- Đọc thơ chữ Hán của
Nguyễn Du
Truyện
Kiều là một kiệt tác của Nguyễn Du, là linh hồn của văn học Việt
Nam, điều đó hẳn không ai dám phủ nhận. Cũng bởi giá trị có một
không hai của nó mà khi nói đến Nguyễn Du, người ta nói ngay đến Truyện
Kiều. Do vậy ít người để ý đến phần còn lại trong văn nghiệp của
ông. Thực ra, Truyện Kiều là tác phẩm diễn nôm, nói theo cách của một
nhà nghiên cứu, "lỡ tay" mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới
đích là sáng tác, nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du.
Học
giả Mai Quốc Liên có lần viết : "Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những
áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận
về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của
ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc
nữa". (*)
Quả
đúng như vậy. Người viết bài này đã có may mắn được đọc hết gần
250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, trong lòng bội phần kính phục. Xin
góp nhặt đôi vần để phát họa vài nét về nhân cách, tấm lòng và tư
tưởng của bậc Đại thi hào dân tộc.
1.
Nhân cách của một kẻ sĩ :
Nguyễn
Du sinh ra trong thời đại nhiễu nhương, chứng kiến bao nhiêu cảnh bọt
bèo dâu bể. Triều Lê sụp đổ, 11 tuổi mồ côi cha, 13 tuổi mất mẹ, suốt
thời trai trẻ ăn nhờ ở đậu, có lúc làm con nuôi người ta, "Hồng
Lĩnh vô gia huynh đệ tán", Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Sau ra
làm quan với triều Nguyễn, tâm hồn chàng trai xứ Nghệ đã thuộc về những
con người đáng thương trong xã hội. Với một tấm lòng mẫn cảm, dào dạt
yêu thương và vô cùng tinh khiết, những vần thơ chữ Hán của cụ Tiên
Điền như những giọt lệ đầy bi tráng nhỏ xuống lòng đời trái đắng,
vọng lên những âm thanh thống thiết mà vẫn hiên ngang một nhân cách phi
thường.
"Độc
Tiểu Thanh Ký" có lẽ là bài thơ phát họa rõ nét nhất giọt lệ và
nụ cười của một trang chí sĩ. Hãy đọc những câu cuối :
"Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tại cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như".
Nỗi
hận xưa nay trời khó hỏi, nỗi oan ức của những người phong nhã
"ta tự nai lưng ra cán đáng" (*). Chẳng biết 300 năm sau thiên hạ
còn ai khóc cho Tố Như chăng ? Hương hồn Tố Như Tử nếu linh thiêng trở
lại, chắc ông chẳng bận tâm làm gì cái chuyện "tam bách dư niên hậu"
! Điều đáng ray rức là thân phận con người, ta nên oán nó hay không nên
oán nó ?
Thân
phận như bèo trôi giữa ba đào thế thái, Nguyễn Du không tự đánh mất
mình hoặc ngồi ôm tay bó gối. Ông nhập thế một cách trọn vẹn, lòng hướng
về những bậc tài danh kim cổ. Mỗi lúc gặp lại hình ảnh người xưa,
ông luôn liên hệ đến mình, soi rọi lại chính mình để gọi về một chút
niềm kiêu hãnh. Về văn chương, ông luôn xem Đỗ Phủ là bậc thầy thiên
cổ. Niềm kính trọng ấy chưa từng thôi nghỉ :
-
"Thiên cổ văn chương thiên cổ sư,
-
Bình sinh bội phục vị thường ly".
-
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ 1)
Hay
:
-
"Mỗi độc nho quan đa ngộ thân,
-
Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân".
-
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ
2)
(Mỗi
lần đọc câu "Mũ áo nhà Nho thường làm lụy thân mình", lại một
lần khóc thương người đất Đỗ Lăng sống nghìn năm trước).
Khi
nghĩ về Giả Thái Phó ở Trường Sa, Nguyễn Du có ý cho rằng mình là người
nghìn năm sau hiểu lòng Khuất Nguyên hơn Giả Nghị. Tương Đàm với đây
gần nhau chỉ trong gang tấc, sống cách nhau nghìn năm, gặp nhau mà hai bên
không có gì trái nhau :
-
"Tương Đàm chỉ xích tương lân cận
-
Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi".
