- Triết học Trần Thái Tông
- Nguyễn Đăng Thục
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay
chỉ gồm có Bộ- Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển
Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
Về Bộ Khóa-Hư-Lục, Trần-Văn-Giáp trong Bulletin de
Société des Etudes Indochinoises, Nouvelle série TXIII n. 1, 1938 ở mục
truyện-ký-loại có viết như sau : "Tác-phẩm do Trần-Thái-Tông
viết về sự chiêm ngưỡng những vẻ đẹp của thiên nhiên và về
vấn đề sống chết. Sách viết vào thời-kỳ Trần-Thái-Tông
nhường ngôi để chuyên vào học-tập Thiền.
Chúng tôi còn giữ được ba bảng của sách ấy. Bản
thứ nhất là một bản viết tay nhan đề Thiền Tôn Khóa-Hư-Lục, ghi
chú Tào-Động-Thiền-Tông và một bài tựa vô danh, vào năm thứ
ba Đức-Long, Tân-Mùi (1631) cùng một mục-lục của 3 quyển. Sau đấy
có một nhan hiệu nữa là Thái-Tông Hoàng-Đế ngự chế
Khóa-Hư-Lục và thêm ghi- chú "do Thận-trai Thiền-tử Đạo-hiệu
là Huệ Tĩnh tự Vô Dật giải ra chữ Nôm".
Toàn tập có kèm bài hậu bạt không tác giả và
không niên lịch. Hai bản khác mang nhãn hiệu là
"Khóa-Hư-Tập". Bản thứ nhì là bản in gỗ có bài tựa
cùng năm ấy của Nguyễn-Thận-Hiên, đạo hiệu là Đại-Phương và
theo phẩm tước thì là Nguyễn-đăng-Giai. Bản sau cùng do nhà sư
Phúc-Điền xuất bản cùng thời ấy". (Trần-văn-Giáp
phụ-khỏa EFEO)
Và E.Gaspardonne, hội viên E.F.E.O cũng viết trong
(Biliographie Annamite) "Thư-tịch Việt Nam rằng :
"Tác phẩm ấy cũng có nhan đề là Khóa-Hư-Tập
Trần-Thái-Tông viết sau khi đã thoái vị rút vào Thiền-học, khoảng
năm 1258 1277 theo Việt-sử tiêu-án của Ngô-thời-Sĩ,
Phan-Huy-Chú Q. 45 tờ 1 và sử-ký Q. 5 tờ 49, năm Bảo-phù thứ 5.
Người ta thấy có nhiều mộc-bản của chùa về một tác-phẩm cùng
tên ấy gán cho Trần-Thái-Tông. Sách chia làm ba quyển chừng bốn
mươi mấy tờ với bài tựa năm Minh-Mạng thứ 21 (1840) của Tổng
đốc Nguyễn-Thận-Hiên pháp-danh Đại-Phương với lời giải bằng
chữ nôm của nhà sư An-Thiền, chùa Đại-Giác. Thận-Hiên là một
tên hiệu, có lẽ là Nguyễn-Đăng-Giai. Có một bản viết tay của
E.F.E.O. với một bài tựa vô-danh vào năm Long-Đức thứ ba (1734)
và một bài giải bằng chữ Nôm của nhà sư Tuệ-Tĩnh. Bài tựa
của Tổng đốc Nguyễn giải nhan-đề sách như sau : "Tâm đương
hư dã, thời bất khả hư dã, nhi công khóa vưu bất khả thời khắc
hư dã." "Lòng nên hư không, thường không có thể hư
không được mà công-phu học-tập càng không có thể có một phút
hư không được vậy." (Xem bản dịch bài tựa của Thận-Hiên)
Về tác-phẩm thứ hai của Trần-Thái-Tông là
Ngự-Tập thì Phan-Huy-Chú có nhận-định rằng thơ-văn ở đấy có
một thể văn sáng-sủa và vận-điệu trong-trẻo. Để chứng-minh
Phan-Huy-Chú có dẫn một bài thơ mà nhà vua tặng nhà sư ở am
Thanh-Phong. Bài thơ ấy được sưu tập trong "Việt-âm
thi-tập" ở trong Hoàng-Việt thi-tuyển. "Việt-âm
thi-tập" có dẩn một bài thứ hai của Trần-Thái-Tông, tặng
cho sứ Tàu Trương-hiển-Khanh (Tống Bắc-sứ Trương-hiển-Khanh).
Trên đây là những nhận-định có căn-cứ chính-xác
có phê-phán khoa-học về tác-giả của sách Khóa-Hư-Lục. Gần đây
có kẻ nêu lên ý-kiến hoài-nghi vu-vơ không căn-cứ vào đâu cả.
Ví dụ Thiều-Chửu, dịch-giả Khóa-Hư-Lục viết :
"Nguyên-văn chữ Hán chép là của Vua
Trần-Thái-Tông soạn, nhưng "căn-cứ" vào sử và xét đến
bài lúc thăm cụ Huyền-Quang ở Yên-tử và mấy lời đức
Trần-Hưng-Đạo mời về thì sách này là của vua Trần-Nhân-Tông
soạn. Dịch-giả đem ba bản Khóa-Hư-Lục ra mà xét, để tìm lấy sự
thực, thì dám cả quyết rằng những bản chép của vua Thái-Tông là
sai".
(Thái-Tông Hoàng-Đế ngự-chế Khóa-Hư-kinh. Dịch giả
Thiền-Chữu diễn-nghĩa. Nhà in Hưng-Long Sài-Gòn 19 - 4 - 61)
Lời phê-bình trên đây thật là vô-lý và hàm-hồ.
Căn-cứ vào sử nào mà thấy có việc Hưng-Đạo vào Yên-tử
mời vua Nhân-Tông về? Trái lại sử chỉ chép Trần-Nhân-Tông có
những tác phẩm như "Thiền lâm thiết-chủy ngữ-lục",
"Đại-hương hải-ấu thi tập", "Tăng-già toái-sự",
"Thạch-thất mỵ-ngữ". Tuyệt nhiên không thấy sử nào chép
tác-phẩm Khóa-Hư-Lục là của Trần-Nhân-Tông cả. Vả lại bài
"Thiền Tông chỉ nam tự" còn sờ-sờ đó, nội-dung lời lẻ
của ai? Ai bị ép lấy chị dâu để phải bỏ vào núi! Ai là bạn của
Quốc-sư Phù-Vân? Ai mồ-côi từ sớm? Tư tưởng trong
"Thiền-tông chỉ-nam tự" có hợp với tư-tưởng trong sách
"Khóa-Hư-Lục" không? Giọng thơ văn củaThái-Tông và
Nhân-Tông khác nhau thế nào. Sự việc cách nhau một đời vua
Thánh-Tông (1259 1294) làm sao có thể lẫn lộn được?
Nay xét vào nội-dung của những tác-phẩm trên để
tìm hiểu mạch-lạc tư-tưởng của tác-giả xem có thật xứng danh là
"Bó đuốc Thiền-học Việt-Nam" không? Và Thiền-học của
tác-giả có những đặc-điểm gì?
TRIẾT-HỌC TRONG BÀI "THIỀN-TÔNG CHỈ-NAM-TỰ"
Phiên dịch :
"Trẫm trộm nghĩ Phật coi như chân lý thì không có
phân biệt ra Nam-phương hay Bắc-phương, đều có thể cầu tìm được.
Tính người ta sinh ra có người trí người ngu, nhưng cùng tư-bẫm
khả-năng giác-ngộ. Bởi thế mà giáo-lý của Phật ta để dạy
quần chúng mê-lầm phương-tiện giải-thoát, đường tắt thấu tỏ
lẽ sống chết. Trách nhiệm nặng của Thánh hiền trước là cầm cân
công-lý cho đời này, làm khuôn-phép cho đời sau vậy. Cho nên
Lục-Tổ Tuệ-Năng đã có nói : "Tiên-Đại Thánh-nhân dữ
Đại-sư vô biệt nghĩa là Đại-thánh với Đại-sư không có gì
phân biệt." Đủ biết giáo-lý của Phật ta lại mượn tay
Thánh-Hiền để truyền-bá ra đời. Nay Trẫm làm sao có thể không
lấy trách nhiệm của Tiên-Thánh làm trách nhiệm của mình, giáo-lý
của Đức Phật làm giáo-lý của mình?
"Vả lại Trẫm đây từ trẻ thơ mới có trí
hiểu-biết, sớm đã được nghe lời dạy của Thiền-sư liền lắng
suy-tư dẹp nghĩ-ngợi, rất mực thanh tĩnh, có tâm chuyên vào
nội-giáo, hỏi-han xem-xét về Thiền Tông. Lòng vô tư tìm thầy,
thành tín mộ Đạo. Tuy bấy giờ ý-chí nội-hướng đã manh-nha mà
động cơ cảm-xúc còn chưa đạt được.
"Năm mười sáu tuổi thì Thái-hậu, mẹ Trẫm đã
chán cõi đời. Trẫm những nằm rơm, gối đất, khóc ra máu mắt,
lòng đau như cắt. Đang lo-phiền đau đớn không còn nghĩ đến chuyện
gì. Được vài năm thì Thái-tổ cha Trẫm lại cũng tạ-thế. Thương
mẹ chưa khuây, xót cha càng thấm thía. Bồi hồi ngao-ngán khó nguôi
nổi lòng. Trẫm nghĩ tình cha mẹ đối với con : vỗ về, nuôi nấng
chẳng thiếu bề gì. Đời làm con dẫu nát xương tan thịt chưa đủ
báo đền muôn phần được một. Huống chi Trẫm xét Thái-Tổ
Hoàng-Đế mở-dựng cơ-nghiệp đã rất khó khăn, sửa nước giúp
đời lại càng hệ trọng. Từ khi Ngài đem ngôi báu trao cho Trẫm
còn lúc trẻ thơ, Trẫm những sớm khuya canh cánh lo sợ không một
lúc nào yên lòng. Riêng thầm nghĩ : Ở trên đã không còn cha
mẹ để nương nhờ, thì ở dưới cũng e không đáp ứng nổi sự
mong mỏi của dân chúng. Biết tính sau đây? Rồi cố tìm, cố nghĩ :
âu là lui về núi rừng, tìm về Phật giáo để hiểu rõ bí quyết
của sống chết mà báo đáp công đức cù lao, được thế chẳng
cũng hay lắm sao?
"Bấy giờ ý-chí của Trẫm đã nhất quyết. Hiệu
Thiên-Ứng Chính-bình thứ Năm (1245), năm Bính Thân, đêm mồng ba
tháng tư, Trẫm nhân mặc áo mỏng thường đi ra cửa cung bảo người
hầu tả-hữu : "Ta muốn đi chơi, nghe trộm lời dân để xem nguyện
vọng của họ, họa may biết được sự khó nhọc của chúng."
Lúc ấy chẳng qua đi theo bên Trẫm độ bảy, tám người. Đêm ấy
vào giờ hợi, một mình một ngựa cất lẻn ra đi. Khi đã qua sông
Nhị hà, liền hướng về phía Đông mà tiến, mới thật tình bảo cho
tả-hữu biết. Họ kinh ngạc, đều ứa nước mắt khóc lóc. Qua sáng
hôm sau vào giờ mão thì đến bến đò Đại Than, dưới núi Phả
lại. Trẫm e có kẻ nhận biết, nên phải lấy vạt áo che mặt mà qua
sông, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối hôm ấy vào nghỉ trong
chùa Giác Hạnh, đợi sáng lại đi. Trèo lội vất vả, núi hiểm,
suối sâu, ngựa mệt không thể tiến được nữa. Trẫm bèn bỏ
ngựa, vịnh vào vách đá mà đi. Đến giờ Mùi mới tới Yên-tử.
