Bài nầy dựa theo bản dịch Anh ngữ của Tỳ
Kheo Thanissaro, đăng trong trang nhà Access-to-Insight, http://www.accesstoinsigh.org , và các bản
dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Minh Châu (Đại Tạng Kinh Việt
Nam).
-oOo-
Sau đó, Đức Thế Tôn bảo các vị tỳ kheo:
"Nầy các tỳ kheo, bởi vì không thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự
Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) mà ta cũng như quý vị từ lâu đã phải
trãi qua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử. Bốn sự thật ấy là
gì?
Vì không thông hiểu Sự Thật về Khổ (Khổ Đế)
mà chúng ta luân hồi, không thông hiểu Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ
(Tập Đế), không thông hiểu về Sự Thật về Đoạn Diệt Khổ (Diệt Đế),
không thông hiểu Sự Thật về Con Đường Diệt Khổ (Đạo Đế), mà
chúng ta đã phải luân hồi trong vòng sinh tử. Bằng cách thông hiểu, bằng
cách thấu đạt Sự Thật về Khổ, Sự Thật về Nguồn Gốc của Khổ, Sự
Thật về Đoạn Diệt Khổ, Sự Thật về Con Đường Diệt Khổ, lòng tham
thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗ trợ để sinh hữu được phá
hủy, và từ đó không còn phải tái sinh nữa."
-- Kinh Đại Niết Bàn (Trường
Bộ, 16)
Đức Phật giảng về sự
Giác Ngộ của Ngài:
"Tri kiến phát sinh, minh sát phát
sinh, tuệ giác phát sinh, hiểu biết phát sinh, minh kiến phát sinh trong ta, về
những điều mà từ trước ta chưa từng nghe đến:
-- Đây là Sự Thật Tuyệt Đối về Khổ ... Khổ
nầy phải được thông hiểu ... Khổ nầy vừa được thông hiểu.
-- Đây là Sự Thật Tuyệt Đối về Nguồn Gốc
của Khổ ... Nguồn Gốc nầy phải được đoạn tận ... Nguồn Gốc nầy
vừa được đoạn tận.
-- Đây là Sự Thật Tuyệt Đối về Sự Diệt
Khổ ... Diệt Khổ nầy phải được trực nghiệm ... Diệt Khổ nầy vừa
được trực nghiệm.
-- Đây là Sự Thật Tuyệt Đối về Con Đường
Diệt Khổ ... Con Đường nầy phải được thực chứng ... Con Đường nầy
vừa được thực chứng.
Nầy các vị tỳ kheo, khi nào mà sự hiểu biết
và nhận thức nầy của ta -- với ba vòng chuyển và mười hai kết hợp về
bốn Sự Thật Tuyệt Đối đó -- không tinh thuần, ta không thể khẳng định
rằng ta là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, vượt hơn tất cả mọi loài trong
vũ trụ, chư thiên, ma quỷ, phàm phu, tu sĩ, vua chúa và thường dân. Tuy
nhiên, ngay khi sự hiểu biết và nhận thức nầy của ta -- với ba vòng
chuyển và mười hai kết hợp về bốn Sự Thật Tuyệt Đối đó -- hoàn
toàn thật sự tinh thuần, ta đã khẳng định rằng ta là Bậc Chánh Đẳng
Chánh Giác, vượt hơn tất cả mọi loài trong vũ trụ, chư thiên, ma quỷ,
phàm phu, tu sĩ, vua chúa và thường dân. Tuệ giác và tri kiến phát khởi
trong ta: 'Sự Giải Thoát đã xảy ra. Đây là kiếp sống cuối cùng. Không
còn phải tái sinh nữa.' "
-- Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương
Ưng, LVI-11)
1. Diệu Đế về Khổ -
Dukkha Ariya Sacca
Định nghĩa:
"Nầy các vị tỳ kheo, đây là Diệu Đế
về Khổ: Sinh là khổ, già là khổ, chết là khổ; ưu sầu, than khóc, đau
đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng là khổ; liên kết với những điều không
ưa thích là khổ, cách ly những điều ưa thích là khổ; không đạt được
những gì mong muốn là khổ; tóm lại, cả năm uẩn (*) để tham thủ là khổ"
-- Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương
Ưng, LVI-11)
(*) Năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành,
thức.