-
(Trường Sa Giả Thái Phó).
Khi
đi sứ sang Trung Quốc, đến thăm mộ của Liễu Hà Huệ, ông viết :
-
"Bi tàn một tự mai hoang thảo
-
Thiên cổ văn phong nhất há xa".
-
(Liễu Hà Huệ Mộ)
-
(Bia tàn chữ mất vùi trong cỏ
-
Ngàn năm nghe tiếng xuống xe chào). (*)
Xuống
xe để tỏ lòng tôn kính trước mộ của một tịnh nhân như Liễu Hà Huệ,
đối với một vị sứ thần nhà Nguyễn như Nguyễn Du phỏng có mấy người
?
Cũng
với niềm kính trọng ấy, ông trách người đời không để tâm đến những
bậc chí nhân ưu thời mẫn thế. Và ông cảm thương cho tấm lòng cô trung
tiết liệt của Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên, khi những cái đỏm dáng bên
ngoài đã gượng gạo bắt chước người xưa :
-
"Thiên cổ thùy nhân lân độc tỉnh
-
Tứ phương hà xứ thác cô trung
-
Cận thời mỗi
hiếu vi kỳ phục
-
Sở bội tiêu
lan cánh bất đồng".
-
(Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu)
-
(Nghìn xưa ai xót người thức tỉnh
-
Khắp chốn gửi đâu một tấm lòng
-
Thời nay kẻ thích trang phục lạ
-
Tiêu lan họ mặc chẳng giống ông).
Đọc những câu thơ trên, thoạt nghe, ta ngỡ
Nguyễn Du chỉ là người đa sầu đa cảm. Chính bạn bè ông cũng nghĩ như
thế. Nhưng ngẫm cho cùng, cuộc đời là cuộc mộng, ai sống trong cõi đời
này mà chẳng mộng. Ông tự bạch :
-
"Tri giao quái ngã sầu đa mộng
-
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung".
-
(Ngẫu Đề)
Điều
đáng nói là giữa chốn huyễn hóa tám vạn khói sương này, người mộng
tự tìm cho mình một đời sống thanh tao, thoát tục, dẫu biết rằng cảnh
phù sinh khó mà dứt đoạn.
-
"Tiễn nhĩ dã âu tùy thủy khứ
-
Phù sinh lao lục kỷ thời hưu".
-
(Đồng Lung Giang)
-
(Giá được như đàn âu lội nước
-
Cõi đời lao nhọc lúc nào thôi).
Hay
:
-
"Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại
-
Trường tùng thọ hạ tối nghi nhân".
-
(Sơn Thôn)
-
(Ước gì nhảy khỏi ra vòng tục
-
Dưới bóng cây tùng thích biết bao).
Có
lúc, hình ảnh Đào Tiềm thong dong vô sự làm ông thèm thuồng ao ước :
-
"Tiễn sát bắc song cao ngọa giả
-
Bình cư vô sự đáo hư linh".
-
(Ký Hữu)
-
(Thèm được như người bên cửa Bắc (*)
-
Ngày ngày chẳng việc bận đến tâm).
Khác
với người đồng thời và đồng hương với mình, Nguyễn Công Trứ thường
nói :
-
"Làm trai đứng ở trong trời đất
-
Phải có danh gì với núi sông".
Đáng
mặt anh hùng lắm ! Thì Nguyễn Du cũng chẳng ra làm quan đấy thôi ! Nhưng
Nguyễn Công Trứ sau bao nhiêu năm "Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài
Đoài yên" lại thốt ra một câu vô cùng chua chát :
-
"Trên trường danh lợi vinh liền nhục
-
Giữa cuộc trần ai khóc lộn cười".
Nguyễn
Du thì "Giữa đường ngẫu hứng" đã ý thức rõ sự phù phiếm của
cuộc đời. Cái nhìn của ông thật là tinh tế và sâu sắc :
-
"Phục lạp tử tôn không loại tửu
-
Thế gian phú quý đẳng phù vân
-
Bách niên đáo để giai như thị
-
Hồi thủ mang mang nhất phiến trần".