Qua hôm sau trèo thẳng lên đỉnh, vào ra mắt Quốc sư Trúc Lâm và vị
Đại-Sa-môn ở đây.
"Thấy Trẫm, Quốc sư mừng vui hớn hở thong thả
bảo Trẫm rằng : Lão tăng ở rừng núi lâu xương cứng, thể
gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh rừng, lòng
nhẹ như mây nổi nên mới theo gió vào đây. Nay nhà vua bỏ địa vị
Nhân chủ, nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn có muốn tìm hỏi
gì mới đến đây?
"Trẫm nghe sư nói, hai hàng nước mắt tự nhiên
không cầm được, nhân mới đáp rằng : Trẫm còn thơ ấu,
sớm mất hai thân, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không chỗ nương tựa.
Nghĩ lại sự nghiệp của Đế vương đời trước thịnh suy khôngg
thường, cho nên vào núi này chỉ cầu làm Phật, không cầu vật chi
khác.
"Sư đáp : Núi vốn không có Phật, Phật tồn nơi
tâm, tâm yên lặng mà biết ấy gọi là Phật thật. Nay nếu nhà vua
giác ngộ được tâm này thì lập tức thành Phật không phải khó
nhọc tìm ở bên ngoài vậy.
"Bấy giờ Trần Công là chú của Trẫm, em họ
Tiên quân, được Tiên quân gửi gắm con côi. Sau khi Tiên quân về
Trời, bỏ lại cõi đời và quần thần, Trẫm tôn chú lên làm
Thái sư (Tể tướng). Thái sư nghe tin Trẫm đi khỏi, bèn chia các ngả
sai tả hữu đi tìm khắp mọi nơi dấu tích. Họ bèn tìm vào trong núi
nầy. Gặp Trẫm, Trần Công thống thiết nói : Tôi chịu lời ủy
thác của Tiên quân, phụng sự nhà vua, làm chủ thần dân. Nhân
dân đang mong đợi ở bệ hạ như con đỏ trông đợi cha mẹ. Huống
chi ngày nay các cố lảo trong triều đình đều là họ hàng thân thích
cả, sỉ thứ trong nước thảy đều vui vẻ phục tòng, đến cả đứa
trẻ lên bảy tuổi cũng đều biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại
Thái tổ vừa mới bỏ tôi, hòn đất trên nấm mồ chưa ráo, lời
dặn dò bên tai còn văng vẳng. Thế mà Bệ hạ trốn lánh vào rừng
núi, ẩn cư để cầu thỏa lấy ý chí của mình. Tôi dám nói : Bệ
hạ vì mục đích tu lấy cho riêng mình mà làm thế thì được, nhưng
còn Quốc gia xã tắc thì sao? Ví để lời khen suông cho đời sau thì
sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Nhà
vua nếu không nghĩ lại, quần thần chúng tôi cùng nhân dân xin cùng
chết ngay hôm nay, quyết không trở về.
"Thấy Thái sư và các Bô lão, quần thần đều
không có ý bỏ Trẫm, Trẫm mới đem lời Thái sư nói với
Quốc-sư. Quốc-sư nắm lấy tay Trẫm mà rằng : Phàm làm đấng
nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình
và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón nhà Vua
về cung, nhà Vua không về sao được? Tuy nhiên sự tìm hiểu về nội
điển của Phật giáo xin mong bệ hạ đừng phút nào quên! Bởi
vậy Trẫm với mọi người trong nước lại trở về Kinh, cố gắng
bước lên ngôi báu, dòng dã trong mười mấy năm trời, mỗi khi
có cơ hội nhàn rỗi việc nước, Trẫm lại tụ họp các bậc kỳ
đức để hỏi Đạo Thiền, kinh sách các tôn giáo chính, không sót
chỗ nào không tham cứu tìm tòi. Trẫm thường ngày tụng đọc kinh
Kim-Cương, có lần đọc đến câu : Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ
tâm nên sinh cái tâm không có cố chấp. Đang lúc đặt
quyển xuống ngâm thì chợt khoát-nhiên tự ngộ. Bỗng nhiên tự
sáng, mới đem giác ngộ ấy làm thành lời ca này đặt tên là
Thiền-Tông chỉ nam. Năm ấy Quốc-sư ở núi Yên-Tử về
kinh-đô, Trẫm mời vào chùa Thắng Nghiêm để mở bản in các Kinh
và đưa tập này cho sư coi. Coi rồi Quốc sư ngậm ngùi và nói : Tâm
các vị Phật ở cả tại đây vậy, sao không khắc in để dạy cho hậu
thế?
Trẫm nghe lời bèn sai thợ viết ra chữ Khải và
truyền cho đem in, không phải chỉ dùng để dẫn bảo đường mê cho
đời sau mà thôi, ý Trẫm còn muốn nối công-nghiệp đức
Tiên-Thánh mà làm cho rộng thêm nữa. Nhân thế mời tự tay viết
bài tựa này.
("Thiền Tông chỉ nam tự" Tựa sách
"Thiền-Tông chỉ nam")
Bài tựa trọng đại trên đây của Trần-Thái-Tông
đã toát-yếu khúc-triết tất-cả triết-lý Thiền của tác giả đã
thực-nghiệm ở chính bản thân trong cuộc đời hành-động
nhập-thế. Nó gồm năm giai đoạn :
1* Khái-quát quan điểm Thiền của tác giả,
2* Ý hướng cầu chân,
3* Luận-điệu của nhà xuất-thế,
4* Luận điệu của nhà nhập-thế,
5* Sự giác ngộ của tác-giả.
KHÁI QUÁT : Mở đầu tác giả giới thiệu tổng quát
cả môt luận án về triết lý Thiền, chú trọng vào một thực tại
làm cơ bản cho toàn thể thế giới sự vật vô cơ, hữu cơ và tinh
thần. Các thực tại ấy là thực tại tuyệt đối, toàn diện mà
tác giả mệnh danh là Phật tức là Phật tính vậy. Phật tính ấy là
Bản thể Đại Đồng; là thực tại tuyệt đối của tác giả quan
niệm cho nên bảo là "Phật vô Nam Bắc" vì không lệ thuộc
vào điều kiện của thời gian và không gian, hoàn cảnh địa lý và
lịch sử. Chính cái thực tại ấy là thực tại siêu nhiên của
triết học truyền thống Đông phương hay là thực tại linh thiên của
cái triết học mà Leibniz mệnh danh là Philosophia Perennis, như Aldous Huxley
mới đây đã giới thuyết : "Triết lý truyền thống
Philosophia Perennis danh từ đã do Leibniz sáng tác nhưng đề tài thì
vốn tự cổ lai và phổ biến. Về siêu-hình-học nó nhận có một
thực tại linh diệu làm bản thể của thế giới sự vật, chúng sinh
và tinh thần. Về tâm lý học nó nhận thấy ở trong tâm hồn có
cái gì tương tự hay đồng nhất với cái Thực tại linh diệu kia.
Về Đạo đức học nó đặt cứu cánh cùng tột của con người ở
sự hiểu biết cái Bản thể tiềm tàng và siêu việt của toàn thể
hiện hữu." (The Perennial Philosophy A. Huxley)
Thái Tông cũng chỉ ngay vào cái thực tại linh diệu
siêu nhiên ấy làm đối tượng không phải chỉ cho suy tưởng mà
chính là đối tượng để sống thực-hiện cả trong tư tưởng lẫn
ngoài hành động. Cái Thực tại ấy, ở đây là Phật tính tuy một
mặt không lệ thuộc vào điều kiện thời gian và không gian, siêu
việt lên trên, nhưng mặt khác đồng thời cũng tiềm tàng linh động
trong thiên hình vạn trạng của vũ trụ sự vật, biến hóa không
ngừng này. Đã biến hóa không ngừng, "trôi chảy ngày đêm
không nghĩ" (Khổng Tử) không có vật gì mãi mãi là A, chỉ có
những quá trình vừa ở điểm A đã sang điểm B lại tự phủ nhận
B để sang C... v.v... Tất cả đều biến đổi như thế, tất cả đều
vận động mà toàn thể vẫn có trật tự, vẫn có điều lý, vẫn
nhắc đi nhắc lại như có nhịp điệu vận hành như bốn mùa đi lại,
cây cỏ sinh trưởng, dị, diệt ấy là vì ở bên trong sự biểu hiện
có cái gì tồn tại làm bản thể chung cho tất cả. Vì bản thể chung
ấy của nhân loại, theo Thái Tông ở đây là Phật tính, bình đẳng
cho nên mỗi người có thể tự tu sửa để cầu tìm "quân khả
tu cầu". Và cũng nhờ có Phật-tính, làm bản-tính chung ấy, cho
nên ở mỗi cá-nhân thông-thường tuy bản-tính ấy tác dụng ra trong
điều kiện sinh sống thực-tế có kẻ trí, khôn ngoan, có kẻ ngu đần
độn, nhưng không một ai là không tư bẩm, có bản tính giác ngộ
của Phật cả, tất cả chúng sinh đều là con Phật, đều bẩm thụ
được Phật tính mà sinh ra cả, khác nhau ở trình độ tác dụng, ở
trình độ biểu hiện hoặc sáng hoặc mờ ví như trăng khi trời quang
hay trời mây vậy.
Và mỗi cá nhân như thế đều ngầm có khả năng
giác ngộ đặng thấy cái Phật tính ấy, đều "Kiến tính", chỉ
cần phải có công phu tu sửa, biến đổi con người hiện tại ở
các trình độ biểu hiện hoặc trí, hoặc ngu, nghĩa làở trình độ
Phật tính bẩm thụ bị che phủ bởi mê lầm nhận giặc làm con, nhận
cái thừng là con rắn, tùy trường hợp ý thức thu hẹp hay mở
rộng, mờ tối hay trong sáng. Kinh Thiên Chúa nói : "Hạnh phúc thay
những tâm hồn trong-sáng, vì chúng thấy Thượng đế." "Benis
soient les coeurs purs parce quils voient Dieu".
Thượng đế đây chính là cái Thực tại tuyệt đối
siêu nhiên mà Thái Tông gọi là Phật, Phật tính hay là Tính vậy.
Khổng tử bảo chỉ có hạng : "Thượng Trí" và
"hạ ngu" mới không có thể giáo hóa để làm cho thay đổi
tính tình đi được thôi. (3 - 27 Luận ngữ). Như thế là Nho học theo
họ không phân biệt tính người có thứ bực và không thừa nhận
có sự bình đẳng về khả năng giác ngộ. Trái lại Thái Tông tuy
công nhận tính người có kẻ khôn người ngu nhưng tư bẩm giác ngộ
thì đồng đều chỉ cần ai nấy nổ lực "tu cầu" là được "Tính
hữu trí ngu đồng tư giác ngộ".
Đấy là một điểm mà Trần Thái Tông đã mượn ở
Phật giáo mà bổø túc cho Nho giáo, khiến Nho giáo thêm phần cởi
mở vậy.
Điểm thứ hai Thái-Tông tìm để bổ túc Nho-giáo là
vấn-đề siêu-hình-học vô cùng trọng đại cho nhân loại, vấn-đề
sống chết. Thái-Tông viết: "Giáo-lý chính Phật dạy cho
quần-chúng mê-lầm phương tiện để giải-thoát, con đường tắt để
thấu rõ lẽ sống chết." Đủ tỏ Thái-Tông chú-ý đến vấn
đề sống chết lắm và sở dĩ lăn lộn quyết tâm đi tìm vào núi
là để nhờ Phật giải đáp cho nỗi thắc-mắc ấy. Bởi vì Khổng Nho
thực-tiễn trước mắt, tránh vấn đề không dám đề cập, cho nên
đệ tử hỏi Khổng tử vấn đề sống chết và quỷ-thần. Ngài trả
lời bằng cách tránh vấn-đề theo luận điệu "bất khả tri
luận" (agnosticisme) như sau : "Tử lộ vấn : Sử quỷ thần,
Tử viết vị năng sự nhân yên năng sự quỷ. Cảm vấn tử, viết :
Vị tri sinh yên tri tử (Luận ngữ) Tử lộ hỏi việc thờ phụng quỷ
thần? Khổng Tử đáp : "Chưa có thể phụng sự được người
sống sao có thể phụng sự được quỷ thần?"