Sáu căn:
"Và thế nào là Diệu Đế về Khổ? Câu trả
lời phải là sáu căn đều khổ. Sáu căn đó là gì? Là căn của mắt (nhãn
căn), căn của tai (nhĩ căn), căn của mũi (tỷ căn), căn của lưỡi (thiệt
căn), căn của thân (thân căn), và căn của ý (ý căn). Đây là Sự Thật
Cao Quý về Khổ."
-- Tương Ưng, LVI-14
Khổ như lửa cháy:
"Tất cả đều là lửa cháy. Cái gì là
lửa cháy?
-- Mắt là lửa cháy. Hình sắc là lửa cháy. Nhận
thức từ mắt là lửa cháy. Tiếp cận qua mắt là lửa cháy. Những gì
sinh khởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua mắt, cảm giác như là khoái lạc,
đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy với
gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa si. Ta nói với quý vị
rằng tất cả đều đang thiêu cháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc,
đau đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng.
-- Tai là lửa cháy. Âm thanh là lửa cháy. Nhận
thức từ tai là lửa cháy. Tiếp cận qua tai là lửa cháy. Những gì sinh khởi
tùy thuộc vào sự tiếp cận qua tai, cảm giác như là khoái lạc, đau đớn,
hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy với gì? Thiêu
cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa si. Ta nói với quý vị rằng tất
cả đều đang thiêu cháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn,
buồn rầu, và tuyệt vọng.
-- Mũi là lửa cháy. Mùi hương là lửa cháy. Nhận
thức từ mũi là lửa cháy. Tiếp cận qua mũi là lửa cháy. Những gì sinh
khởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua mũi, cảm giác như là khoái lạc,
đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy với
gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa si. Ta nói với quý vị
rằng tất cả đều đang thiêu cháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc,
đau đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng.
-- Lưỡi là lửa cháy. Vị nếm là lửa cháy. Nhận
thức từ lưỡi là lửa cháy. Tiếp cận qua lưỡi là lửa cháy. Những gì
sinh khởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua lưỡi, cảm giác như là khoái lạc,
đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy với
gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa si. Ta nói với quý vị
rằng tất cả đều đang thiêu cháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc,
đau đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng.
-- Thân là lửa cháy. Vật xúc chạm là lửa
cháy. Nhận thức từ thân là lửa cháy. Tiếp cận qua thân là lửa cháy.
Những gì sinh khởi tùy thuộc vào sự tiếp cận qua thân, cảm giác như là
khoái lạc, đau đớn, hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy.
Thiêu cháy với gì? Thiêu cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa si. Ta
nói với quý vị rằng tất cả đều đang thiêu cháy với sinh, già, chết,
ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng.
-- Ý là lửa cháy. Tư tưởng là lửa cháy. Nhận
thức từ ý là lửa cháy. Tiếp cận qua ý là lửa cháy. Những gì sinh khởi
tùy thuộc vào sự tiếp cận qua ý, cảm giác như là khoái lạc, đau đớn,
hoặc không lạc không đau, đều đang thiêu cháy. Thiêu cháy với gì? Thiêu
cháy với ngọn lửa tham, lửa sân, và lửa si. Ta nói với quý vị rằng tất
cả đều đang thiêu cháy với sinh, già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn,
buồn rầu, và tuyệt vọng."