-
(Đồ Trung Ngẫu Hứng)
-
(Lễ bày rượu tưới phiền con cháu
-
Chức trọng tiền nhiều mây hợp tan
-
Kết cục trăm năm đều thế cả
-
Ngoảnh trông một áng bụi mơ màng).
-
(Ngô Linh Ngọc dịch)
Ý
thức sâu sắc cõi đời là giả tạm, Nguyễn Du tự vạch cho mình một lối
về, một chốn về mà ở đó không còn những oái oăm phiền muộn, đơn
sơ với hoa tùng quả bách, với mây trắng nước trong :
-
"Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
-
Bạch đầu khứ thử tương an quy".
-
(Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn)
-
(Hoa tùng quả bách mà ăn được
-
Đầu bạc về đây chứ về đâu ?)
Còn
biết bao nhiêu câu thơ nói về con người hồn hậu, trong sáng này. Những
tưởng như bao nhiêu sĩ phu bất đắc chí giữa "Vạn lý lợi danh khu bạch
phát", vay mượn một chữ Nhàn có vẻ rất trữ tình để thoa dịu những
đớn đau thất bại trên đường đời. Nhưng Nguyễn Du khác họ nhiều lắm.
Ông thèm được như Đào Tiềm, thương cảm Khuất Nguyên và kính trọng Đỗ
Phủ, nhưng tư tưởng của ông thì không như họ. Ông có một niềm tin vững
chắc ở bản tâm mình, và đó là niềm vui lớn nhất khi ông mang tất cả
chí nam nhi trở về với những phút giây yên tĩnh. Thỉnh thoảng vụt lên
trong thi ca những dòng chữ siêu thoát và thiền vị đến không ngờ :
-
"Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
-
Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long".
-
(Ký Hữu)
-
(Lặng lẽ trước sân nhìn khóm trúc
-
Tan tuyết rồi xem trúc hóa rồng).
Cao
Bá Quát một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai (Nhất sanh đê thủ bái mai
hoa). Còn Nguyễn Du thì có lần suốt 3 tháng chống chọi với cái rét ghê
người để được nhìn thấy hoa mai nở trên đỉnh núi :
-
"Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệt
-
Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa".
-
(Từ Châu Đạo Trung)
Tôi
đã vô tình liệt kê quá nhiều, hẳn có thể làm bạn khó chịu. Nhưng thiển
nghĩ, mấy trăm bài thơ, bài nào cũng hay, câu nào cũng đẹp, tôi chỉ sợ
để rơi rớt bao nhiêu châu ngọc khi vẽ lại một nhân cách, một tấm
lòng ... Đôi vần vụng dại, ngâm lên cùng khói hương tưởng niệm, cung
chiêu "Người cha tóc trắng" của văn học Việt Nam.
2.
Nhân sinh quan của Nguyễn Du :
Nếu
đặt vấn đề Nguyễn Du và Phật giáo, hẳn có người sẽ lên tiếng dị
nghị : Suốt mấy trăm bài thơ, có chỗ nào Nguyễn Du nói đến Phật đâu
? Rồi người ta sẽ viện dẫn bao nhiêu từ ngữ trong thơ ông để cho rằng
ông đã tìm đến Lão Trang, nào là "hạc hĩnh", "mã đề",
nào là "hoạn hữu thân", "dưỡng chuyết", nào là "ngọa
thính tùng phong hưởng bán vân", "sài môn trú tĩnh sơn vân bế"...
Thực ra Nguyễn Du không muốn quên đời, Lão Trang trong ông chỉ là cốt
cách của một Nho sĩ thức thời, và thường thì tư tưởng Lão Trang được
thi nhân mượn để tỏ bày cái nội tâm trong sáng, thanh khiết giữa cuộc
đời ô trược mà thôi. Làm sao một kẻ tự xưng là "Hồng sơn liệp
hộ" (phường đi săn ở núi Hồng Lĩnh) lại có thể là đồ đệ Lão
Trang ? Có chăng ông là một Nho sĩ. Ở thời đại Nho giáo độc tôn, ở thời
đại mà cái học chỉ toàn là lý học, Nguyễn Du sẽ nói gì ? Viết gì ?
"Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên".
Hùng tâm và sinh kế, cả hai cái ấy hẳn đã làm ray rức hồn người lắm
lắm ! Sau THANH HIÊN THI TẬP và NAM TRUNG TẠP NGÂM, Nguyễn Du viết BẮC
HÀNH TẠP LỤC. BẮC HÀNH TẠP LỤC là đỉnh cao nghệ thuật trong văn nghiệp
của ông. Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã đến viếng hết
di tích của các danh nhân kim cổ. Ông gửi gắm tâm sự mình qua những vần
thơ, xẻ chia và cảm thông cũng những "người ngàn năm trước".
Ông đã đánh giá nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, từ Tiên Tần cho đến
Đường Tống. Ông viết về Khuất Nguyên đến Đỗ Phủ, từ Tam Hoàng đến
Tào Tháo ... Tất cả là một sự kính thương nhưng buồn giận, kính nhi viễn
chi, rồi khái quát cuộc đời với những nhận định vô cùng bi tráng, vô
cùng lạ lẫm :
"Đại địa xứ xứ giai Mịch La" (*)
Khi
đến thăm mộ Kỳ lân, một vật thiêng được người Trung Hoa xem là điềm
báo Thánh nhân xuất thế, ông bảo nếu vậy thì thời ấy sao Kỳ lân
không lượn chơi đất phương Nam :
-
"Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
-
Đương thế hà bất Nam du tường".
-
(Kỳ Lân Mộ)
Rõ
ràng, Nguyễn Du cũng thao thức với nỗi đau thế sự, cũng xót xa cùng đất
nước nhiễu nhương. Nhưng ông tự nghĩ : Sao ta lại đem trong sạch hay tỉnh
táo để nhìn đời, để phải như cánh bèo trôi dạt rất đáng thương :
-
"Hà dĩ thanh tỉnh khan thế sự
-
Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai".
-
(Lưu Linh Mộ)
Ngôn
ngữ là cửa ngõ của tâm hồn, nhưng chưa hẳn là chính tâm hồn ấy. Nói
một cách khác, thi ca Nguyễn Du phơi bày một nhận thức sâu sắc về cuộc
đời; và ẩn nấp sau những vần thơ mẫn cảm ấy là một chữ
"Tâm" vô cùng sâu rộng, một tư tưởng vừa siêu thoát vừa hiện
thực, vừa tích cực vừa khoan hòa, thấm đẫm vị Thiền Phật giáo.
Ngôn
ngữ thiên tài bao giờ cũng khiến người ta ngộ nhận. Nguyễn Du tự xưng
mình là Hồng sơn liệp hộ, nhưng có phường săn nào lại có cái buồn
và nỗi đau man mác đến dường ấy. Bi kịch và bi kịch cứ trùm lên bầu
không khí thi ca Nguyễn Du, nhưng nỗi niềm riêng vẫn canh cánh bên lòng
trang lữ thứ :
-
"Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
-
Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim".
Văn
thiêng không ở trong lời (Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa), Nguyễn Du
không hề nói đến Phật giáo, nhưng thái độ, quan điểm của ông luôn
nhuốm đầy nhân sinh quan Phật giáo. Trước hết là nhận thức về Vô thường,
Khổ, Không, Vô ngã. Đâu đâu trong thơ ông cũng toát lên cái nhìn chín chắn,
không hư dối về cuộc đời. Đó là sự thật về cái Khổ (Khổ đế), sự
thật thứ nhất trong bốn sự thật mà một hành giả tu tập Phật giáo phải
ý thức rõ ràng. Nguyễn Du hay nói về cái đầu bạc, ông có vẻ bị ám
ảnh bởi sương tuyết thời gian phủ lên mái tóc xanh trai trẻ của mình.
Lúc mới 30 tuổi Nguyễn Du đã viết : "Hư danh vị phóng bạch đầu nhân"
(Mạn Hứng). Rồi suốt ba tập thơ, chỗ nào cũng thấy ông nói về mái đầu
tóc trắng. Thảo nào đã có người gọi ông là "Người cha tóc trắng
của thi ca và tư tưởng Việt Nam, ngồi im lặng trên mây núi Hồng, già với
gió Thu ..."(*). Nhìn mình, nhìn người, nhìn đời, chỗ nào Nguyễn Du cũng
thấy vô thường chi phối, toàn thể nhân sinh thế thái qua cái đầu bạc
:
-
"Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên"...
