- NGUYỄN DU VÀ VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SANH
Tôi đã đọc ở
đâu đó một câu thơ Tiền chiến :
-
“Trong những cảnh rừng sâu cây lả ngọn
-
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi …”
Đó là một câu thơ lạ,
càng lạ hẳn đối với thơ Tiền chiến. Nhưng nếu ai biết được những
uẩn khúc của Chế Lan Viên đối với dân tộc Chiêm Thành, thì bất quá cũng
sẽ bảo họ Chế có mối đồng cảm sâu sắc với giống
dân Hời. Dẫu sao thì cũng không có nhiều nhà thơ có giàn Ăng-ten dễ bắt
sóng với tần số cõi âm như thế. Nếu có, phải kể đến trước Chế
Lan Viên hơn 100 năm, khoảng cách giữa hai thế kỷ, hai thời đại, hai tâm
hồn và muôn trùng cảnh ngộ, ta dựng cả tóc gáy lên khi đọc mấy câu
thơ :
-
“Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
-
Lặn
mặt trời lần thẩn tìm ra
-
Lôi
thôi ẳm trẻ dắt già…”
Vâng ! Thơ ở đây không
còn là thơ nữa, mà là Văn tế, Văn chiêu hồn, đúng hơn là một bài kinh
trong nghi lễ cúng thí, được bình dân hóa thành thể thơ song thất lục bát,
một thể thơ rất gần với dân tộc Việt, qua tâm hồn bát ngát của Đại
thi hào dân tộc : Nguyễn Du.
Hẳn không thừa khi nhắc
lại nơi đây lời tán thán của Mộng Liên Đường chủ nhân đối với Tố
Như Tử : “Tố
Như Tử dụng tâm chi khổ, tự sự chi thần, tả cảnh chi công, đàm tình
chi thiết, tự phi nhãn phù lục hợp, tâm quán thiên thu vị tất hữu thử
bút lực dã …”.
Tôi hạ bút viết bài này
khi ngoài kia trời đang mưa sùi sụt. Tôi ngồi đây với những câu chữ của
Nguyễn Du, những câu chữ có hồn (hiểu
theo đúng nghĩa đen của nó), nhưng không phải là hồn đơn bóng chiếc,
mà là :
-
“Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
-
Quỷ
không đầu van khóc đêm mưa”.
Hay :
“Trăm loài ma xắm nắm chung quanh”.
Tôi chợt nghĩ tới
những trai đàn chẩn tế, trên cao là Tiêu Diện Đại Vương cầm linh kỳ
trợn mắt, tiếng Kinh sư xướng cao cùng tang linh mỏ khánh, tiếng chiêng
trống xập xèng, từng đoàn trẻ nhỏ nhào lên giật bánh, không biết những
oan linh hồn xiêu phách lạc có vào được trai đàn … hưởng thọ hương
hoa ? Nếu không, hãy chờ lúc hạ đàn, khi bốn bề lạnh vắng, đọc lại
“Văn Chiêu Hồn” của Nguyễn Du, hẳn cũng có kẻ hưởng phần lợi lạc.
Bởi chính Nguyễn Du đã viết :
-
“Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
-
Có
câu rằng “Vạn cảnh giai không”
-
Ai
ai lấy Phật làm lòng
-
Tự
nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi …”
Chỉ có người “lấy Phật
làm lòng” mới có được cái nhìn thấu thị với tất cả chúng sanh
trong mười phương lục đạo bằng chính tấm lòng Từ bi bác ái như thế.
Nghĩ đến đây tôi chợt
ngờ ngợ rằng “Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh” của Nguyễn Du là một tác phẩm diễn Nôm từ một khoa
nghi của Phật giáo ?