Dám hỏi về sống chết? Đáp : "Chưa biết sống
nên thế nào sao biết được việc chết về sau? (Luận ngữ )
Ở đấy Khổng Nho tỏ khuynh hướng luân lý
thực-tiễn, tránh các vấn đề siêu hình đó thôi, chứ vị tất
trong thâm tâm Khổng Tử vốn tin vào Thiên mệnh, Lễ nhạc thì đâu
phải hoàn toàn thực tiễn đến vô thần được. Riêng về vấn đề
sống chết là vấn đề không thể nào chỉ gạt đi mà làm cho người
ta hết thắc-mắc. Nó luôn luôn đe-dọa đến người thân thích của
ta nếu chẳng phải chính bản thân ta, cho nên không chỉ một thái độ
khắc-kỷ khô-khan tàn-nhẫn hay lạnh lùng mà có thể thỏa-mãn
được tâm hồn nhân loại. Muốn hay không người ta vẫn phải tìm
đến siêu hình, cho nên Thái Tông vì cớ sớm mất cha mẹ, và còn
nhiều cớ khác sẽ nói lên sau nên đã tìm đến giáo lý nhà Phật
để có phương tiện giải thoát. Ở đây Thái Tông đã đạt tới
điểm thiết yếu của vấn đề cho sinh tử là mê; hết mê vọng thì
cũng hết lo âu sanh tử. Con đường tắt để sáng tỏ nguyên lý
sống chết chỉ có Phật giáo mới có thể đem lại thỏa đáng với
chủ trương sống chết không phải là hai vật căn bản khác nhau. Đấy
chỉ là hai phương diện biểu hiện của một bản tính Đại Đồng trong
điều kiện của thời gian và không gian. Trong điều kiện thời gian
và không gian thì có sống chết, nhưng ngoài điều kiện ấy thì không
có sống chết nữa. Cho nên bảo sống gửi thác về là thế. Phật
tính tự thân không có sống chết cũng như trí ngu, nhưng biểu hiện
ra thì có phương diện sống chết cũng như có trí và có ngu. Trong mê
thì sống chết, giác ngộ thì hết sống chết , đấy là giáo lý của
Phật.
Nhưng làm thế nào giác mê khải ngộ "tĩnh mê
mở biết"? Phải chăng chỉ phải xuất , ngồi "quán bích"
"ngồi nhìn vào tường suốt chín năm yên lặng như Đạt ma Tổ sư
(Bodhi dharma). Thái Tông quan niệm cho con người xã hội, đại diện cho
cả toàn thể, không thể bỏ xã hội nhân quần được. Ở trong
quốc gia thì phải xếp đặt trật tự , phải có trên dưới, phân
biệt giá trị cho công bằng, cầm cân nảy mực cho chính đáng. Đấy
là trách nhiệm của các bậc thánh Nho nhập thế hành động. Muốn
cầm cân nảy mực, xếp đặt giá trị cho công bằng thì phải có
tiêu chuẩn giá trị lấy làm khuôn mẫu. Cái khuôn mẫu ấy không gì
linh động cụ thể hơn là khuôn mẫu ( Quỷ phạm) sống tại bản thân
các bậc Thánh Chúa, Hiền Nhân Quân Tử, lấy tâm thiên hạ làm
tâm mình, ý muốn của đoàn thể làm ý muốn của mình, tự tâm
mình thì vô tư vô dục. Như thế là thực hiện được tâm Phật hay
gần với tâm Phật rồi. Bởi thế mà Thái Tông mới nhắc lại
lời nói của Tuệ Năng Lục Tổ là "Tiên đại thánh nhân
dữ đại sư vô biệt, tắc tri ngã Phật chi giáo hựu giả Tiên
Thánh dĩ truyền ư thế dã".
Đấy là kết luận về triết học Trần Thái Tông nói
trong bài tựa cho sách Thiền Tông chỉ nam, mà ngài đã mở đầu.
Nó là chủ trương hợp Đạo với Đời, Phật với Thánh, Xuất thế
với Nhập thế vậy.
Nay lại đề cập đến điểm thứ hai, là nhân cơ hội
gì trong hoàn cảnh nào, nhà vua đã kể lại sự tìm tòi chân lý
của mình.
Điểm khởi phát của Trần Thái Tông về ý hướng
cầu chân :
Sau khi đã khái luận về kết quả kinh nghiệm và chủ
trương mong muốn, tác giả bắt đầu kể nguyên lại sức mạnh thúc
đẩy có một thái độ quyết chí cầu tìm chân lý. Một tư tưởng
triết học chỉ có giá trị ở chỗ sống động của nó hơn là ở
sự suy luận trừu tượng, vì chỉ trong sự sống ấy tác giả mới
thực có sự vượt qua cái ý thức bình thường để cố vươn lên
tới cái thực tại mình khao khát. Chính ở cái phút sống động ấy
mà ta thấy được cái sức nhiệt-thành, cái sinh lực của một
ý-tưởng, một triết-gia Ấn-độ gần đây có viết : "Hệ thống
triết-học làsự cấu-tạo của một số trực-giác nguyên-thủy qua
khái-niệm và phù-hiệu. Nếu chúng ta tất-cả đều đã có được
những trực-giác cơ-bản ấy rồi thì những hệ thống sẽ trở nên
thừa". (System of philosophy are the élaboration, through concepts and symbols,
of certain original intuitions. If all of us had those basis intuitions, systems should be
superfluous).
(T.R.V. Murti "the Central Philosophy of Buddhism" London
1955)
Chính ở đoạn văn thứ hai của bài tựa này mà
chúng ta có thể thấy được cái nguyên-lai của động-cơ thúc đẩy
trong tâm-hồn Vua Thái Tông về ý-hướng cầu-tìm chân-lý ở
Phật-giáo. Thái Tông bảo từ thuở nhỏ "hài đồng hữu
thức chi niên" đã được nghe các Thiền-sư giảng-dạy mà
lòng tự thấy rung-động, sớm có ý-hướng về "nội-giáo"
tức là tâm-linh học của Thiền-Tông. Nhưng Thái-Tông thú-nhận
rằng tuy ngay buổi niên-thiếu ấy trong lòng "chừng tư tức
lự", thanh tĩnh "hư kỷ" "tinh thành mộ đạo"
nhưng rút cục chỉ mới có được một ý-hướng mong-manh chứ chưa
từng đạt tới được cái động cơ cảm xúc với Đạo "xúc
cảm chi cơ". Chính cái cảm xúc ấy mới là thực nghiệm;
mới là cái tia trực giác hoán cải con người; quyết-định sáng
tạo cho cả một hệ thống tư-tưởng của tác-giả.
Theo lời nói của tác giả ở đây thì cơ hội khiến
cho tâm-hồn giao-động đã đến với hai cái tang cha mẹ liên tiếp
từ lúc mười sáu tuổi. Lại thêm chịu mệnh Vua cha đứng đầu
trăm họ; gánh-vác một trách-nhiệm lớn lao là cả một cơ nghiệp
nhà Trần vừa khai sáng. Trước tình thế ấy tác-giả cảm thấy cô
liêu, trong bụng vừa đau đớn vừa lo sợ phân vân :"Thượng
ký vô phụ-mẫu chi khả ý hạ khủng bất túc phó kiềm lê chi thực
vọng nại hà?" (Ở trên đã không còn cha mẹ để có thể
nương tựa, đối với ở dưới e không đủ đáp ứng nguyện vọng
thiết thực của nhân dân. Biết làm sao đây ?)
Như thế là tác giả cảm thấy thân thế mong-manh, sự
nghiệp trên đời này đều không có tính cách bền vững cho nên khi
vào trong núi gặp nhà sư Phù Vân vốn là bạn cũ hỏi han duyên do
bỏ đi thì nhàvua cũng đáp lại ngay: " Trẫm phương ấu trĩ kịch
táng song thân, cô lập sĩ dân chi thượng vô sở y phụ Phục tư
tiền Đại-Đế vương sự nghiệp, hưng phế bất thường" (Trẫm
tuổi còn thơ ấu chợt đã mất cha mẹ, trơ vơ, một mình trên đầu
sĩ và dân không nơi nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp đế-vương các
đời trước, hưng-vượng suy bại không nhất định.) Do đấy mà tác
giả một lúc phủi áo đứng lên ra đi bỏ lại đằng sau tất cả
quyền cao thế trọng, phú quý giàu sang, vợ đẹp... quyết chí đi tìm
chân lý chẳng quản gian-nan khốn khổ, lặn núi, trèo non : Nhưng cái
chân-lý mà tác giả đi tìm đây sao lại chỉ nhằm mục đích "minh
sinh tử chi đại sự" sáng tỏ sự việc lớn về sống chết?
Có phải thực vì cái lý sống chết để báo-đáp cái đức cù-lao
màThái Tông bỏ ngôi báu lánh vào núi rừng như tác-giả
tuyên-bố : "Tầm nhi tư chi bất như thoái xử sơn-lâm bàng cầu
Phật-giáo dĩ minh sinh-tử chi đại sự, hựu dĩ báo cù-lao chi
đức." (2) (Tìm tòi suy-nghĩ chi bằng lui về rừng núi, tìm sang
bên Phật-giáo để hiểu rõ việc lớn sống chết, lại để đáo
đáp công đức cù-lao!)
Phải chăng đó là lý do chính ? Phải chăng đấy là
động-cơ thực đã thúc-đẩy Thái Tông bỏ đi? Vả lại quan-hệ
giữa sự "Báo đức cù-lao" với sự "Hiểu rõ việc
lớn sống chết" ở đâu? như thế nào? Sự thực cái cớ làm
cho Thái-Tông lâm vào tâm trạng khủng-hoảng đến như thế, còn
thuộc về loại thâm-trầm thiết thực hơn là lòng báo hiếu với
sự nghiệp thịnh-suy bất-thường.
Sử chép : "Đinh Dậu thứ 6 (1237) tháng giêng, mùa
xuân, lập vợ Hoài-Vương là Lý-thị làm Hoàng-hậu, phế
Chiêu-Thánh Hoàng-hậu làm Công-chúa. Lúc ấy Chiêu-Thánh chưa có
con mà Lý-thị đã có mang được ba tháng. Thủ-Độ cùng Thiên-Cực
Công-chúa bày mưu riêng với nhà vua nên nhận liều lấy để có
lợi về sau, vì thế mới đem Lý-thị vào ở trong cung. Trần-Liễu
tức giận tụ tập nhiều người ở sông cái (Nhị hà) nổi loạn.
Nhà vua lấy làm áy náy không yên lòng, đêm lẻn sang núi Yên-tử
vào nhà thờ Phật của Phù Vân Quốc-sư. Ngày hôm sau Thủ-Độ đem
bầy tôi đến đón xa giá về Kinh. Nhà vua nói : "Trẫm hãy còn
thơ ấu, chưa đảm đang được việc trọng đại. Vua cha lại vội từ
trần thành ra Trẫm sớm mất người nương-tựa, không dám để nhơ
nhớp đến xã tắc".