-
"Nại hà đầu dĩ bạch như ngân"...
-
"Bạch phát thu phong không tự ta"...
-
"Vạn lý lợi danh khu bạch phát"...
-
"Nhất lộ giai lai duy bạch phát"...
-
"Bạch đầu khứ thử tương an quy"...
-
"Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân"...
-
"Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long" ...
Còn
rất nhiều những câu có chữ "bạch đầu", "bạch phát"
như thế. Khỏi cần phải luận bàn, ta cũng đủ thấy nhận thức về vô
thường trong ông như thế nào. Tôi chợt nhớ một câu thơ của Đỗ Phủ
: "Người đầu bạc giữa lớp sóng bạc" (Bạch đầu lãng lý bạch
đầu nhân). Đi giữa lớp sóng bạc của cuộc đời, mái đầu xanh cũng bạc
trắng, bạc trắng như chính nỗi lòng người cô lữ.
Bước
đi trong cuộc đời như thế khác nào bước đi trong đêm tối, Nguyễn Du hướng
về hình ảnh những bậc xuất thế, xuất thế giữa lòng thế tục. Bài
"Dạ Hành" là bài thơ tôi thích nhất của Nguyễn Du. Ông mô tả
hình ảnh vị Sư già ngủ trên mây núi Hồng Lĩnh giữa đêm tối :
-
"Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân
-
Phù âu tĩnh túc noãn sa tân
-
Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý
-
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
-
Hắc dạ hà
kỳ mê thất
hiểu
-
Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân
-
Bất sầu cửu
lộ triêm y
duệ
-
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần".
-
(Sư già ngủ giữa mây Hồng Lĩnh
-
Bãi ấm âu nằm lặng giấc say
-
Biển rộng trăng trôi ngàn dặm thẳm
-
Đường xưa gió quất một thân gầy
-
Đêm đen dường mãi quên không sáng
-
Ẩn vụng xui thêm tóc bạc đầy
-
Vạt áo dầm sương đâu ngại ướt
-
Mày râu mừng chẳng bụi trần ray).
-
(Ngô Linh Ngọc dịch).
Hai
câu cuối thật thần tình, thật ý vị. Không ngại sương đêm thấm ướt
vạt áo, chỉ mừng là mày râu không dính bụi. Ô hay ! Vị Sư già nằm giữa
mây núi, mày râu Sư chắc bạc trắng như mây, trinh tuyền lắm lắm, vì
có bụi trần hồng nào mà nhuộm đỏ ? Chỉ có sương đêm làm ướt áo
đôi chút. Lạnh chút thôi, mà thanh thản biết dường nào ! Hình ảnh đẹp,
ngôn từ cũng cực kỳ đẹp, hẳn cái nhìn kia cũng xuất phát từ một tấm
lòng rất đẹp.
Chúng
ta còn bắt gặp hình ảnh này trong bài Vọng Quan Âm Miếu : ... Tăng yên ngủ
khi mây ngừng trôi khắp chốn, tiếng vượn kêu khi trời lặn trên những
ngọn đồi. Đốt một nén hương để tiêu tuệ nghiệp, quay đầu nhìn lại
đã cách muôn lớp núi :
-
"Đình vân xứ xứ tăng miên định
-
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
-
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
-
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai".
Lạ
nhất trong bài này là câu thứ bảy : "Nhất chú đàn hương tiêu tuệ
nghiệp". Sao lại là tiêu tuệ nghiệp ? Có phải tác giả muốn nói đến
cái nghiệp do trí tuệ gây ra ? Tức Sở tri chướng, Thế trí biện thông ?
Quả là ít ai dám dịch chữ này.
Đi
trong cuộc đời, trái tim của "Người tóc bạc" luôn hướng về
những mảnh đời bèo dạt mây trôi, về người đẹp gảy đàn vô danh ở
thành Thăng Long, về nàng Tiểu Thanh, hay cả nàng Thúy Kiều bạc mệnh.