ĐI
TÌM NGUỒN GỐC VĂN CHIÊU HỒN
Chưa ai biết đích xác
Nguyễn Du viết bài này trong thời gian nào. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện
hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần
báo” năm 1939, rằng Nguyễn Du trước tác bài này sau một mùa dịch khủng
khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng
nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu
siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân
Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết “Văn Chiêu Hồn” trước cả Truyện
Kiều, khi ông làm Cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812) (Sđđ, tr.415). Không có
tài liệu nào để chứng minh Nguyễn Du diễn Nôm “Văn Chiêu Hồn” này từ
một tác phẩm của Phật giáo. Ngay cả xuất xứ của tác phẩm này, dù đã
được minh định là của Nguyễn Du nhờ phong cách, tình điệu và nhất
là nhờ hợp với chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện
Kiều hay thơ chữ Hán, song các phát hiện về bản văn này cũng chỉ nhờ
2 bản Nôm, 1 bản khắc ván năm 1895, gọi là bản Chính Đại, được tàng trữ ở chùa Hưng Phú, xã Hạ Lôi, huyện
Vũ Giàng, tỉnh Bắc Ninh; 1 bản do cụ Lê Thước phát hiện ở chùa Diệc
(phía Bắc thành Nghệ An xưa), phiên âm
và công bố năm 1924 (Sđđ, tr.409). Như vậy việc phát hiện tác phẩm này
cách thời gian viết ra nó đến gần cả trăm năm. Từ đó người ta chỉ
lo chú ý đến việc phân tích và chú giải, ít có ai nghĩ đến xuất xứ
của bản văn, ngoại trừ một số vị sư am tường nghi lễ Phật giáo,
song cũng chưa có một bài khảo cứu rạch ròi chuyện này.
Có thể ở thời đại
Nguyễn Du, các khoa nghi cúng thí bằng Hán văn quá xa lạ với quần chúng,
Nguyễn Du đã vì số đông người không hiểu chữ Hán nên diễn Nôm lại
nghi thức này cho mọi người được hiểu, như đã từng diễn Nôm tiểu
thuyết Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân thành Truyện Kiều vậy.
Về giá trị nghệ thuật cũng như sự sáng tạo độc đáo của tác phẩm
ta sẽ bàn ở một phần sau, vấn đề ở đây là làm sao chứng minh nhận
định ở trên là đúng ?
Đọc lại Văn Chiêu Hồn
của Nguyễn Du, tất cả gồm 184 câu thơ song thất lục bát, ta thấy tác
phẩm gồm 3 phần chính : Phần đầu giới thiệu cảnh vật não nề thê
thiết của “tiết tháng bảy mưa dầm sùi
sụt”, hơi may lạnh buốt, lá thu rụng vàng … Một cảnh tượng
dương gian đầy u ám ấy để giới thiệu một cõi âm nhập nhòa hồn
thiêng phách lạc : “Cõi dương còn thế huống
là cõi âm …”. Phần 2 cũng là phần chính của tác phẩm, tác giả
cung chiêu tất cả 13 loại cô hồn từ anh hùng tướng soái đến những kẻ
tiểu nhi tấm bé, rồi kể hết những trường hợp hoạnh tử oan khiên của
những người đã khuất bằng tất cả sự cảm thông sâu sắc. Phần cuối
của tác phẩm là những lời nhắn nhủ đối với người cõi âm, lấy Phật
làm lòng, hướng về nẻo thiện, nương nhờ Phật lực để siêu sanh Tịnh
độ. Một tác phẩm có bố cục chặt chẽ như thế mà nói rằng Nguyễn
Du chỉ mượn cõi âm để nói chuyện cõi dương, mượn tâm sự để vẽ lên
bức tranh đời sống hiện tại, đồng thời tố cáo những cường hào ác
bá theo kiểu “chủ nghĩa hiện thực phê phán” như một vài người đã
nhận định là hoàn toàn không hợp lý (*).
Để chứng minh rằng Văn
Chiêu Hồn của Nguyễn Du là diễn Nôm từ một khoa nghi Phật giáo, không
gì hơn là tìm hiểu chính những khoa nghi của Phật giáo, sau đó đối chiếu
và tìm những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm. Hiện tại chúng ta cũng
không biết chính xác thời điểm ra đời của tác phẩm, nên cũng không biết
được Nguyễn Du đã sử dụng bản văn nào để diễn Nôm. Tuy nhiên, dạng
văn học chiêu hồn trong nghi lễ Phật giáo đã xuất hiện rất sớm từ
Trung Quốc, nghi thức cúng cô hồn đã có trước Nguyễn Du hàng ngàn năm,
đồng thời cách trình bày các loại cô hồn trong Văn Chiêu Hồn cũng rất
giống với khoa nghi, nên không thể xem văn chiêu hồn hoàn toàn là sáng tạo
của Tiên sinh. Ở đây cần phải nói thêm rằng dù chứng minh đây là tác
phẩm phóng tác thì cũng không hề làm giảm giá trị tuyệt vời của tác
phẩm, giống như Truyện Kiều không hề kém giá trị khi nó được phóng
tác từ một tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân.