(Việt-sử thông-giám cương mục. Chính biên)
Ngô-thời-Sĩ trong "Việt-sử tiêu-án" cũng
chép như thế : "Vua lấy vợ của anh là Trần-Liễu lập làm hoàng
hậu, giáng bà Chiêu-Thánh xuống làm Công-chúa. Bấy giờ bà
Chiêu-Thánh không có con (sau 12 năm lấy Thái-Tông) mà vợ Liễu
đã có mang ba tháng. Thủ-Độ và bà Thiên-Cực mật mưu lấy cho Vua
làm Hoàng-hậu. Liễu giận lắm; tụ-tập đại quân ở Đại-giang làm
loạn; trong lòng vua bất tự an, đương đêm ra ở với Phù-Vân
Quốc-sư ở núi Yên-tử. Thủ-Độ đưa quần-thần tới mời vua về
Kinh Đô, Vua nói : "Ta tuổi trẻ, không cha, chưa kham nổi việc
nước, nên không dám ở ngôi Vua để làm nhục xã-tắc".
(Ngô-thời-Sĩ "Việt-sử tiêu-án". Bản dịch
văn-hóa Á-châu tr. 174)
Hai tài liệu trên đây gần như nhau, đủ chứng minh
về lý do Trần-Thái-Tông phải bỏ đi vào núi. Nhà vua "trong
lòng bất tự an" hay là "lấy làm áy-náy không yên
lòng" vì bị ông Chú độc-tài, lấy quyền Chú cũng như Cha
áp-bức Thái-Tông, mất cha, phải có bổn phận bảo-vệ cơ-nghiệp
nhà Trần do một tay Trần-thủ-Độ đã gây-dựng, bằng cách từ bỏ
vợ cũ không có con để nối giòng dõi nhà Trần, nhận chị dâu
đang có mang làm vợ chính-thức, hòng lấy đứa con trong bụng. Trong
lòng nhà vua "bất tự an", "áy náy" cực độ, đến
nỗi phải trải qua một cơn khủng-hoảng tinh-thần hết sức mãnh-liệt.
Lại thêm sự bất-bình của anh ruột mất vợ nổi loạn. Cho nên
Thái-Tông chắc cũng phẫn-uất với mệnh lệnh độc-tài cương-quyết
của Thủ-Độ nên tỏ thái-độ phản-đối chẳng kém cương-quyết như
thế. Nhà vua lấy làm xấu-hổ phải tuân theo mệnh-lệnh của Chú,
nên mới nói với Thủ-Độ khi mời về : "Ta tuổi trẻ không cha,
chưa đương nỗi việc nước nên không dám ở ngôi vua để làm
nhục cho xã-tắc".
Tuy bấy giờ Phật giáo đang thịnh hành, Nho-giáo chưa
chính-thống, nhưng nhà Vua cũng nhận thấy Nho-giáo là tư-tưởng
chính, nên mới bảo "bàng Phật giáo" "tìm sang Phật-giáo
ở bên cạnh". Vậy nhà vua cũng trọng điều liêm-sỉ tuy không cho
luân thường đạo-lý của Nho-giáo là độc-tôn. Vậy mà các Nho-sĩ
về sau, chỉ biết độc-tôn giá trị Tam cương Ngũ-thường, của
Nho-giáo đã quá lời khắc-trách Thái-Tông là dâm loạn. Duy có
lời phán-đoán của Vua Tự-Đức là chính đáng hơn cả : Lời
châu-phê của Tự-Đức rằng :
"Nhưng bấy giờ Thái-Tông hãy còn ấu thơ, mà
Thủ-Độ là người rất ngoan cố, phàm việc gì cũng do hắn chỉ sự,
Thái-Tông không nghe theo cũng không được. Thế mà sử-thần cứ
chỉ-trích riêng Thái-Tông như thế chưa phải là lời phê-phán công
bình. Vả lại lúc mới khai-quốc; vua còn thơ-ấu lòng người còn
nghi-ngờ, Thủ-Độ lại vốn là người không biết chữ, thế mà
một mình kinh-doanh, dựng lên được nghiệp lớn, thì thực là cương
quyết hiểm-giảo xưa nay ít có mấy người. Có lẽ vì lòng trời
giúp ngầm nhà Trần mà được thế chăng?"
(Thông-giám cương-mục chính-biên)
Tổng chi, trở lại tâm trạng của Thái-Tông trước
khi quyết-chí vào núi tìm Phật chúng ta thấy cả một trạng thái
khủng-hoảng thâm sâu. Ở ngôi vua trẻ tuổi không có cha, tất cả
quyền hành trong tay ông chú độc-tài cương-quyết, cái gì cũng dám
làm miễn sao được việc; Đối với anh ruột lương tâm cắn rứt vì
mang tiếng cướp vợ của anh và phạm tội loạn luân, còn làm sao
làm gương-mẫu cho thiên hạ quốc dân mến phục như cha mẹ được.
Vậy Thái Tông cảm thấy cô liêu trơ trọi không còn biết bám víu
vào đâu để có được tin tưởng. Tin tưởng vào hệ thống
giá-trị luân-thường đạo-lý. Nho-giáo thì bị Thủ-Độ phá một
cách phủ-phàng : Tin tưởng vào cha mẹ thì cha mẹ mất sớm, bàn
với anh ruột thì anh ruột giận ghét một cách chính đáng. Hỏi vợ
là người thân của mình ăn ở đã hơn mười năm rồi, thì ngày
nay mình bắt buộc phải bỏ để bảo vệ quyền lợi cho một họ. Như
thế làm sao nhà vua trong lòng chẳng "bất tự an" chẳng áy
náy, bị lương tâm cắn-rứt, vì hối-hận hành-động của chú, về
ý-thức trách-nhiệm làm vua, làm chồng, làm em và làm người có
nhân tính, có nhân cách. Hỏi ai bây giờ? Thái-Tông thực thấy
trơ-vơ một mình trên miệng vực thẳm, cô liêu trên đỉnh núi cao,
Thái-Tông tự thấy lo sợ, mất tin tưởng vào lẽ sống vì mất
tự-tín ở nơi mình. Cho nên muốn tìm cái gì để nương tựa, một
cơ sở tinh-thần để đứng, một tín-ngưỡng để sống vậy.
Đấy là sức mạnh động-cơ từ bên trong ngấm-ngầm
thúc-đẩy Thái-Tông nối gót Hoàng-tử Tất-Đạt-Đa (Siddhattha) xưa
kia sống trong cảnh giàu sang phú-quý vợ đẹp con khôn như trong giấc
mộng , chợt bị cảnh đau khổ của chúng sinh thức-tỉnh mà đứng
phắt dậy, quyết chí bỏ hết để đi tìm giải thoát, nhất ý tìm tu.
Thái-Tông ở đây cũng bị kích-thích bởi đau khổ tự chính bản
thân, cũng quyết chí đứng dậy can-đảm xông-pha. Đọc đoạn văn
nhà vua bỏ kinh-đô vào Yên-tử thật cảm-động, không thể không
liên-tưởng đến sự tích Thích-ca mâu-ni bỏ cung-điện ra đi tìm
Đạo. Cho nên Ngô-Thời-Sĩ một tín-đồ Nho-giáo cố-chấp, luôn luôn
chê điều lâm loạn, cũng phải kết luận về tâm-hồn cao-thượng
đạo-sĩ của Thái-Tông như sau :
"Mấy năm đầu vua Thái-Tông có tính "tà
dâm", đều do Thủ-Độ xui bảo cả đến mấy năm sau học vấn
tấn-tới nhiều, lại càng nghiên cứu nội-điển tâm kinh, có làm ra
sách "Khóa-Hư-Lục" mến cảnh sơn-lâm coi sinh tử như nhau, tuy
ý hơi giống đạo Phật không tịch nhưng mà chí thì khoáng đạt, sâu
xa cho nên bỏ ngôi báu coi như trút giầy rách thôi".
(Việt-sử tiêu-án tr.184)
Hình như tâm-trạng khủng-hoảng của Thái-Tông là
khủng-hoảng mất tin-tưởng nó thúc-đẩy có một thái-độ
cách-mệnh triệt-để nhất-quyết. Trong tâm-hồn ấy có thể nẩy ra
những câu hỏi âm-thầm trong khi phản-tỉnh :
Luân- thường của Nho-giáo có giới hạn gì không?
Có gì bảo đảm bền-vững cho sự nghiệp hưng-phế bất-thường?
Người thân chết đi có còn lại gì không?
Tâm hồn nặng chĩu những mối nghi-hoặc trên đây.
Thái-Tông luôn luôn bị cái "sinh tử sự đại" ám ảnh, cho
nên muốn cầu tìm cái gì tồn tại trường-cửu đằng sau thế-giới
bất thường, hư-hư thực-thực để nương-tựa. Gặp nhà sư
Phù-Vân, Thái-Tông liền tuyên-bố "chỉ cầu làm Phật không cầu
chi khác" "Duy cầu tác Phật, bất cầu tha vật."
Chữ Phật tác giả cầu làm ở đây chính là cái
Thực thể, tồn-tại vĩnh-cửu, đồng nhất cá- nhân và vũ-trụ,
tiềm-tàng trong thế giới hiện-hữu bất-thường. Đấy là Phật tính
tiềm tàng trong nhân tính, siêu-việt lên trên sống chết thường ám
ảnh tâm hồn tác-giả cho nên bảo : "chi bằng lui về nơi rừng
núi, tìm sang bên Đạo Phật để hiểu rõ việc lớn sống chết lại
để báo đáp công đức cù-lao". Bởi vì nếu giải quyết
được vấn-đề sống chết bằng cách đạt tới quan điểm "coi
sống chết như nhau" thì ở đời còn gì lo nữa. Tất cả
vấn-đề cầu "tri" hay cầu "hành" cũng chỉ xoay quanh
vấn đề phân biệt sống chết. Một khi đã tới được nguồn-gốc
của sống chết rồi thì người ta đã tới được Thực tại cơ bản
của thế giới rồi vậy. Bởi thế mà chúng ta có thể nói được
rằng sự khủng-hoảng tinh-thần của Thái-Tông là khủng-hoảng về
siêu-hình thực-nghiệm, cầu tìm bản tính đại đồng trường-cửu
để tin-cậy, hết cô-liêu vậy.
Luận điệu của nhà xuất-thế Quốc-sư Phù-Vân :
Thấy nhà-vua đến, Quốc-sư định ngay vị-trí sinh tồn
của hai người, một đàn xuất-thế, một đàn nhập-thế.
"Lão tăng cửu cư sơn dã, cốt cương mạo tụy, cam
đồ nhự tượng, tuyền ẩm lâm du tâm nhược "Phù-Vân"
tùy phong đáo thử.
Kim bệ-hạ khí nhân chủ chi thế, tư lâm đã chi tiện,
quả hà sở yêu nhỉ đáo tư da." (3) Nghĩa là : "Sư già ở
lâu quen rừng núi, xương dắn, mặt gầy ăn chay rau răm, nhai hạt dẻ,
uống nước suối chơi cảnh rừng, tâm nhẹ như mây nổi, vô tình theo
gió đến đây.
"Nay bệ-hạ bỏ ngôi chủ nhân-dân, nghĩ đến cảnh
quê mùa của đồng rừng, thực có cầu tìm điều gì mà tới đây
vậy?"
Đoạn văn trên đây phân-định rõ ràng hai khuynh
hướng tinh-thần khác nhau ở miệng nhà Thiền-sư. Nhà xuất gia sống
ngoài xã hội với lễ-nghi chế-độ của nhân-quần, hoàn toàn bắt
chước hiện-tượng thiên-nhiên phi giá-trị lòng không lo nghĩ
tính-toán phó mặt cho tự nhiên, như mây bay như gió thoảng, tự
mình không còn có ý-định riêng tư. Đấy là khuynh hướng xuất-thế
trong truyền-thống tư-tưởng Đông-phương.
Thoát trần một gót thiên-nhiên,
Chiếc thân ngoại-vật là tiên trên đời.