Nói chung, Nguyễn Du thường nói đến những người tầm thường, những
điều mà ta đã biết. Nhưng đó lại là cái vĩ đại, vĩ đại nhờ ông vừa
đau khổ vừa nói. "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy" (Phạm
Quý Thích), ông đau khổ, nhưng là cái đau khổ thánh thiện. Ông nói về
những người đau khổ, nhưng thực ra ông đã khơi mở một chủ nghĩa nhân
đạo đặc thù cho cả hồn Việt. Chỉ có tâm lượng của người con đất
Việt, thụ bẩm một cách toàn triệt nền tảng Từ bi mới có được những
tuyệt tác như thế. Đúng như lời của Mộng Liên Đường chủ nhân đã
nói : "... nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm
lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy..."
(*)
Đôi
lúc, ông cũng muốn gán chiếc áo màu lông chim túc sương để đổi lấy một
cuộc say, nhưng tóc trên đầu đã bạc trắng thì biết làm thế nào :
-
"Dục điển túc sương mưu nhất túy
-
Nại hà đầu dĩ bạch như ngân".
-
(Quảng Tế Ký Thắng)
Chính
vì không thể đổi lấy một cuộc say, nên Nguyễn Du đã thao thức. Phải
có một lối thoát, duy tại con người không biết lấy mà thôi, ông buồn
trông áng bụi hồng mờ mịt không bờ bến mà tự trách ngày ngày mình vẫn
đi lại trong ấy mà không biết :
-
"Trướng vọng hồng trần diễu vô tế
-
Bất tri nhật nhật thử trung hành".
-
(Từ Châu Đê Thượng Vọng)
Cũng
với ý ấy, có một câu thơ vô cùng đặc sắc, hệt như lời vịnh của một
Thiền sư :
-
"Niên niên thu sắc hồn như hử
-
Nhân tại tha hương bất tự tri".
-
(Giang Đầu Tản Bộ)
-
(Hồn
thu vẫn tự
bao giờ
-
Người xa quê cũ chẳng ngờ đó thôi).
3.
Kim Cang Bát Nhã - Tư tưởng chủ đạo trong thi ca Nguyễn Du :
Điều
đáng ghi nhận là ở thời đại Nguyễn Du, Phật giáo Việt Nam không còn
chiếm địa vị độc tôn như thời Lý Trần, thậm chí có thể nói là hết
mức suy đồi. Khi nhà Minh sang xâm lược nước ta, tướng Trương Phụ đã
đem toàn bộ kinh điển Phật giáo về Kim Lăng hoặc thiêu đốt hết. Nho
giáo cùng với chế độ thi cử đã lấn át hết tư tưởng của giới trí
thức đương thời, ít người có điều kiện nghiên cứu kỹ Phật giáo.
Và, Phật giáo trong lòng nhân sĩ chỉ là một mớ tư tưởng chán đời, yếm
thế.
Khi
đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tôi lại vô cùng ngạc nhiên trước những
câu thơ đầy hào khí :
-
"Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
-
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu".
Hay
:
-
"Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
-
Thử tâm thường định bất ly thiền".
Nguyễn
Du chưa bao giờ tự xưng mình là Phật tử. Nhưng người học Phật có thể
xem ông là "Đạo hữu". Người cha của thi ca Việt Nam lại là người
từng đọc Kinh Kim Cang đến hơn 1000 lần (Ngã độc Kim Cang thiên biến
linh), hẳn toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông thấm đẫm tư tưởng Phật
giáo.
Ta
thử đọc một vài bài thơ nói về ý đạo, để xem sự thâm nhập kinh
điển Phật giáo của Nguyễn Du sâu thẳm dường nào :
- "Minh
nguyệt chiếu cổ tỉnh
-
Tỉnh thủy vô ba đào
-
Bất vị nhân khiên xả
-
Thử tâm chung bất giao
-
Túng bị nhân khiên xả
-
Nhất giao hoàn phục chỉ
-
Trạm trạm nhất phiến tâm
-
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy".