Nghi thức cúng
thí thực cô hồn vốn là một loại hành nghi của Mật giáo. Nghi thức
này đầu tiên căn cứ vào Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà-la-ni do
ngài Bất Không dịch vào đời Đường, Trung Quốc. Kinh này thuật lại việc
Đức Phật dạy ngài A-nan cách thức cúng thí để thoát khỏi khổ nạn ngạ
quỷ, đồng thời tăng phước tăng thọ. Nguyên bản kinh này đầu tiên là
do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch, ngài Bất Không chỉ dịch lại cùng với một
số kinh điển liên quan khác như Kinh Du-già Tập Yếu Cứu A-nan Đà-la-ni
Nghi Quỹ, Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp …
Đến đời Tống, các Danh
tăng Trung Quốc lại hưng khởi pháp thí thực, phần nhiều các Ngài đưa
thêm những kinh điển Hiển giáo có liên quan đến Mậït giáo vào nghi thức
để tác pháp cúng dường, trì tụng chân ngôn, rồi biên soạn ra nhiều
nghi thức để lưu hành. Đến đời Nguyên, do Mật giáo chiếm địa vị trọng
yếu ở Trung Quốc, các vua quan Nguyên triều tôn sùng Mật giáo nên pháp
Du-già thí thực lại càng hưng thịnh. Đương thời cuốn Du-già Tập Yếu
Diệm Khẩu Thí Thực Nghi, 1 quyển (không
rõ dịch giả) là tác phẩm được lưu hành rộng rãi nhất. Nghi thức
này chia làm 2 phần : Nửa phần đầu tụng 35 danh hiệu Phật, “Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm Tụng” và bài cúng dường Tam bảo; nửa phần sau là
Quán Âm Định, Phá Địa Ngục chân ngôn và bài Thí Ngạ Quỷ Thực. Hiện
tại các nghi thức thí thực đều dựa theo tác phẩm này rồi thêm bớt
mà thôi.
Đến đời Minh, các nghi
quỹ thí thực được dùng trong các tông phái bất đồng. Về sau, Thiền
sư Thiên Cơ dựa trên cơ sở “Du-già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi” san
lược những phần phồn tạp, soạn thành “Tu Tập Du-già Tập Yếu Thí Thực
Đàn Nghi”, thường được gọi là “Thiên Cơ Diệm Khẩu”. Sau, Đại
sư Vân Thê Châu Hoằng lại lượt bớt và hiệu đính, soạn thành “Du-già
Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ”, đồng thời có chú giải tỷ mỷ. Đến đời
Thanh, ngài Đức Cơ ở núi Bảo Hoa lại biên tập tác phẩm này thành “Du-già
Diệm Khẩu Thí Thực Yếu Tập, thường được gọi là “Hoa Sơn Diệm Khẩu”.
“Thiên Cơ Diệm Khẩu” và “Hoa Sơn Diệm Khẩu” là 2 nghi thức được
lưu hành rộng rãi vào đời Thanh. Tất cả các tác phẩm kể trên hiện đều
được xếp vào Đại Chánh Tạng hoặc Vạn Tục Tạng Kinh.
Ở Việt Nam, không rõ nghi
thức Thí thực này được truyền vào từ lúc nào. Nhưng theo Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang thì từ đời Trần, nghi thức cúng cô hồn
cũng rất thịnh hành. Song song với các kinh sách của thiền phái Yên Tử,
các nghi quỹ thí thực cũng được lưu hành rộng rãi. Câu chuyện Tam tổ
Huyền Quang đăng đàn chẩn tế và có sự linh nghiệm trước mặt vua quan
cũng đã chứng minh điều đó. Hiện chúng tôi đang có trong tay một bản
“Mông Sơn Khoa” do hiệu Phúc Nguyên khắc bản (không rõ năm nào) mà tương truyền là tác
phẩm này từng được Tam tổ Huyền Quang dự soạn. Không rõ Nguyễn Du đã được đọc tác
phẩm này chưa ?