-- Tương Ưng, XXXV-28
2. Diệu Đế về Nguồn Gốc
của Khổ - Dukkha Samudaya Ariya Sacca
"Nầy các vị tỳ kheo, đây là Diệu
Đế về Nguồn Gốc của Khổ: lòng tham thủ làm cho sinh hữu -- kèm theo với
ham muốn và ưa thích, thêm vào chổ nầy chổ kia , nghĩa là tham thủ các dục
lạc, tham thủ thường sinh, tham thủ đoạn sinh."
-- Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương
Ưng, LVI-11)
Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa.
Ai sống trong đời này٩ dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen. (Pháp Cú, 335-336)
Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền٩ tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài. (Pháp Cú, 338)
3. Diệu Đế về Sự Diệt Khổ
- Dukkha Nirodha Ariya Sacca
"Nầy các vị tỳ kheo, đây là Diệu Đế
về Diệt Khổ: sự tàn lụn và ngưng không còn tàn dư, sự xuất ly, sự từ
bỏ, sự giải phóng, và sự buông bỏ lòng tham thủ"
-- Tương Ưng, XLVI-11
Tháo gỡ các nguyên nhân về
khổ:
"Ta bảo với các vị tỳ kheo, việc chấm
dứt các lậu hoặc không thể nào có được nơi những người không thấy
và không biết. Thấy gì và biết gì? 'Đây là sắc, đây là nhân của nó,
đây là sự tan biến của nó. Đây là cảm thọ, đây là nhân của nó, đây
là sự tan biến của nó. Đây là tưởng, đây là nhân của nó, đây là sự
tan biến của nó. Đây là hành, đây là nhân của nó, đây là sự tan biến
của nó. Đây là thức, đây là nhân của nó, đây là sự tan biến của
nó.' Việc chấm dứt các lậu hoặc chỉ có thể xảy ra nơi những người
thấy và biết như thế.
Tuệ giác về sự đoạn diệt khi đoạn diệt hiện
hữu là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên
sinh của nó là gì? Đó là sự giải phóng.
-- Giải phóng là do duyên sinh. Nó không thể xảy
ra nếu không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là sự lạnh nhạt.
-- Sự lạnh nhạt là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên
sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là sự chán chường.
-- Chán chường là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên
sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là tri kiến về bản chất của sự vật.
-- Tri kiến về bản chất của sự vật là do duyên sinh. Nó không thể xảy
ra nếu không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là tâm định
tĩnh.
-- Tâm định tĩnh là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên
sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là thư thái.
-- Thư thái là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là khinh an.
-- Khinh an là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là hỷ.
-- Hỷ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên
sinh của nó là gì? Đó là lạc.
-- Lạc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên
sinh của nó là gì? Đó là tín tâm.
-- Khổ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu
không do duyên sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là tái sinh.
-- Tái sinh là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là hữu.
-- Hữu là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên
sinh của nó là gì? Đó là thủ.
-- Thủ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên
sinh của nó là gì? Đó là tham muốn.
-- Tham muốn là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là thọ.
-- Thọ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh. Duyên
sinh của nó là gì? Đó là tiếp xúc.
-- Tiếp xúc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là sáu xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
-- Sáu xứ là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là danh sắc.
-- Danh sắc là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là thức.
-- Thức là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên sinh.
Duyên sinh của nó là gì? Đó là nghiệp hành.
-- Nghiệp hành là do duyên sinh. Nó không thể xảy ra nếu không do duyên
sinh. Duyên sinh của nó là gì? Đó là vô minh.
Cũng như khi chư thiên làm mưa sấm, trút nước
vào vùng núi cao, nước nầy chảy xuống theo triền dốc, làm đầy các khe
núi, hang động. Khi các khe và hang động đầy tràn, nước sẽ chảy xuống
các hồ nhỏ. Khi các hồ nhỏ đầy tràn, nước sẽ chảy xuống các hồ lớn.
