhau, lấy đó làm bài ký này.
"Năm đầu niên hiệu Kiến
trung tĩnh quốc (1101), tháng giêng, ngày mồng 1."
Trên đường về Kinh, ông nằm mộng
thấy làm một bài thơ gởi cho Chu Hành Trung. Hôm sau thức dậy, còn nhớ
rõ cả. Và ông chép lại:
Thuấn bất tác lục khí
Thùy tri quí Dư Phiên
Ai tai Sở cuồng sĩ
Bảo Phác hào không sơn
Tương Như khởi nghễ trụ
Đầu bích tương dữ hoàn
Hà như Trịnh Tử Sản
Hữu lễ quốc tự nhàn
Tuy vi Hàn Tuyên Tử
Bỉ phu diệc hoài Hoàn.
Chí kim bất tham bửu
Lẫm nhiên siêu trần hoàn.
Ít hôm sau, ngày 28 tháng 7, ông mất.
Bài thơ làm trong mộng trên đây được người dời truyền tụng là tuyệt
bút của ông.
Nếu vua Thuấn không chế ra sáu thứ
dụng cụ, ai biết ngọc Phiên, ngọc Dư của bậc quân vương là quí ?
Cuồng sĩ nước Sở có viên ngọc
phác, nhưng trong đời không ai cho đó là ngọc, mà coi nó là đá cuội,
nên thương thay! ôm ngọc mà kêu gào với núi hoang.
Khi người ta nhận được ngọc Bích
là quí, thì Lạn Tương Như cầm nó trong tay, liếc nhìn cái trụ, quyết ý
đầu và ngọc sẽ cùng nát cả, thế mà hăm dọa được vua Tần, mang được
trọn vẹn cả đầu cổ và ngọc Bích trở về Triệu.
Trịnh Tử Sản hộ tống Trịnh bá
sang Tấn. Tấn hầu vì cớ có tang, không chịu tương kiến. Tử Sản cho phá
sập nhà cửa, tường vách của Tấn, cho là chỗ chật hẹp, không phải lễ
đãi khách đối với chư hầu như vậy. Làm dữ, thế mà quốc gia nhờ đó
lại được yên ổn, vì là có lễ. Nhưng có cần làm vậy ư?
Có gia bảo ngọc Hoàn như Hàn
Tuyên Tử, dù đến khi nghèo kiệt, bọn đầy tớ trong nhà cũng có ngọc
mà đeo.
Cho đên bây giờ, ta vẫn chưa hề
tham đến những món quí, món báu. Cho nên, hiên ngang lẫm liệt đứng cao vọi
bên trên tất cả cõi đời.
Đó là những lời tuyệt bút? Được
truyền tụng là như thế. Và tuyệt bút của một người trong mộng. Trong
cõi mộng, tâm sự của khách tài hoa nó kiêu hùng trong phong độ lẫm liệt
hiên ngang. Tài hoa lãng mạn bát ngát như Lô sơn ẩn hiện giữa mây trắng
và sương mù. Lẫm liệt siêu trần hoàn cũng y thể như ngọn Lô sơn sừng
sững giữa một cõi trời cô tịch.
Học thơ, và làm thơ, đạt đến cõi
thượng thừa lẫm liệt của trời thơ, đến chỗ tài hoa tuyệt đỉnh của
trời thơ; như viên ngọc quí giá vô tận. Đời không biết tới, người có
nó cũng khổ lụy kêu gào với ngọn núi hoang vắng cô liêu. Mà đời biết
đến nó, thì cũng khổ lụy kỳ cùng cho người có nó. Có, hay không có
cái tài hoa tuyệt thế, cái lẫm liệt siêu trần, của một viên ngọc
quí, vẫn là những cái làm khổ lụy cuộc đời. Khổ lụy, và triền
miên khổ lụy, nó là thứ gì? Và tại sao lại có nó? chân diện mục của
Lô sơn được gói trọn vào trong một câu hỏi này ư? Nếu thế thì, Lô sơn
trùng trùng điệp điệp, không làm sao bước tới, cho thấy tường tận chân
diện mục nó. Nhưng người dù đã bước tới, tận vào chỗ sơn cùng lộ
tuyệt của nó, cũng không làm sao nói lại được một góc cạnh của cái
thấy đó. Rồi từ đó, đột nhiên, trời Thơ trở nên là một, hay là những
phương trời đọa đày viễn mộng. Đọa đày cho đến kỳ cùng, đọa đày
cho thành kỳ diệu tuyệt mức.
"Lao viễn mộng", đọa đày
viễn mộng, của nhà thơ đó, một chân diện mục của Lô sơn mà khách trần
tục lụy, nghìn đời không sao hé thấy.
Cõi thơ mở ra, và khép lại trong một
cõi mộng không lời.
Từ bến Tầm dương, hay bến Bành
lãi nhìn lên, Lô sơn khói tỏa sương mù.
- Chân diện mục của Lô sơn?
- Chân diện mục của Lô sơn
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vh/007-loson.htm