Nghi thức Chẩn Tế cô hồn
ở Việt Nam hiện tại gồm có 3 loại : Đại khoa, Trung khoa và Tiểu khoa
nghi. Bản Đại khoa mà chúng tôi hiện có là “Diệm Khẩu Du-già Tập Yếu
Thí Thực Khoa Nghi”, gọi là “Thiên Hòa Tự Tàng Bản” do Tỳ-kheo Tánh
Tình phụng khắc vào mùa Phật đản năm Minh Mạng thứ 2 (tức năm Tân Tỵ, 1821). Nếu so với thời
điểm Nguyễn Du viết văn Chiêu Hồn (khoảng
1808-1812 hoặc sau nữa) thì bản văn này khắc sau không lâu, điều đó
chứng tỏ nghi quỹ này đã có ở Việt Nam cùng hoặc trước thời Nguyễn
Du. Trong bản này có khắc lại lời tựa của chính ngài Vân Thê Châu Hoằng
viết vào niên hiệu Vạn Lịch thứ 34 (1607). Đối chiếu toàn văn tác phẩm
này với tác phẩm của ngài Châu Hoằng trong Tục Tạng Kinh quyển 59 thì
đúng là 1 bản. Chúng tôi còn có trong tay 2 bản Trung khoa, 1 là “Sắc Tứ
Báo Quốc Tự Tàng Bản”, do công chúa An Thường cùng một số hoàng thân
triều Nguyễn mộ khắc vào năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh ( ) có sự chứng minh của Hòa thượng
Hải Thuận Lương Duyên; bản thứ 2 là Giác Viên Tự Mộng Sơn tàng
bản, được Giáo thọ Minh Khiêm Hoằng Ân (1856-1914) chứng minh khắc tại
chùa Giác Viên (trong khuôn viên Đầm Sen,
Tp. HCM hiện nay). Trung khoa chỉ là phần lược của Đại khoa. Nội dung
khoa nghi này đều có hai phần : Đàn thượng và Đàn hạ. Đàn thượng là
các nghi thức nhập đàn, ấn chú, chân ngôn; đàn hạ chính là phần thỉnh
Thập loại cô hồn. Nói là Thập loại, kỳ thực thỉnh đến 13 loại và
một số loại cô hồn được thỉnh chung. Nội dung văn Chiêu Hồn của
Nguyễn Du thì đại đồng tiểu dị với phần Đàn hạ này. Chúng ta thử
đối chiếu sơ lược hai phần này để xem chúng giống và khác nhau như thế
nào.
Về điểm giống
nhau, khoa nghi thỉnh 13 loại cô hồn, tác phẩm của Nguyễn Du tuy nói “Văn
tế thập loại cô hồn”, kỳ thực cũng kể đến 13 loại. Ngoài 13 loại
được thỉnh riêng, cả hai tác phẩm còn thỉnh chung nhiều loại khác nữa.
Khó mà có thể tin được sự sáng tác của Nguyễn Du lại ngẫu nhiên
trùng hợp một cách khít khao với một tác phẩm khoa nghi đương thời đã
lưu hành như thế. Còn sự khác nhau của 2 tác phẩm, có thể nói nằm ở
thứ tự của các loại. Ta thử so sánh.
Mười ba loại của
khoa nghi là :
- 1.
Hoàng vương đế bá.
- 2.
Anh hùng tướng soái.
- 3.
Quan văn.
- 4.
Văn nhân.
- 5.
Người xuất gia.
- 6.
Đạo sĩ.
- 7.
Thương nhân.
- 8.
Chiến sĩ.
- 9.
Sản phụ.
- 10. Di
địch.
- 11. Cung
phi.
- 12. Cái
bang.
- 13. Thập
loại cô hồn.