(Ôn-Như-Hầu)
Khuynh-hướng ấy khác hẳn với vai-trò của nhà vua,
đang ở ngôi quyền-thế của một vị lãnh-đạo nhân-dân có
trọng-trách cầm cân nẩy lực, làm gương mẫu cho trăm họ tuân theo,
ngỏ hầu bảo-vệ và xếp-đặt trật tự công-lý xã hội, đem lại
hạnh-phúc, phú-cường cho quốc dân. Ở địa-vị ấy, trong vai-trò
ấy, thì trong lòng luôn luôn bận rộn với ý-nghĩ lo-toan, không một
phút nào thư-thái trong tâm-trí. Như vậy mà bỗng dưng bỏ vào núi
rừng thì chắc hẳn phải có điều gì đòi hỏi khẩn-thiết lắm, nó
thúc-bách vậy. Phải có động-cơ gì trọng-đại mới dám bỏ cả
giá-trị nhân-văn để tìm ra ngoài "bàng cầu", nơi
thiên-nhiên, ngõ hầu có được tiêu-chuẩn chính-xác đáng
tin-tưởng.
Và nhà Vua quả nhiên đã trả lời câu hỏi đanh
thép của nhà Thiền-sư, mà thú-nhận trong lòng đang thiếu tin-tưởng
vào hệ-thống giá-trị nhân-sinh như Kinh-sách Nho dạy, nên tự thấy
mình cô-liêu ở cái thế nhân-chủ mà không có cái gì vững-vàng
để cho ý-chí nương tựa. Nên chi phải tìm vào Phật-giáo để
hy-vọng giải quyết cho cái tâm-trạng hoang mang, thiếu tin-tưởng. Tâm
trạng của Thái-Tông bấy giờ thực hoang-mang, cho nên vừa gặp
Phù-Vân là bạn cũ, vừa nghe lời hỏi đi thẳng vào tâm-sự mình,
thì cảm-đông không cầm được giọt lệ. Qua lời vấn-đáp
bóng-bẩy, nhất là lời đáp lại của Thái-Tông chúng ta nhận ra
ngay cái nỗi lòng thắc-mắc, khủng-hoảng tinh-thần. Nghe theo lời
Thủ-Độ thì phạm điều tà-dâm, mất tình huynh-đệ, theo kinh-điển
Nho-giáo. Không nghe theo thì trái lệnh của Chú, quyền Chú cũng như
quyền Cha, khi cha đã mất rồi? Huống chi Chú lại lại còn là
ân-nhân của cả nhà Trần, nhờ công đức củaThủ-Độ mà ngay nay
mình ở địa vị nhân-chủ, cả thiên-hạ của nhà Lý lẹ-làng truyền
sang tay nhà Trần, lẽ nào vì một điều luân-lý cá-nhân mà làm
hỏng cả đại cuộc quốc-gia xã-hội? Đứng ở giữa sự khúc-mắc
ấy, Thái-Tông rất đỗi phân-vân, nhất-định quyết-chí ra đi
"Nhập thử sơn duy cầu tác Phật bất cầu tha vật" "Vào
núi này chỉ cầu làm Phật, không cầu vật gì khác".
Nhưng "cầu làm Phật" là thế nào? để làm
gì? ích-lợi cho ai?
Chắc hẳn lúc ấy Thái-Tông chưa tự đặt ra những
câu hỏi căn-bản đến thế, bất quá đang ở vào tâm-trạng
hoang-mang, nhìn chung-quanh không thấy có ai dám trung-ngôn trực-chỉ cho
mình, nhân nghĩ đến người bạn cũ đã có dạy mình về Đạo Thiền
thuở nhỏ, nên tìm vào để hỏi kế, đồng thời trút vơi nỗi
lòng. Nhưng qua câu trả lời : "Chỉ cầu làm Phật, không cầu vật
gì khác" chúng ta có thể thấy được bề sâu của tâm- trạng
khủng-hoảng, đã quyết chí tìm phương giải-quyết cách triệt-để
bằng một đòi hỏi sâu rộng : "Có Tuyệt-đối không? Nếu Phật
là tuyệt đối, có thể cho tôi thấy được không? Sự đòi hỏi
này của Thái-Tông làm cho ta liên-tưởng tới sự đòi hỏi của
Viveka-nanda đối với Ramakrishna, như Swami Nikhila-nanda đã kể lại trong
"La vie de Vivekananda" sau đây :
"Narendra (tên tục của Vivekananda) hỏi sư phụ (tức
Ramakrishna) rằng : "Thưa ông, Ông đã thấy thượng đế?" Câu
trả lời đến ngay không phút ngập-ngừng "Có ta đã thấy
Thượng-Đế. Ta thấy ngài như ta đang thấy Anh duy sáng tỏ hơn.
"Người ta có thể nhìn thấy Thượng Đế. Người ta có thể nói
với Ngài. Nhưng có mấy ai lo-nghĩ về Thượng-Đế? Người đời
nhỏ hàng suối lệ cho vợ, con, tài sản, của cải, nhưng có ai khóc
để được thấy Thượng-Đế? Kẻ nào thành thực khóc để được
thấy Thượng-Đế "chắc chắn sẽ đạt tới kết quả thấy
được Ngài."
(La vie de Vivekananda par Snami Nikhilananda tr. 25 éd. La Colombe
Paris 1956)
Có lẽ Thái-Tông cũng ở cái tâm trạng đòi hỏi
một tin-tưởng vững chắc như Vivekananda đòi hỏi trên đây với
Ramakrishna để giải quyết nỗi lòng phân-vân đau khổ, không đường
tiến-thoái. Quốc-sư Phù-Vân ở đây cũng trả lời như Ramakrishna
một cách quả quyết cho đệ-tử là:
Sơn bản vô Phật duy tồn hồ tâm, tâm tịch nhi tri thị
danh chân Phật. Kim bệ hạ nhược ngộ thử tâm tắc lập địa thành
Phật vô khổ ngoại cầu : (4).
"Trong núi vốn không có Phật-tính, chỉ tồn-tại
ở trong tâm người ta. Tâm yên-lặng mà thấu biết thì gọi tên là
Phật chân-thật. Nay nhà vua nếu giác ngộ được cái tâm ấy thì
liền thành Phật ngay, khỏi khổ-sở ở bên ngoài tâm mình".
Câu trả lời thực dứt-khoát và đanh-thép của một
bậc đắc Đạo vô-tư, có khả-năng cảm-thông với lòng người
khác, nên đã có thể tự đặt mình vào cảnh ngộ của người
khác không chủ-quan cố kéo về mình. Nếu thành thực cầu tìm chân
lý để giải-quyết mối tương-tranh trong tâm-hồn, gây nên bởi cuộc
sinh-tồn thực-tế, thì chân-lý ấy phải là chân-lý sống-động
cụ-thể không khái-niệm trừu-tượng. Chân-lý ấy nếu có, thì
phải phổ-biến đại-đồng, ứng-dụng thiết-thực cho tất cả
cảnh-ngộ, cho nhà vua đứng lãnh-đạo nhân-dân, cũng như cho nhà sư
sống ngoài xã-hội trong thiên-nhiên. Nhà vua không cần xuất-thế vì
xuất-thế thì còn đâu nhân-dân, cũng như nhà Thiền-sư không cần
nhập-thế vì cái gì đã chân thật cho vũ-trụ thì cũng chân-thật
cho nhân-sinh, vì toàn thể phải bao-hàm được bộ-phận cục-bộ vậy.
Hình như Khỗng-Lộ- Pháp-sư thời nhà Lý, triều Thuận-Thiên
(1010-1026) đã nói một bài kệ về cái nguyên-lý "Vạn-vật
đồng nhất thể" ấy như sau :
Tác hữu sa trần hữu;
Vi không nhất tướng không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước thị không trung. (5)
"Nếu bảo rằng thế giới này thật có, thì hạt
cát cũng thật có. Nếu chủ-trương thế-giới này không thì một
hình-tướng cũng là không có.
"Có hay không khác nào như trăng trên trời với
ánh trăng ở các làn nước, cả hai đàng cùng có cùng không. Cho
nên chớ chấp cái không ấy là không.
Đấy là quan niệm "Có là có quan-hệ với" hay
là tương-đối với tâm-thức ra mà có hay không có. Bởi vậy mà
trước khi đi tìm Phật coi như Thực-tại tuyệt-đối Bản-thể vũ-trụ
ở đâu xa bên ngoài thì hãy tìm ngay ở tại bản-tâm nhỏ bé của
mình, cũng như Mạnh-Tử chủ-trương :
"Vạn-vật bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc
đại yên".
"Nguyên-lý tạo vật có đủ ở ta, trở về bản
thân mà thực hiện, không nguồn "lạc thú nào bằng".
Đấy là ý-nghĩa "Phật tức tâm" nghĩa là
Phật là nguồn của cái biết, là cái ý thức Bản-thể của
ý-thức sự-vật hay là ý-thức tác-dụng cho nên bảo "Tâm
tịch nhi tri" tâm thể yên-lặng trong sáng mà biết, đấy là cái
biết toàn-diện của tâm bao hàm cả tình, ý trí. Cái tâm ấy là
Bát-nhã (Prajũa), là cái "Thể đồng nhất" của vũ-trụ
vậy. Một khi thấy được, giác-ngộ được tâm ấy thì thấy được
chân tướng của vũ-trụ, thấy được nguyên-lý của Chân, Thiện,
Mỹ không còn phân-vân đau khổ nữa, mà vững chắc đứng lên
trên cả quan-điểm thông-thường của người đời về chân, giả,
thiện, ác, mỹ, ố tương-đối. Cái ấy không có trong hay ngoài,
không bị điều-kiện thời-gian không-gian chi-phối, là bản-tính
siêu-nhiên, cho nên không phải đi tìm đâu cả, bất cứ ở đâu
cũng tìm thấy được "vô khổ ngoại cầu" không phải
khổ-sở đi tìm ở ngoài tâm mình", vì nếu tuyệt-đối còn là
đối-tượng cho một ý-thức tìm hiểu nào thì không còn là tuyệt
đối nữa. Đã gọi là tuyệt đối thì không còn lệ-thuộc vào
thời gian không gian, làm sao còn có thể ở trong hay ở ngoài
được.
Qua lời giải đáp ấy của Quốc-sư Phù-Vân, chúng ta
đã thấy nhà xuất-gia này là bậc đại-đạt đạo-lý Thiền tông,
không còn chấp vào hình-thức xuất hay nhập, vô vi hay hữu vi mà
chỉ cốt ở tinh thần thực-hiện (realisation), mà thôi. Bởi vậy mà
Quốc-sư đã tự đặt mình vào địa vị nhà vua để chỉ bảo cho con
đường thực hiện ở vai trò và hoàn cảnh của vị nhân chủ, trăm
phần trăm nhập thế hửu vi.
"Phàm-vi nhân quân giả, dĩ thiên hạ chi dục vi
dục, dĩ thiên-hạ chi tâm vi tâm. Kim thiên-hạ dục nghênh bệ hạ qui
tắc, bệ hạ an đắc bắt qui tai? Nhiên nội-điện chi cứu, nguyện bệ
hạ vô vong tư du nhĩ." (6)
"Phàm làm vua lãnh-đạo nhân-dân phải lấy ý
muốn của nhân-dân làm ý-muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm
tâm mình. Nay thiên hạ muốn đón nhà vua trở về, nhà vua làm sao
không trở về được ư? Tuy nhiên công-việc xét cứu nội tâm của
giáo-lý Phật xin nhà vua không lãng quên là được vậy".