-
(Đạo Ý)
-
(Trăng sáng soi giếng xưa
-
Nước giếng không gợn sóng
-
Không bị người khuấy động
-
Tâm này chẳng giao động
-
Nếu bị người khuấy động
-
Lay động rồi lại dừng
-
Một chữ Tâm lóng lặng
-
Như trăng soi giếng xưa).
Trong
bài nói về ý đạo trên, Nguyễn Du đã xác định Tâm chính là Đạo.
Nghĩa chữ Tâm ở đây chỉ có trong kinh điển Phật giáo. Tâm thể thì thường
hằng vắng lặng, dù sóng gió ba đào có làm mặt nước tâm giao động chút
ít, nhưng rồi mặt nước cũng trở về trạng thái nguyên ủy của mình.
Trong
bài Tạp Thi, ông viết :
-
"Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
-
Tứ thời tâm kính tự như
như".
(Hoa rơi lá rụng chỉ là việc trước mắt,
bốn mùa gương tâm vẫn chẳng có gì thay đổi).
Tâm,
Phật, chúng sanh đồng nhất thể. Tất cả các pháp đều lưu xuất từ nhất
tâm này. Phật và chúng sanh, mê và ngộ, giải thoát và trói buộc ... tất
cả đều ở Nhất tâm. Người liễu đạt được Tâm này thì tự mình độ
thoát. Tam tạng kinh điển Phật thuyết ở Linh Thứu sơn cũng ở tại tâm
người mà thôi :
-
"Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
-
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu".
Khi
chưa liễu ngộ được tâm này thì vạn tượng sum la đều khởi, phàm
thánh chia hai, núi là núi, sông là sông. Khi liễu ngộ được tâm này rồi
thì gương Tâm sáng rỡ như ánh trăng - Đại viên cảnh trí - gặp nhân chiếu
nhân, gặp vật chiếu vật, không phân biệt, thực tại vẫn là thực tại.
Núi không phải là núi nên núi là núi. Chẳng rõ người chưa thực ngộ lý
này có thể viết một cách tự nhiên được một câu thơ thế này chăng :
-
"Đạt nhân tâm kính quang như nguyệt
-
Xử sĩ môn
tiền thanh giả
sơn".
-
(Tạp Ngâm II)
-
(Tâm người đạt ngộ ngời gương nguyệt
-
Trước sân ẩn sĩ núi xanh rờn).
Tất
cả các pháp đều không. Không có nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
tướng (KINH KIM CANG). Nguyễn Du viết :
-
"Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
-
Thử tâm thường định bất ly Thiền.
-
Đại sư vô
ý diệc vô
tận
-
Phủ thán thành trung đa biến thiên".
-
(Đề Nhị Thanh Động)
Tâm
này thường ở trong Định và chẳng xa rời việc chứng ngộ của Thiền.
Các cụ thâm nho ở Hà Nội đã không hiểu nên dịch quá xa nghĩa của nguyên
tác : "Lòng khăng khăng chỉ hướng về Thiền" (*). Chẳng hề có
"khăng khăng" hay "hướng về", "thường định" ở
đây là "thường ở trong Định" và "bất ly Thiền" tức
ngay nơi tâm là Thiền. Có lẽ Nguyễn Du cũng nhiều lần đọc Pháp Bảo Đàn
mới có cái khẩu khí của Huệ Năng như thế.
Khi
đi sứ sang Trung Quốc, đến "Đài chia kinh" của Thái tử Chiêu
Minh nhà Lương, Nguyễn Du cảm tác một bài thơ khá dài, khá lạ so với
toàn bộ thơ chữ Hán của ông (hầu hết thơ chữ Hán của ông gồm 8
câu). Ông cười chê việc làm của Chiêu Minh Thái tử, cho rằng việc chữ
nghĩa có dính dáng gì đến sự vắng lặng của Tâm đâu mà phân kinh với
chiết tự. Trong bài có đoạn viết :
-
"Phật bản thị không bất trước vật
-
Hà hữu hồ kinh, an dụng phân ?
-
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
-
Thục vi Kim Cang vi Pháp Hoa
-
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
-
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
-
Nhất môn phụ tử đa giao tế
-
Nhất niệm chi trung ma tự chí ..."