Mười ba loại của
văn tế là :
- 1.
Vương giả.
- 2.
Công nương.
- 3.
Quan văn.
- 4.
Quan võ.
- 5.
Thương nhân.
- 6.
Trí thức.
- 7.
Ngư phủ.
- 8.
Nông dân.
- 9.
Chiến sĩ.
- 10. Kỷ nữ.
- 11. Hành
khất.
- 12. Tù
nhân.
- 13. Tiểu
nhi.
So sánh hai tác phẩm thì
chúng ta thấy rõ ràng 13 loại cô hồn có phần tương đồng, khác chăng là
ở quan niệm sắp xếp trước sau. Đặc biệt là ở tác phẩm của Nguyễn
Du, tác giả không kể đến người xuất gia (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni) như ở trong khoa nghi,
phải chăng Nguyễn Du cho rằng những người xuất trần thượng sĩ thì sau
khi chết sẽ được tiêu dao thoát tục, không còn bị đọa làm cô hồn ?
Đây cũng là một điều đặc biệt nói lên thái độ của Nguyễn Du dành
cho hàng xuất gia. Theo chú giải của ngài Vân Thê Châu Hoằng thì hàng xuất
gia nếu hiện đời không liễu sanh thoát tử vẫn có thể bị đọa làm
cô hồn, nên vẫn được thỉnh trong khoa nghi. Còn Nguyễn Du, có lẽ tâm hồn
ông dành cho những người đau khổ, quằn quại, cô đơn, kể cả hạng Hoàng
vương đế bá, còn hàng xuất gia thì không. Có người cho rằng có thể
khi Nguyễn Du đọc khoa nghi, ông không hiểu các thành ngữ dành cho hạng xuất
gia như : “Hoàng
hoa thúy trúc, không đàm bí mật chơn thuyên; Bạch cổ lê nô, đồ diễn
khổ không diệu đạo” … nên đã bỏ qua không
kể hạng này. Tôi e rằng như thế có phần võ đoán, bởi lẽ kiến thức
uyên thâm về Phật học của Nguyễn Du mà không hiểu mấy câu trên là vô
lý.
Điểm thứ hai, mà cũng là
điều dễ hiểu, ngôn ngữ trong khoa nghi là ngôn ngữ cung đình, các tầng
lớp được kể trong khoa nghi rất đặc trưng và ước lệ, còn trong tác
phẩm của Nguyễn Du thì rất cụ thể và gần gũi, sát với thực tế, hiện
trạng người Việt đương thời. Nguyễn Du đã Việt hóa khoa nghi bằng
thái độ và tâm hồn của mình. Đây là điểm sáng tạo độc đáo.
Bằng sự so sánh
và dẫn chứng ở trên, chúng tôi kết luận rằng Nguyễn Du đã diễn Nôm
khoa nghi thí thực của Phật giáo thành văn Chiêu Hồn chứ không phải là
một sáng tác.
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG VĂN CHIÊU HỒN
Vì khuôn khổ của
bài viết, chúng tôi sẽ không đề cập đến quan điểm tín ngưỡng cũng
như tác dụng tôn giáo của tác phẩm. Chúng tôi chỉ xin sơ lược về nghệ
thuật sáng tạo và chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm mà thôi.
Trước hết để
độc giả tiện theo dõi phần đối chiếu, chúng tôi xin giới thiệu một
tác phẩm dịch Nôm nổi tiếng khoa nghi thí thực của Hòa thượng Bích
Liên (Trí Hải, 1876 - 1950). Đây là một bản
dịch rất hay, ngôn ngữ quý phái và rất sát với chánh văn. Từ
đây về sau, chúng tôi sẽ dùng bản này để so sánh thay vì phải dùng
chánh văn bằng chữ Hán khó hiểu.
Đầu tác phẩm này có
bài tán, được xem như phần dẫn nhập :
-
“Dấu người thập loại biết là đâu
-
Hồn
phách mơ màng trải mấy thu
-
Cồn
biển nghinh ngang bầu thế giới
-
Những mồ vô chủ thấy mà đau”.