Đấy là dung-hòa chấp trung đạo xuất-thế lẫn đạo
nhập-thế. Đạo xuất hay nhập vốn không phải hai hệ-thống triết-học
khái-niệm đóng cửa, mà chỉ là hai con đường thực-hiện với
toàn diện thân tâm con người, hoặc nội tỉnh nội quan, hướng tất
cả chú ý vào bên trong để ngừng-định tinh thần không cho phát
động ra những làn sóng tình cảm, hay trí thức, dục vọng. Ví như
mặt biển không nổi sóng phẳng lặng yên tĩnh có thể trong suốt từ
trên mặt xuống tận đáy. Hoặc hành động hướng ra ngoài xã-hội,
lần theo những quan hệ xã-hội từ tu-thân, đến tề gia, trị-quốc
bình-thiên-hạ như Nho-học chủ-trương, lần theo mạch-lạc từng bánh
xe trong guồng máy xã-hội để từ cục-bộ ra toàn bộ cho đến
đại-đồng. Vậy đạo xuất-thế hay nhập thế đều là hai quá trình
biện-chứng vượt lên, hai thái-độ thực hiện chân lý toàn-diện
và linh-động hoặc bắt đầu từ ngoài đi vào nội tâm, hoặc bắt
đầu từ bản thân đi ra ngoài; đi vào trong cái chí tiểu bất phân
hay đi ra ngoài đến cái chí-đại vô ngoại, đều có thể gặp nhau
ở một cái trung tâm, như Nguyễn-công-Trứ sau này đã thấy.
"Bé không trong mà lớn cũng không ngoài."
Đấy là hai cựu đoan trên đường thực hiện cùng
một cái tâm vô-tư và đại-đồng. Tuy nhiên trên con đường
hành-động nhập-thế người ta khẳng định ở mỗi độ đường.
Khẳng-định trước hết là phương tiện, nhưng lâu dần biến thành
thói quen vì cái nõa tính của tinh thần nhân loại, cho nên phải
đồng thời có sự phủ định để tiến tới vượt lên, bằng không
người ta sẽ cố chấp bảo-thủ mà ngừng tiến tới. Bởi thế mà
Quốc-sư Phù-Vân mới dặn nhà vua "không nên quên cứu-xét
nội-điển" trong khi hành-động theo ý-muốn của thiên-hạ, lấy
tâm thiên-hạ làm tâm mình tức là quên mình cho tha-nhân, bắt đầu
từ gần đến xa vậy.
Đấy là chủ-trương thông-cảm của một nhà xuất-thế
Việt-Nam như Thái-Tông đã quan niệm.
Quan-niệm của nhà Nhập thế.
Nhà nhập-thế hành-động ở đây là Trần-thủ-Độ
hoàn toàn chỉ biết có quốc-gia xã-hội. Ngô-thời-Sĩ một nhà
khoa-cử Nho, sẵn có khuynh-hướng khinh kẻ vô học, nhưng cũng bình
luận về Thủ-Độ như sau :
"Thủ-Độ tuy không học vấn gì, nhưng có tài
lược hơn người, thân làm Tể-tướng, việc gì cũng để ý, vì
thế màgiúp vua gây dựng nên Vương nghiệp, giữ trọn-vẹn công
danh; Vua Thái-Tông làm bài văn bia ở sinh-từ trọng đãi một cách
đặc biệt."
(Việt-sử tiêu-án tr.185)
Vậy Thủ-Độ thực đại-diện một trăm phần trăm cho
nhà hành động "Nhập thế" hửu vi. Cho nên sau khi ép-bức
Thái-Tông phải phế vợ cũ xuống hàng công chúa, nhận chị dâu có
mang ba tháng làm Hoàng-hậu để bảo vệ lấy cơ nghiệp cho nhà Trần,
Thủ-Độ thấy Thái-Tông bỏ kinh-đô vào núi Yên-tử, ông bèn đem
cả quần thần đuổi theo. Đến khi gặp nhà vua ở Yên-tử, Thủ-Độ
bèn thống thiết nói với Thái-Tông nên nghĩ lại trở về ngôi vua.
"Tôi chịu lời ủy thác của Tiên quân, tôn nhà
vua lên ngôi chủ dân và thần. Nhân dân mong đợi ở bệ hạ khác
nào con đỏ mong đợi cha mẹ vậy. Huống chi ngày nay những vị cố
lão trong triều, đều là họ hàng thân-thích, những sĩ-phu thứ dân
trong nước hết thảy vui vẻ phục-tòng, cho đến trẻ lên bảy cũng
đều biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái-Tổ vừa mới bỏ
tôi mà đi, hòn đất trên nấm mồ chưa khô, lời nói bên tai còn
văng-vẳng thế mà nhà vua trốn-lánh vào núi rừng, ẩn-cư để cầu
thỏa mãn lấy chí hướng riêng của mình. Tự tôi xét thì nhà vua
vì mục-đích tự tu mà làm như thế thì có thể được, nhưng còn
quốc-gia xã-tắc thì sao? So ra, để lời nói suông chỉ bảo đời sau,
sao bằng lấy chính thân mình dẫn đầu thiên hạ."
"Bệ hạ vi tự tu chi kế tắc khả, kỳ như quốc gia
xã tắc hà? Dĩ kỳ thùy không ngôn dĩ thị hậu, thục nhược dĩ
thân vi thiên hạ tiên dã"
"Nhà vua nếu không nghĩ lại, bọn tôi xin cùng
người thiên hạ cùng chết ngay đây, quyết không có ý trở
về."
Đoạn văn trên đây cho ta thấy cái ý chí cương
quyết của nhà hành-động nhập-thế cực-đoan. Tuy nhiên, Thủ-Độ
cũng phân-biệt cân-nhắc ý chí cá-nhân với đoàn-thể mà cho
rằng nếu Thái-Tông chỉ là một cái nhân thường thì theo đuổi
mục-đích tự tu, vào núi ẩn cư để cầu thỏa-mãn chí-hướng
riêng cũng là chính đáng. Nhưng ở đây Thái-Tông là người kế
nghiệp nhà Trần, mà cha mới mất, hiện là vị nhân-chủ đang có
trách-nhiệm lớn-lao đối với quốc-gia xã-tắc, làm sao có thể
tự-do theo đuổi chí hướng riêng của mình được. Vả lại đối
với con mắt nhà nhập-thế hành-động : chân lý phải thực tế
không mơ-hồ lý-thuyết, chân-lý là làm cho dân-tộc tiến bộ, quốc
gia phú cường, đoàn thể hùng-mạnh, tự-do độc-lập. Thủ-Đô
đặt hết tin tưởng vào quốc gia dân tộc cho nên cũng rất tự tin,
cho nên chính ông đã tuyên-bố với Thái-Tông, đang lo sợ trước
làn sóng đầu của quân Mông-Cổ xâm-nhập lãnh-thổ quốc gia :
"Đầu thần còn đây chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo
ngại." Với các tinh-thần Quốc-gia cực-đoan ấy, Thủ-Độ không
hiểu được khuynh-hướng xuất-thế nội-hướng có thể đi đến kết
quả thực tế gì, vì phản-đối kịch-liệt nhu cầu siêu-hình tâm-linh
củaThái-Tông Thủ-Độ chỉ biết có hiệu-quả thực-tiễn cụ-thể,
lấy hiệu-quả minh chính cho phương tiện, cho nên đã coi nhẹ
phương-tiện bất cứ phương-tiện nào cũng có thể tốt miễn được
việc, đạt tới mục-đích mong muốn.Mục-đích mong muốn duy nhất của
ông là xây-dựng cho nhà Trần trở nên một quốc gia hùng mạnh,
một triều-đại vững-bền. Bởi thế mà ông không chấp cả
nhân-luân "Tam cang ngũ thường" của Nho-giáo bấy giờ chưa
được độc-tôn ở Việt Nam, vả lại ông cũng không có học
đến.Cho nên tất cả vần-đề đi tìm chân-lý hoặc xuất hoặc nhập
đều viễn vông không thành vấn-đề. Ông hành-động theo thiên-tài
tự nhiên xuất-chúng ở đại-chúng, nông-dân cần-lao ra, chỉ tin theo
lẽ phải phổ-thông thực-tế là bảo-tồn lẽ sống chung của
đoàn-thể trước hết, từ gia-tộc đến dân-tộc và quốc-tộc.
Đấy là ý nghĩa nhập-thế hành-động của Thủ-Độ, và nếu có
triết-lý thì đấy là cái triết lý bình-dân của nông-dân
Bắc-Việt lúc bấy giờ vậy.
KẾT LUẬN : Triết-lý chấp trung của Thái-Tông :
Sau khi đã nghe hai chủ trương, một của Quốc-sư bảo
"Phật ở tại tâm", một của Thái-sư chủ trương "lấy
thân dẫn đường cho thiên-hạ" và được thấy người trong
nước không có ý bỏ mình, Thái-Tông mới quyết theo con đường
dung hòa hay là vừa nhập thế vừa xuất thế, vừa hành vừa tri
của Quốc-sư khuyên nhủ. Quốc-sư đưa ra chủ-trương ấy bất quá lúc
bấy giờ là để chiều theo ý muốn của triều-đình do thái-sư
đại-diện với một số cố-lão, cương quyết mời nhà vua trở về
Kinh-đô, còn như Thái-Tông vị tất đã thực lòng tin hẳn thuyết
ấy là phải. Bất quá Thái-Tông tạm lấy giả-thuyết để thực
hiện đấy thôi. Giá trị chân hay giả của nó còn chờ ở
công-trình thực-nghiệm của tác giả vậy. Bởi vậy Thái-Tông mới
viết lời bài tựa đoạn kết-luận vô-cùng trọng đại này về
triết-lý Thiền-Tông :
"Trẫm dữ Quốc-nhân hồi Kinh, miễn phi tiễn vị,
thập sổ niên gian mỗi ngộ cơ hạ, chiếp hội kỳ đức, tham vấn
Thiền-đạo, cập chư đẳng giáo đẳng kinh vô bất nghiên- cứu.
Thường độc "Kim-cương", chí "Ứng vô sở trụ nhi sinh
kỳ tâm"... chi cú, phương nhĩ phế quyển ngâm gian, khoát-nhiên
tự ngộ. Dĩ kỳ sở ngộ nhi tác thị ca, mục viết "Thiền-tông
chỉ nam". (7)
"Trẫm cùng với người trong nước về Kinh-đô,
gắng gượng lên ngôi. Trong khoảng mười năm trời, mỗi khi nhàn
rỗi việc nước, liền hội họp các vị đức cao hỏi-han về đạo
Thiền, cho đến cả các kinh sách của các giáo-lý chính, không đạo
nào không nghiên cứu. Ngày thường đọc kinh Kim-cương, đến câu
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" "nên sinh ra cái
tư-tưởng không chấp vào cái gì" đang lúc bỏ sách xuống ngâm
thì thình-lình sáng tỏ. Bèn đem cái chỗ sáng -tỏ ấy mà làm ra
những bài ca này, đặt tên là "Thiền tông chỉ nam" nghĩa là
"kim chỉ đường cho tôn-chỉ Thiền-học."
Đoạn văn kết-luận trên đây cho thấy biện-chứng
pháp của Thái-Tông để thực-nghiệm giả-thuyết chấp-trung của
Quốc-sư trên kia : trong khi làm phận-sự nhập-thế không quên cứu
xét tâm-linh-học, tìm hợp nhất cả "tri" lẫn "hành".
Về hành-động thì nhà vua coi tính mệnh nhẹ như lông hồng, xông-pha
mũi tên, hòn đạn hết sức mạo-hiểm. Sử chép : "Vua thân
hành đi tuần biên-giới vào địa giới nhà Tống, đi qua châu Khiêm,
và Liêm, tự xưng là trai-lang, bỏ thuyền ở đất Tống, chỉ dùng
thuyền Kim-Phượng và Nhật-Quang mà đi người Châu ấy không biết
là Vua; đến lúc biết, liền chăng xích sắt ở dòng sông để chận
đường thủy, Vua liền trở về, nhổ vài chục cọc sắt đem về."