Khi các hồ lớn đầy tràn, nước sẽ chảy xuống các dòng suối. Khi các
dòng suối đầy tràn, nước sẽ chảy xuống các sông lớn. Khi các sông lớn
đầy tràn, nước sẽ chảy ra đại dương. Cùng thế ấy:
Hành có vô minh là duyên,
Thức có hành là duyên
Danh sắc có thức là duyên
Sáu xứ có danh sắc là duyên,
Tiếp xúc có sáu xứ là duyên,
Thọ có tiếp xúc là duyên,
Tham muốn có thọ là duyên,
Chấp thủ có tham muốn là duyên,
Hữu có chấp thủ là duyên,
Sinh có hữu là duyên,
Hoạn khổ có sinh là duyên,
Tín tâm có hoạn khổ là duyên,
Lạc có tín tâm là duyên,
Hỷ có lạc là duyên,
Khinh an có hỷ là duyên,
Thư thái có khinh an là duyên,
Tâm định tĩnh có thư thái là duyên,
Tri kiến về bản chất của sự vật có tâm định tĩnh là duyên,
Chán chường có tri kiến về bản chất của sự vật là duyên,
Lạnh nhạt có chán chường là duyên,
Giải phóng có lạnh nhạt là duyên,
Tuệ giải thoát có giải phóng là duyên."
-- Tương Ưng, XII-23
Lý Duyên Sinh:
"Phương cách cao quý nào cần phải được
nhận thấy đúng đắn và phân biệt rõ ràng bằng trí tuệ? Đây là lúc một
người đệ tử cao sang quán xét được rằng:
Khi cái nầy hiện hữu thì cái kia hiện hữu
Từ việc khởi sinh cái nầy thì có khởi sinh cái kia.
Khi cái nầy không hiện hữu thì cái kia không hiện hữu,
Từ việc đoạn diệt cái nầy thì có đoạn diệt cái kia."
Nói cách khác:
"Vô minh là duyên của hành,
Hành là duyên của thức,
Thức là duyên của danh sắc,
Danh sắc là duyên của sáu xứ,
Sáu xứ là duyên của tiếp xúc,
Tiếp xúc là duyên của thọ,
Thọ là duyên của tham,
Tham là duyên của chấp thủ,
Chấp thủ là duyên của hữu,
Hữu là là duyên của sinh,
Sinh là duyên của già, chết, ưu sầu, than khóc, đau đớn, buồn rầu, và
tuyệt vọng
Đó là nguồn gốc rốt ráo của hoạn khổ.
Giờ đây, chấm dứt và đoạn diệt vô minh,
đưa đến đoạn diệt hành.
Đoạn diệt hành đưa đến đoạn diệt thức,
Đoạn diệt thức đưa đến đoạn diệt danh sắc,
Đoạn diệt danh sắc đưa đến đoạn sáu xứ,
Đoạn diệt sáu xứ đưa đến đoạn diệt tiếp xúc,
Đoạn diệt tiếp xúc đưa đến đoạn diệt cảm thọ,
Đoạn diệt cảm thọ đưa đến đoạn diệt tham muốn,
Đoạn diệt tham muốn đưa đến đoạn diệt chấp thủ,
Đoạn diệt chấp thủ đưa đến đoạn diệt hữu,
Đoạn diệt hữu đưa đến đoạn diệt sinh
Đoạn diệt sinh đưa đến đoạn diệt già, chết, ưu sầu, than khóc, đau
đớn, buồn rầu, và tuyệt vọng.
Đó là sự chấm dứt rốt ráo các hoạn khổ.
Đây là phương cách cao quý cần phải được nhận
thấy đúng đắn và phân biệt rõ ràng bằng trí tuệ"
-- Tăng Chi, X-92
4. Diệu Đế về Con Đường
Diệt Khổ - Dukkha Nirodha Gamini Patipada Ariya Sacca
Bát Chánh Đạo:
"Nầy các vị tỳ kheo, đây là Diệu Đế
về Con Đường Diệt Khổ, đó chính là Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo):
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm, Chánh Định."