Thay vì nói thẳng
vào cõi âm, văn chiêu hồn của Nguyễn Du bắt đầu bằng một buổi chiều
thu ảm đạm ở cõi dương :
-
“Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
-
Toát
hơi may lạnh buốt xương khô” …
Sau khi dẫn từ cõi dương
vào cõi âm, kể về Thập loại chúng sanh … “Hồn đơn phách chiếc … không nơi nương tựa
… Hồn mồ côi …”, tác giả cảm thán :
-
“Còn chi ai khá ai hèn
-
Còn
chi mà nói kẻ hiền người ngu”.
Lời cảm thán vừa
bi đát, vừa toát lên được cái ngậm ngùi tang thương của một kiếp
người. Phải chăng đó cũng là lời cảnh tỉnh cho bất cứ ai còn tham
danh đoạt lợi để phải gánh chịu những kết cuộc bi thảm như những
oan hồn mà Tố Như Tử đã chiêu triệu phía sau.
Khi cảm thán những kẻ
Hoàng vương đế bá, khoa nghi ghi : “Ôi
thôi ! Đỗ quyên kêu trót tàn canh, máu hồng nhuộm mãi trên cành đào hoa.
Trước sau vương bá những là, hồn hương xin chứng tiệc hoa sẵn sàng”.
Đầy trang trọng với những điển cố xưa, khoa nghi nặng chất cung đình
và chất Tàu, cái chất mà các nhà sư Việt Nam vẫn còn ảnh hưởng nặng
nề. Nguyễn Du thì cụ thể hơn :
-
“Bỗng phút đâu tro bay ngói dở
-
Khôn
đem mình làm đứa thất phu
-
Cả
giàu sang nặng oán thù
-
Máu
tươi lai láng xương khô rụng rời”.
Hay thuyết giáo một cách
đầy cả quyết :
-
“Cho hay thành bại là cơ
-
Ma
oan hồn biết bao giờ cho tan”.
Khi triệu thỉnh anh hùng tướng
soái, khoa nghi viết : “Ôi thôi ! Ngựa nhà
chiến tướng vắng không, hoa hèn cỏ nội mấy vòng buồn thiu …”.
Nguyễn Du viết :
-
“
… Bơ vơ góc bể chân trời
-
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi đâu
-
Trời
xâm xẩm mưa gào gió thét
-
Khí
âm ngưng mờ mịt trước sau
-
Năm
năm xương trắng dãi dầu
-
Nào
đâu điếu tế nào đâu chưng thường” …
Tác giả có vẻ như thấu
được nỗi khổ của oan hồn người chết, cảm được nỗi đau của họ
như chính nỗi đau của mình. Khi nói về hạng trí phú hay kẻ rắp cầu
chữ Quý, Nguyễn Du viết :
-
“Sống thì tiền chảy bạc dòng
-
Thác
không đem được một đồng nào đi
-
Khóc
ma mướn thương gì hàng xóm
-
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
…”
Hay :
-
“Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
-
Anh
em : thiên hạ, láng giềng : người dưng”.
Hơn ai hết, Nguyễn
Du đã ý thức rõ luật vô thường của nhà Phật. Có lẽ chứng kiến bao
bi kịch thời Lê Mạt, tác giả đã đem từng khúc ruột quặn đau của mình
làm bút, trích từng giọt lệ rớm máu của mình làm mực, viết nên một
tình tự nồng nàn da diết, nỗi lòng Tố Như hay tiếng ngậm hờn thiên cổ
kiếp sống phù du ? Ai đó trong cõi mang mang trường dạ hẳn đã nghe ra niềm
cảm thông buốt lạnh tồn sinh, rưng rưng kiếp số và thổn thức nhân
tình. Chưa bao giờ trong thi ca Việt Nam lại ngậm ngùi đến thế.
Nói chi đến cảnh “chinh chinh biến loạn sông nghiêng, mờ mờ hồn
bướm ly miền dương quan …” (khoa nghi), nói chi đến những “Lụa hồng bảy thước đề tên, đất vàng một
cụm lấp nền văn chương”, hay “Mưa
chiều khói lạnh thước reo, lá thu gió thổi dập dìu …(?) bay”
… (khoa nghi); đã nói rằng “Còn chi ai
khá ai hèn” rồi thì :
-
“Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm
-
Trăm
loài ma xắm nắm xung quanh”.