(Tr.175 Việt-sử tiêu-án)
Lại một cử-chỉ khác càng tỏ rõ nhân-cách của
Thái-Tông trên con đường xử-thế tiếp- vật không phải không có
hiệu -quả vào sự giác-ngộ của tác-giả Thiền-Tông chỉ-nam :
"Trần-Liễu sau khi tức giận bị cướp mất vợ, liền chiêu quân
nổi loạn. Chẳng bao lâu thấy sức không địch nổi Thủ-Độ bèn
nhân lúc Thái-Tông ngự thuyền đi chơi, Trần-Liễu lẻn đến thuyền
nhà Vua xin hàng. Hai anh em bây giờ ôm nhau màkhóc. Thủ-Độ được
báo-tin, liền xông đến tuốt gươm toan chém Trần-Liễu và to tiếng
rằng "Phải giết giặc Liễu!" Vua vội-vàng dấu Liễu đi đưa
thân ra nhận, Thủ-Độ ném thanh kiếm nói : "Thủ-Độ này là con
chó săn thôi, biết đâu sự thuận hay nghịch của anh em nhà vua".
Vua phải giảng mãi, rồi cho Liễu đất An-sinh làm nơi ở riêng, va
phong cho Liễu làm An-sinh-vương mà giết những kẻ theo làm loạn.
(Việt-sử tiêu-án tr. 174)
Trần-Dụ-Tông về sau có thơ khen rằng cử-chỉ ấy của
Thái-Tông, so sánh với Đường Thái-Tông bên Tàu hiện là Trinh
Quán giết anh là Kiên-Thành làm phản :
Đường Việt khai cơ lưỡng Thái-Tông;
Đường xưng Trinh-Quán, ngã Nguyên- Phong
Kiến-thành chu-tử, An-sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.
(Việt-sử tiêu-án)
Nghĩa là :
"Nhà Đường bên Trung-Hoa và nhà Trần bên
Việt-Nam đều có hai vua Thái-Tông.
"Nhà Đường lấy hiệu là Trinh-Quán, nhà Trần
lấy hiệu là Nguyên-Phong
"Đường-Thái-Tông giết anh là Kiến-Thành làm
loạn. Việt Thái-Tông không giết anh là An-sinh làm loạn.
"Tên hiệu hai bên giống nhau nhưng đức-độ thì
khác nhau."
Đấy là một vài cử-chỉ tỏ rõ nhân-cách
Thái-Tông sau khi trở Kinh-đô"miễn cưỡng lên ngôi" và
ròng-rã hơn mười năm trời vừa tổ-chức lại cả một quốc gia
về tất cả các phương diện, kinh-tế, chính-trị, văn-hóa, xây-dựng
Quốc-học, lập-thi Tam-giáo, lại chính tay viết lấy bài minh để dạy
Hoàng-tử : "Trung, hiếu, hòa-tốn, ôn-lương, cung-kiệm"
(Việt-sử tiêu-án). Ngoài ra đánh dẹp giặc-dã, đánh Chiêm-thành,
chống quân Mông-cổ, tự mình ra trận-tiền đốc-suất ba quân. Trong
khi ấy "mỗi khi gặp lúc rảnh rỗi việc lại tập-họp các vị
kỳ-đức tham hỏi đạo Thiền cùng kinh sách của các giáo-lý chính,
không sách nào không nghiên cứu". Như thế đủ tỏ Thái-Tông
có tinh thần cởi- mở luôn luôn cầu tiến sẵn-sàng vượt lên,
không từng cố chấp. Đấy là tinh thần học-đạo thực-hiện rất
thích-hợp với triết-lý Thiền như kinh Kim-cương, Bát-nhã đã toát
yếu.Thái-Tông viết : "Thường đọc kinh Kim-cương đến câu
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" nên nẩy sinh cái tâm hay
tư-tưởng không vướng-víu vào cái gì." đang lúc đặt sách
ngâm thì thình lình tự thấy ngộ".
Giác-ngộ hay "ngộ" là thấy trực-tiếp
chân-lý tức là kiến-tính thấy trực giác Phật-tính tại tâm mình
là Thực-tại tuyệt-đối vũ-trụ đồng nhất thể.
Trong Thiền-đạo tu-tập Chang-Cheng-Chi có giới-thuyết
về ngộ như là trọng tâm của Thiền-đạo : "Ngộ là thực
nghiệm trực tiếp về sự chứng-kiến; khai mở hay thực-hiện
tâm-bản-thể đến chỗ viên-mãn. Ở bản-thể thì vừa sáng-tỏ,
vừa không, vừa tĩnh, vừa động; vừa siêu-việt vừa tiềm tàng,
vừa tự do, vừa bao quát. Những thực nghiệm về Ngộ thì vừa
thuần-nhất lại cũng đa-thù, thuần-nhất vì chúng ở thể tính thì
đồng-nhất, đa-thù vì chúng khác nhau về bề sâu, tỏ sáng và
tiến-bộ. Đấy là một ý-niệm toát-yếu về ý-nghĩa và tính-chất
chữ Ngộ."
(The practice of Zen Chang-Chen-Chi New-york 1959)
Vậy "Ngộ" là biện chứng ý-thức toàn diện
hay Bát-nhã. Trong truyền-thống Thiền-học chữ "Ngộ" chỉ vào
những kinh nghiệm nội-tâm về sự thức tỉnh chân-lý Bát-nhã
(Prajna=truth). Nó thường đi đôi với chữ Giác, thành danh từ
Giác-ngộ. Giác là Bồ-đề-tâm (Bodhi), Ngộ là trên đường thức
tỉnh, đã thành-tựu viên-mãn.
Thực-tại toàn-diện tối-cao là sống-động,
sinh-thành, sáng-hóa, vượt qua điều-kiện phạm-trù danh-lý. Cái
ý-thức hay tâm giác-ngộ đồng nhất với Thực tại tuyệt-đối
ấy, cho nên bản-tính là biện-chứng vượt lên trên khẳng-định
lẫn phủ-định của lý-trí danh-lý. Kinh Kim-cương viết :
"Phật cáo tu-bồ-đề : ư ý vân hà?... Bồ-tát
trang nghiêm Phật thổ phủ? Bất dã Thế-Tông! Hà dĩ cố? Trang-nghiêm
Phật thổ giả tức phi trang-nghiêm thị danh trang- nghiêm. Thị cố
Tu-bồ-đề : Chư Bồ-tát Ma-ha-tát, ưng nhi sinh tịnh tâm; bất ưng trụ
sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị; xúc, pháp, sinh tâm, ưng
vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm."
(Kinh Kim-cương Bát-nhã Ba-la mật kinh)"
"Phật bảo tu-bồ-đề : ý ngươi thế nào?...
Bồ-tát có Phật-thổ trang nghiêm chăng? Không, bạch Thế-tôn! Bởi
cớ sao? Bởi trang-nghiêm Phật-thổ như chẳng phải trang-nghiêm, ấy
gọi tên là trang-nghiêm. Bởi vậy hỡi Tu-bồ-đề! Các
đại-bồ-tát, nên sinh cái tâm thanh-tịnh như thế này : chẳng nên
sinh tâm trụ vào sắc, chẳng nên sinh tâm trụ vào thanh, hương, vị,
cảm xúc, hình-tướng. Nên sinh tâm không có trụ vào đâu cả."
Đấy là đoạn kinh Kim-Cương màThái-Tông đã
ngẫm-nghỉ, thực-nghiệm ở bản thân trong khoảng hơn mười năm mới
tỏ ngộ được, đủ tỏ cái chổ đắc-đạo sở-trường của
Thái-Tông vậy. Xưa kia Ngủ-tổ giảng kinh Kim-Cương cho Lục-tổ
Huệ-Năng đến câu này : "Nên sinh tâm không trụ vào đâu".
Dứt lời Lục-tổ liền tỏ ngộ mànói : "Nào ngờ tự-tính
thanh-tịnh, nào ngờ tự-tính vốn không sinh diệt, nào ngờ tự-tính
vốn đã đầy đủ, nào ngờ tự-tính vốn không lay-động, nào ngờ
tự-tính hay sinh muôn vật tướng!"
"Tổ biết tôi ngộ được bản-tính rồi, mới bảo
tôi rằng : "chằng nhận rõ được bản-tâm thì học PHÁP có ích
gì? Nếu nhận rõ được bản-tâm mình, thấy rõ được bản-tính,
thế là Trượng-phu Thiên-Nhân Sư Phật".
Tổ... vi thuyết Kim-Cương kinh, chí ứng vô sở trụ nhi
sinh kỳ tâm, Tuệ-Năng ngôn hạ đại-ngộ, nhất-thiết vạn pháp bất
li tự-tính, toại khỏi Tổ ngôn : "hà kỳ tự-tính bản tự
thanh-tịnh, hà kỳ tự-tính bản bất sinh diệt, hà kỳ tự-tính bản
tự tụ túc, hà kỳ tự-tính bản vô động dao, hà kỳ tự-tính
năng sinh vạn-pháp. Tổ tri ngộ bản-tính; vị Tuệ-Năng viết :
"bất thức bản-tâm học Pháp vô ích. Nhược thức tự
bản-tâm kiến tự bản-tính tức danh Trượng-phu Thiên-Nhân-Sư Phật.
(Lục-tổ Đàm kinh)
Tổ vì tôi giảng-kinh Kim-cương, đến câu "Ứng vô
sở trụ nhi sinh kỳ tâm" (nên có nảy sinh cái tâm không
dính-líu vào đâu cả). Tôi nghe xong cả ngộ có lẽ hết thảy muôn
vật không ngoài tự-tính, mới bạch Tổ : "Hay đâu tự tính
nguyên vốn thanh-tịnh, hay đâu tự-tín nguyên chẳng sinh chẳng diệt,
hay đâu tự-tín vốn tự đầy-đủ, hay đâu tự-tín sinh ra muôn
pháp". Tổ biết Tôi ngộ được bản tính mới bảo Tôi rằng :
"chẳng nhận rõ được bàn-tâm thì học PHÁP có ích gì? Nếu
nhận rõ được bản-tâm thấy rõ được bản-tính thế là
Trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư-Phật.
(Lục- Tổ đàm kinh)
Trên đây là Huệ Năng kể lại nhờ câu kinh
Kim-cương "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" mà giác-ngộ
được bản-thể-tự-nhiên (chose en soi) của vũ-trụ thì Thái-Tông
cũng ngẫm nghĩ câu kinh ấy mà giác-ngộ một cách đột-nhiên bừng
sáng "Khoát nhiên tự-ngộ". Ý Thái-Tông muốn nói là đến
đấy thấy tâm ý-thức của mình tự-nhiên mở rộng không còn
vướng-víu, thống suốt chân-lý vậy. Như thế, là Thái-Tông đã
thực-hiện được cái tâm trực-giác "Phật vô Nam Bắc"
nghĩa là "Phật tức tâm"đồng nhất nội giới với
ngoại-giới; tâm năng-tri với vật-sở-tri, chủ với khách, hay là
biện chứng theo luận-điệu kinh Kim-cương vượt lên trên phạm trù
danh-lý "có" và "không" đến bình-diện tâm-linh
siêu-nhiên tổng-hợp bao hàm tất cả mâu-thuẫn : Có, Không, vừa
Có vừa Không, vừa Không Có, vừa Không Không.
"Dialectic is a self-concious spiritual movement, it is
necessarily a critique of Reason. This is not pissible without the conciousness of the
opposition of the thesis anh the antithesis. These must be at least two viewpoints or
patterns of interpretation diametrically opposed to each other. A dilemma is not a
dialectic, for that is a temprary predicament having reference to a particular situation.
The Dialectic is an universal conflict "affecting every sphere of things."