-- Kinh Chuyển Pháp Luân (Tương
Ưng, LVI-11)
Bát Chánh Đạo là Pháp Thừa
(Dhammayana):
"Này Ananda, Con Đường Tám Chánh nầy là
đồng nghĩa với cỗ xe tối thượng, là cỗ xe Pháp, là sự chiến thắng
vô thượng trong mọi chiến trận nhiếp phục tham, sân, si."
-- Tương Ưng, V-4
Định nghĩa về tám chi phần:
"Này các vị tỳ kheo, thế nào là chánh
tri kiến? Đó là sự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về
nguyên nhân của khổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểu
về con đường diệt khổ.
Thế nào là chánh tư duy? Đó là tư
duy về sự xuất ly, tư duy về vô sân, tư duy về vô hại.
Thế nào là chánh ngữ? Đó là từ bỏ
nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời
phù phiếm.
Thế nào chánh nghiệp? Đó là từ bỏ
sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ hành động tà dâm.
Thế nào là chánh mạng? Đó là đoạn
trừ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng.
Thế nào là chánh tinh tấn? Đó là
tinh tấn ngăn chận không cho khởi sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn
trừ diệt các bất thiện pháp đã sanh, tinh tấn phát khởi các thiện
pháp chưa sanh, và tinh tấn duy trì các thiện pháp đã sanh.
Thế nào là chánh niệm? Đó là sống
quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên
đời; sống quán thọ trên thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi
tham ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều
phục mọi tham ưu trên đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, điều phục mọi tham ưu trên đời.
Thế nào là chánh định? Đó là ly dục,
ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền-na thứ nhất, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ; rồi làm cho tịnh chỉ tầm và tứ,
chứng và trú vào Thiền-na thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh, nhất tâm; rồi ly hỷ trú xả,
chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng và trú vào Thiền-na thứ ba; rồi xả lạc, xả
khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào Thiền-na thứ tư,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh."
-- Tương Ưng, V-8
Tìm lại Con Đường Cũ Xa
Xưa:
"Có một người đang đi theo một con đường
mòn trong rừng. Đột nhiên người ấy tìm ra được một con đường cũ xa
xưa mà các vị tiền nhân thường dùng. Người ấy liền đi theo con đường
ấy. Sau đó, người ấy tìm lại được thành phố cỗ xưa mà ngày trước
đã có nhiều người trú ngụ, với các công viên, vườn cây, hồ ao, đền
đài tráng lệ. Người ấy trở về, báo cáo với vua và các quan đại thần:
'Thưa bệ hạ, khi thần dân đi theo con đường mòn trong rừng, thần dân đã
tìm lại được một con đường cũ xa xưa. Thần dân liền đi theo con đường
ấy. Sau đó, thần dân tìm lại được thành phố cỗ xưa mà ngày trước
đã có nhiều người trú ngụ, với các công viên, vườn cây, hồ ao, đền
đài tráng lệ. Kính xin bệ hạ hãy trùng tu lại thành phố ấy.' Sau đó,
nhà vua và các quan đại thần quyết định trùng tu thành phố cỗ đó, và
về sau, thành phố nầy trở nên phồn thịnh, đông dân cư, phát triển lớn
mạnh và giàu có.