Đã nói rằng “còn chi mà nói kẻ hiền người ngu” thì
:
-
“Lập lòe ngọn lửa ma trơi
-
Tiếng
oan văng vẳng tối trời càng thương”.
Ở đây chúng ta gặp
lại nghệ thuật sử dụng từ ngữ của thiên tài Nguyễn Du. Ông rất tinh
xảo khi dùng từ láy cụ thể để đặc tả từng loại cô hồn. Kẻ tính
đường kiêu hãnh thì “lạc loài
nheo nhóc”, hàng cung phi thì “Hồn ngẩn
ngơ bãi cói nghìn sim”, những kẻ mũ cao áo rộng thì “thất thểu dọc ngang”, những kẻ bày
binh bố trận thì “bơ vơ góc bể chân trời”
… Cũng như Truyện Kiều, ở đây Nguyễn Du đã dùng rất nhiều các loại
tiểu đối để vẽ nên cái trùng điệp của nỗi khổ và cô đơn. Những
cặp đối luôn làm câu thơ cứ triền miên chìm trong sự bi đát đến tận
cùng : Ngàn lau nhuốm bạc / lá ngô rụng
vàng; Máu tươi lai láng / xương khô rụng rời. Có khi dùng các cặp đối
song song ngay trong một ý : “Hồn xiêu
phách lạc”, “hồn đường phách sá”,
“trâm gãy bình rơi”, “thịt nát máu trôi” … Tất cả nghệ thuật
dùng chữ đã làm toàn thể tác phẩm toát lên một vẻ tang thương đến
khốc liệt, ngậm ngùi đến thống thiết mà chỉ có người cảm được
thế giới ấy một cách sâu sắc, đầy lòng từ bi mới viết nên được
những vần điệu làm kinh động hồn ta đến thế, những câu chữ mà
Xuân Diệu từng nói : “có thể làm gãy lưng các nhà nghiên cứu”. Thử
đọc một câu Nguyễn Du viết về người lao động :
-
“Cũng có kẻ đi về buôn bán
-
Đòn
gánh tre chín dạn hai vai”.
Hai chữ “chín dạn”
cho thấy Nguyễn Du có sức cảm thông với người lao động, chính tác giả
cũng quặn đau, nát vai chín thịt như người gánh gánh mới dùng được một
chữ đắc địa như thế.
Khác hẳn cách
dùng chữ quý phái trong khoa nghi, một thứ văn học được hòa âm cùng
tang linh mỏ khánh và giọng tán tụng đặc thù của Kinh sư thỉnh triệu,
tác phẩm của Nguyễn Du có vẻ thích hợp hơn với lối đọc âm thầm lặng
lẽ trước huyệt mộ thi phần hay giữa “bãi
cói nghìn sim”. Tuy nói chiêu hồn người chết, mà cũng khóc than cho số
phận những người đang sống bị khổ đau dằn vặt. Khi kể về hạng kỷ
nữ, Nguyễn Du viết :
-
“Cũng có kẻ lỡ làng một tiết
-
Liều
tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa
-
Ngẩn
ngơ khi trở về già
-
Ai chồng con nấy biết là cậy ai”.
-
..............................................................
-
Thương thay chân yếu tay mềm
-
Càng
năm càng héo càng đêm càng dàu”. ….
So với khoa nghi,
Nguyễn Du đã không thỉnh các bậc “xuất trần phi tích”, nhưng lại kể
thêm một hạng cô hồn, mà theo chúng tôi, nội chừng ấy cũng đã nói hết
lên chủ nghĩa nhân đạo hay nói khác hơn là lòng Từ bi của Tiên sinh họ
Nguyễn, đó là những hài nhi yểu mạng. Trong thẩm cùng cõi mịt mờ tăm
tối, Nguyễn Du đã nghe ra tiếng khóc u ơ của những bé thơ với nỗi lòng
tha thiết. Thật là cảm động khi đọc những câu :
-
“Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
-
Lỗi giờ sanh lìa mẹ
lìa cha
-
Lấy
ai bồng bế vào ra
-
U
ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng”.