(Tạm
dịch : Phật vốn là không, không dính mắc mọi vật, có dính dáng gì đến
kinh đâu mà phải chia. Văn thiêng không phải ở ngôn ngữ, cái gì là Kinh
Kim Cang, Kinh Pháp Hoa ? Giữa "Sắc" và "Không" mờ mịt
không nhận ra được. Quy y Phật với cái tâm si mê như thế thì Phật sinh
ra ma. Cả nhà cha con đều mù quáng cả, thì chỉ trong một niệm là ma tự
tìm đến ngay ...).
Đặc
biệt là đoạn cuối của bài thơ này :
-
"Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
-
Thuyết pháp độ nhân như hằng hà sa số
-
Nhân kiến thử tâm nhân tự độ
-
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
-
Minh kính diệc phi đài
-
Bồ - đề bổn vô thụ
-
Ngã độc Kim Cang thiên biến linh
-
Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh
-
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ
-
Tài tri vô tự thị chân kinh".
(Tạm
dịch : Ta nghe nói Đức Thế Tôn tại núi Linh Thứu, thuyết pháp độ hằng
hà sa số người. Người liễu ngộ được tâm thì người tự độ thoát,
Linh Sơn chỉ ở tại tâm người mà thôi. Không có đài gương sáng, nào
có cây Bồ-đề. Ta đọc hơn ngàn biến Kinh Kim Cang, những ý nghĩa sâu
kín trong đó phần nhiều ta không rõ. Đến hôm nay tới đài chia kinh này mới
biết rằng Vô tự chính là Chân kinh).
Một
bài thơ, cũng có thể xem là một ngữ lục Thiền. Vô hình trung, bài thơ hé
mở thế giới tâm chứng của Nguyễn Du. Hay nói một cách khác - Kim Cang
Bát Nhã đã là tư tưởng dẫn đạo trong đời sống và thi ca của Tố Như
Tử.
Tôi đã trích dẫn khá nhiều, nhưng hoàn toàn chưa nói
đến bút pháp đặc biệt trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Truyện Kiều đã
làm cho Nguyễn Du được xem là 1 trong 5 hoặc 3 thi hào vĩ đại nhất của
nhân loại, thì đối với thơ chữ Hán, quả là một kho tàng để chúng ta
khai thác và học hỏi. Mùa Xuân nằm đọc thơ của người xưa mà thấy
lòng rưng rưng muốn khóc. Ước gì các bậc thạc học thâm nho để tâm
khai triển, phân tích và diễn giải thật nhiều, để hàng hậu tấn chúng
tôi được nhuần ân học hỏi.
*****
(*) Lời nói đầu
NGUYỄN DU TOÀN TẬP, quyển 1, trang 7 - NXB Văn Học.
(*) Chữ của Bùi Giáng dùng để dịch câu
này.
(*) Người viết không có ý dịch thơ, vì muốn
diễn Nôm cho dễ hiểu, song cũng cố gắng dịch những câu nào thấy tiện.
Nếu có bản dịch nào hay được trích dẫn vào đây thì sẽ đề tên dịch
giả, còn lại là của người viết tạm dịch.
(*) Khi Đào Tiềm từ quan về vườn thường
nằm khểnh ở cửa sổ phía Bắc hưởng thư nhàn, người đời gọi ông
là "Bắc song xử xỉ".
(*) Mịch La là tên dòng sông nơi Khuất Nguyên
trầm mình.
(*) IM LẶNG VÀ HỐ THẲM - Phạm Công Thiện,
An Tiêm, 1967.
(*) Trích lại từ "Vài nhận xét về Truyện
Kiều ... " của Bùi Giáng - NXB Hội Nhà Văn, 1998.
(*) Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Hà Nội, 1978. Đoạn
này lấy ý trong "Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc", Phạm Công Thiện
- Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới, California, Hoa Kỳ,
1996.
-
(1) Đầu đội trời cao. (4) Eo truyền chánh pháp.
-
(2) Chân đạp đạp đất bằng.
(5) Tam giáo cộng
đồng.
-
(3) Lưng chứa kinh luân.
(6) Mười phương chầu cúng.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vh/doc_thoHan_cua_NguyenDu.htm