(The Central Philosophy of Buddhism, T.R.V. Murti London 1955)
"Biện-chứng là vận-động tinh-thần tự ý thức,
tất-nhiên nó là một sự phê-phán lý-trí. Cái điều ấy không
thể có được nếu không có cái ý-thức về sự đối kháng của
chính-đề và phản-đề. Ít nhất thì ở đấy phải có hai quan điểm
hay cách-thức giải thích ngang-trái cái nọ với cái kia. Một
lưỡng-luận hoặc thế này hoặc thế kia không phải là một
biện-chứng bởi vì nó chỉ là một đoạn-án tạm thời có liên can
đến một cảnh-ngộ đặc-biệt nào. Biện-chứng là một sự
xung-đột đại-đồng ảnh-hưởng các phạm-vi của sự vật."
Chính cái triết-lý biện-chứng ấy, một vận-động
tinh thần tự-ý thức mà Thái-Tông đã đạt tới với câu kinh
Kim-cương trên kia, màNgài trình-bày thành những bài ca gọi tên là
"Thiền-tông chỉ-nam". Và theo thiển-ý thì "Thiền
tông-chỉ-nam" cũng chính là sách có tên là : "Khóa-Hư"
nghĩa đen là bài học về cái "Không" hay là
"sùnyatà=Không Hư, Chân không. Bởi vì theo Phật thì thế giới
hiện-tượng hình-danh sắc-tướng (nama-rupa) là huyền-ảo không có
thật cũng như sắc, thụ, tưởng, hành- thức, từ giác quan đi vào
và chỉ là bọt nước, bào-ảnh, tự nó không thật. Trong kinh Majjhima
Nikaya có nói :
"Ngọn đèn cháy nhờ vào dầu và bấc. Nó không
phải ở tại cái này hay cái kia hay là tại nó. Hiện-tượng cũng
thế, tự nó không là gì hết. Tất cả sự vật đều không có
thật, chúng đều là huyền-ảo. Chỉ Niết-Bàn mới là
chân-thật."
(Majjh. N. III p. 245 dialogue 140)
Long-Thọ Bồ-Tát (Nagarjuna) người sáng-lập ra biện
chứng (Madhyamika) = Trung-Quán cũng căn-cứ vào đoạn kinh trên mà
nói : "Khi tuyên bố là thất-vọng, huyễn-ảo, Thế Tôn ngụ-ý
Sunyata (Không) làsự lệ-thuộc của sự vật" Vậy
"Khóa-Hư" là bài học về Sunyata tức là bài học triết-lý
biện-chứng giác-ngộ sự mâu-thuẫn tất-nhiên và toàn-thể của
lý-trí và tìm giải-quyết bằng sự vượt lên trên bình-diện
ý-thức cao cả hơn. Như thế thì "Khóa-Hư chính là triết học
Thiền, một biện-chứng Bát nhã hay trực-giác đồng-nhất với
Tự-tính hay vật tự-thân (chose en soi) như Thái-Tông và Tuệ-Năng
đã nhờ kinh Kim-cương mà thực-hiện vậy. Sau khi nói chỗ sở-ngộ
của mình ở câu ách-yếu của kinh Kim-cương "Ứng vô sở trụ
nhi sinh kỳ tâm"= "nên sinh ra cái tâm mình không dính-líu vào
đâu cả". Thái-Tông kết-luận lời tựa "Thiền-Tông
chỉ-nam" vào lời tán-thán đồng-tình của sư phụ Phù-Vân :
"Chư Phật chi tâm tận tại thị hỹ"= "Tâm của các vị
Phật trọn vẹn cả ở đây vậy." Với câu nói ấy người ta
thấy được nhàsư Phật xuất-thế vô-vi Việt-Nam bấy giờ với nhà
vua nhập-thế hành động đã lại cùng gặp nhau ở cả cái Tâm
Không-Hư trên con đường triết-học biện-chứng giác-ngộ.
Triết-học ấy chính là bài học về công-phu thực-hiện cái tâm hư
nó là nguồn cảm-hứng nghệ-thuật để tác-giả sáng-tác những
bài ca đạo-lý trong "Khóa-Hư-Lục" như tác-giả đã nói trong
lời tựa "Thiền-Tông chỉ-nam" "dĩ kỳ sở-ngộ nhi tác thi
ca mục viết "Thiền-Tông chỉ-nam", tức là
"Khóa-Hư-Lục" vậy.
Khóa-Hư-Lục hay sách giảng về Thái-Hư nghĩa là Chân
Không hay là "Viên đồng Thái-hư (Sunyata)
Thể tài :
Hiện nay sách này gồm những bài biền-ngẩu xen với
những bài kệ Đường-thi để tụng đọc. Nguyên văn là chữ Hán
của Trần-Thái-Tông. Bản tôi nghiên-cứu nhan-đề Trần- Thái-Tông
ngự-chế Khóa-Hư trong Việt-Nam "Phật-điển tùng-san", quyển
thứ bảy do Hà-Nội, Bắc-kỳ Phật giáo tổng-hội phát hành (1943)
cósự bảo-trợ của "Hà-Nội Viễn-Đông Bác-cổ Học-viện
hộ-san".
Theo bản này thì mở đầu có bài
"Ngự-chế-khóa-hư tự dẫn" của Nguyễn-Thận-Hiên pháp danh
là Đại-Phương Tổng-đốc Ninh-Thái (Bắc-Ninh Thái-Nguyên) mà ông
Gaspardone trong Bibliographie Anamite E F E O" ngờ là Nguyễn-đăng-Giai.
Lời tựa rất mạnh-lạc gọn-ghẽ rõ-ràng, xin trích-dịch đoạn văn
chính-yếu :
"Thị lục đã. Trần triều Thái-Tông Hoàng ngự
chế đã. Thành dĩ nhân-sinh tòng vô thủy vô lượng kiếp lai, thất
khước bản tâm, vọng tri chinh đạo, trụy tam đồ khổ, do lục căn
phi. Cẩu bất hối ư tiền khiên, nan vọng thành phù hậu-quả, thử
lục chi sở dĩ tác giả.
"Tiên liệt nhân chí tứ sơn, phối thiên chi tứ
thời, dĩ Sinh, Lão, Bệnh, Tử , thế sở tất-nhiên, do chi Sinh,
Trưởng, Thu, Tàng, hỗ-tương luân-hoán, vô-hữu cùng dĩ.
"Vô-luận thề xuất-thế gian nhân, giai đương cầu
hành tu sám. Tâm đương hư dã, thời bất khả hư dã nhi công quả
vưu bất khả thời khắc hư dã. Cố định dĩ trú dạ lục thời, thủ
chi dĩ chúc hương khải bạch, thứ chi dĩ sám hối khuyến-thỉnh, chung
chi dĩ hồi hướng phát-nguyện. Tòng mộ chi triêu, do nhật nhập dạ,
mỗi mỗi lục niệm ân cần, ai-vọng Từ-tôn, khẩn-cầu lân-hựu,
dữ Hạ-Vũ cạnh tích thốn âm chi tâm, vô-gián nhiên hỹ.
"Kỳ văn ước nhi lý phả minh, kỳ vi giảm nhi công
dị tập. Hà khả nhân thử nhi át tâm viên, phòng ý mã, siêu
khổ-hải, độ mê-tân. Tuy liễu ngộ viên-dung "vị tận thử chi
tiền phần cổ đức sở tác, nhi đẳng thập địa chi giai thê, xuất
tử sơn chi tiệp kính giả, vị khả ư thử hồ quyết giả. Phù Đế dĩ
Trần gia lệnh tích dả, nãi năng thân đoan vạn thặng niệm chúc
Tam-tôn, sả cổn miện nhi phục điều y, ly điếu tháp nhi an thảo tọa,
bất đản nhất thời tu tự biến tháp, cúng Phật độ Tăng, lợi
ích thường sinh, xuất-ly khổ thú nhi dĩ dã. Diệc thả khắc tự gia
cần tu chi niệm, tập vi sám-hối văn kệ nhất tập, danh viết Khóa-Hư
thi chi lai hử. Sở vị thiên hiền nhất nhân dĩ cảnh chúng nhân chi
ngu, thiên phú nhất nhất nhân dĩ cảnh chúng nhân chi bần, Đế kỳ
tại thế chi hoạt Phật dư, diệt tái tạo chi Bồ tát dư !
(Hoàng-triều Minh-Mệnh, Canh Tý, Thu quý Khánh-hỷ-nhật)
"Dịch nghĩa= sách này chính tay vua Trần-Thái-Tông
viết ra. Sỡ dĩ làm ra sách này thực là vì người ta từ bao kiếp
tới nay, quên mất bổn tâm, chẳng biết đạo chính đọa ba đường
khổ, bởi sáu căn sai. Nếu không sám-hối lỗi trước, khó sao mong
được quả sau. Trước hết phân biệt "Bốn từng núi" của
người mà sánh với "Bốn mùa của Trời". Cho Sinh, Già, Ốm,
Bệnh, Chết là thế tất-nhiên vì như lẽ Sinh, Trưởng, Thu, Tàng cùng
nhau thay-đổi không bao-giờ thôi."
"Không cứ gì phái thế-gian (tại gia) hay phải xuất
thế-gian (xuất gia) đều nên chăm-chỉ tu hành sám-hối. Tâm nên
hư-không, thời giờ không thể bỏ không được, mà công-phu
học-tập càng không thể một phút bỏ hư-không được, cho nên
nhất-định cứ đúng lệ ngày đêm chia làm (6) buổi : 1/ Đầu tiên
dâng hương, 2/ Tâm bạch, 3/ Thứ đến sám hối, 4/ Khuyên mời, 5/ Sau
chót là hồi-hướng, 6/ Phát nguyện. Từ tối đến sớm, từ ngày
đến đêm thường thường ân-cần sáu Khóa-niệm, kêu thương với
Đức Thế Tôn, khẩn-cầu thương-giúp, so với lòng tiếc từ tấc
bóng quang-âm của Vua Hạ-Vũ cũng không khác chút nào vậy.
"Lời văn yếu-ước mà lời lẽ rõ ràng, việc
làm giản-dị, mà công dễ tới; có thể nhân đó mà ngăn lòng
vượn, phòng y-mã, vượt bể khổ qua bến mê. Tuy rằng về phần
thấu-suốt viên-dung chưa chắc đã sánh tầy với các sách của các
bậc thượng-đức đời xưa, nhưng bước lên bậc thang thập-địa, ra
khỏi đường tắt Bốn Núi, thì không thể thiếu bộ sách này
được.
"Ôi ngài là một bậc Vua hiền đời Trần mà hay
thân chính ngôi vạn-thặng, niệm tới bậc Tam-Tôn, bỏ cổn miện để
mặc nâu sồng, dời sập chạm mà ngồi đệm cỏ, không những trong
một dời Ngài, chỉ sửa chùa xây tháp, cúng Phật độ Tăng, làm
lợi-ích cho thương-sinh, thoát-ly khỏi lối khổ mà thôi đâu. Lại
còn hay đem các cách tự mình chăng niệm, biên làm một tập
Sám-hối văn-kệ, đặt tên là tập Khóa-Hư để chỉ bảo cho đời
sau : Đem câu : "Trời sinh một người hiền để khuyên-răn cái
ngu của mọi người. Trời sinh một người giàu để cứu giúp nỗi
nghèo của mọi người. Mà ngẫm xem, thì Ngài đáng là một vị
Phật-sống ở đời, mà cũng là một vị Bồ-tát tại thế vậy.
(Thượng-Ninh-Thái pháp danh Đại-Phương,
Nguyễn-Thận-Hiện, viết ngày Khánh-hỷ, tháng 9, năm Canh-Tý đời vua
Minh-Mạng bản dịch của Thiều Chửu)