Vâng ! Bấy nhiêu
cũng đủ nói lên giá trị của tác phẩm không tiền khoáng hậu này.
Trở lại vấn đề Văn bản
học, như chúng tôi đã giới thiệu một bản khoa nghi miền Bắc, khoa nghi
này văn thỉnh ngắn gọn nhưng đầy đủ, và văn thỉnh dù là Hán văn vẫn
thoát khỏi cách dùng điển cố quá nhiều của người Trung Hoa. Phải
chăng Nguyễn Du cũng đã từng được đọc tác phẩm này, rồi kết hợp với
chính khoa nghi Trung Quốc để chiêu thỉnh những âm hồn của hoàn toàn người
Việt ? Tôi không muốn nói đến tính tự chủ, độc lập trong tư duy văn
hóa dân tộc của Tiên sinh, tôi chỉ muốn nói đến tính sáng tạo và hiện
thực hóa tác phẩm, một kỷ năng bậc thầy của “linh hồn văn học Việt
Nam”.
Đọc một tác phẩm
viết về cô hồn, nhưng ta không hề thấy ma quái, rùng rợn như một số
tác phẩm khác, mặc dù tác giả đã dùng nhiều hình tượng rất ma quái,
đó cũng là chỗ lạ lùng của tác phẩm này. Có khi người ta cũng nói đến
ma, nhưng nói ma để đặc tả một không gian, một cảnh vật, hay muốn
nói đến một cái gì khác đằng sau cảnh ấy. Như khi Thúc Tề viết “Trăng
mơ” :
-
“Nhịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma
-
Biến
mất vì nghe giục tiếng gà”.
Mượn cái động để
tả cái vô hình vô ảnh như thế quả là đạt, nhưng đọc hai câu tiếp
thì ta lại quên mất bóng ma kia :
-
“Trăng tỉnh giấc mơ lười biếng dậy
-
Động
lòng lệ
liễu giọt sương sa”.
Có khi người ta viết
về cảnh ma quái với trí tưởng tượng rùng rợn, chỉ làm cho ta sợ hãi
chứ không thương :
-
“Rồi lấy ra một mảnh xương rợn trắng
-
Nuốt bao lòng huyết đẫm khí tanh hôi
-
Tìm
những “miếng trần gian” trong tủy cạn
-
Rồi say sưa vang cất tiếng reo cười”.
-
(Chế
Lan Viên).
Còn Nguyễn Du nói
đến cảnh ma mà ta lại ngậm ngùi, thương cảm, có khi người đọc có thể
nghe ra một triết lý nào đó. Giấc mộng hoàng vương đế bá hay khát vọng
trường sinh rồi thì cũng tan tành sương khói, mọi bọt bèo ảo ảnh bồng
bềnh trên mặt bể hiện tượng, rồi ra cũng sẽ bị đánh chìm trong quên
lãng nghìn đời :
-
“Thương thay cũng một kiếp người
-
Sống
nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”.
Hay :
-
“Mỗi người một
nghiệp khác nhau
-
Hồn
xiêu phách lạc biết đâu bây giờ” …
Tôi đã từng thấy
vài nhà sư dùng Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh để thỉnh cô hồn trong khi
cúng thí. Một tác phẩm văn học, một bài thơ mà được dùng như kinh điển,
có thể nói là độc nhất vô nhị. Mùa Vu Lan lại đến, mùa báo hiếu của
người con đất Việt. Hiếu từ không phải chỉ riêng đối với cha mẹ,
mà là với tất cả chúng sanh. Đọc văn Chiêu hồn của Nguyễn Du, chúng
ta đã cùng Tố Như Tử tụng đọc lại những lời chỉ dạy của Đức Phật
với tất cả tâm hạnh của một Phật tử, lấy Tứ hoằng thệ nguyện
làm mục đích bước đi trên lộ trình Bồ-tát đạo thiêng liêng.
- Xem “Đọc Văn Chiêu Hồn”
của Xuân Diệu - Các Nhà Thơ Cổ Việt Nam, NXB Văn Học, tr.181.