Cùng thế ấy, ta đã tìm lại con đường cũ xa
xưa, một con đường mà các Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đều đi qua trong
các thời kỳ trước. Con đường cũ xa xưa đó là gì? Đó là Con Đường
Tám Chánh: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng,
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Ta đã đi theo con đường ấy.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
già và chết, tri kiến về nguyên nhân của già và chết, tri kiến về đoạn
diệt già và chết, tri kiến về con đường đoạn diệt già và chết.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
sinh, tri kiến về nguyên nhân của sinh, tri kiến về đoạn diệt sinh, tri
kiến về con đường đoạn diệt sinh.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
hữu, tri kiến về nguyên nhân của hữu, tri kiến về đoạn diệt hữu,
tri kiến về con đường đoạn diệt hữu.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
chấp thủ, tri kiến về nguyên nhân của chấp thủ, tri kiến về đoạn diệt
chấp thủ, tri kiến về con đường đoạn diệt chấp thủ.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
tham muốn, tri kiến về nguyên nhân của tham muốn, tri kiến về đoạn diệt
tham muốn, tri kiến về con đường đoạn diệt tham muốn.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
thọ, tri kiến về nguyên nhân của thọ, tri kiến về đoạn diệt thọ,
tri kiến về con đường đoạn diệt thọ.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
tiếp xúc, tri kiến về nguyên nhân của tiếp xúc, tri kiến về đoạn diệt
tiếp xúc, tri kiến về con đường đoạn diệt tiếp xúc.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
sáu xứ, tri kiến về nguyên nhân của sáu x٬ tri kiến về đoạn diệt sáu
xứ, tri kiến về con đường đoạn diệt sáu xứ.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
danh sắc, tri kiến về nguyên nhân của danh sắc, tri kiến về đoạn diệt
danh sắc, tri kiến về con đường đoạn diệt danh sắc.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
thức, tri kiến về nguyên nhân của thức, tri kiến về đoạn diệt thức,
tri kiến về con đường đoạn diệt thức.
Theo con đường đó, ta đã có được tri kiến về
nghiệp hành, tri kiến về nguyên nhân của nghiệp hành, tri kiến về đoạn
diệt nghiệp hành, tri kiến về con đường đoạn diệt nghiệp hành.
Tri kiến được như thế, ta đã truyền dạy lại
cho các nam và nữ tu sĩ, nam và nữ cư sĩ, để đời sống thánh thiện nầy
được trở nên hùng mạnh, huy hoàng, quảng bá sâu rộng cho chư thiên và
loài người".
-- Tương Ưng, XII-65
Con đường giải thoát:
Nầy Subhada, nếu giáo pháp nào mà không hàm
chứa Bát Chánh Đạo thì giáo pháp đó không đào tạo các vị sa môn đạt
đạo quả thứ nhất (Dự lưu, Tu đà hoàn), không đào tạo các vị sa môn
đạt đạo quả thứ hai (Nhất lai, Tư đà hàm), không đào tạo các vị sa
môn đạt đạo quả thứ ba (Bất lai, A na hàm), không đào tạo các vị sa
môn đạt đạo quả thứ tư (Vô sanh, A la hán).
Nầy Subhada, nếu giáo pháp nào có hàm chứa Bát
Chánh Đạo thì giáo pháp đó sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả
thứ nhất (Dự lưu, Tu đà hoàn), sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo
quả thứ hai (Nhất lai, Tư đà hàm), sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo
quả thứ ba (Bất lai, A na hàm), sẽ đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả
thứ tư (Vô sanh, A la hán).
Nầy Subhada, giáo pháp của Ta có hàm chứa Bát
Chánh Đạo nên giáo pháp đó đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ
nhất (Dự lưu, Tu đà hoàn), đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ
hai (Nhất lai, Tư đà hàm), đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ
ba (Bất lai, A na hàm), đào tạo các vị sa môn đạt đạo quả thứ tư (Vô
sanh, A la hán). Các hệ giáo pháp khác đều không đào tạo các vị sa môn
đạt đạo quả thánh, đắc tuệ giải thoát. Nầy Subhada, khi nào các vị
sa môn tu tập và truyền giảng Chánh Pháp một cách đúng đắn thì thế giới
nầy sẽ không bao giờ trống vắng các bậc A la hán giải thoát.
-- Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường
Bộ Kinh, 16:214
(Bình
Anson trích dịch,
Perth, Western Australia, tháng 12/1999)
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/005-tudieude.htm