- Lý thuyết Vô Ngã
- Hòa thượng W. Rahula
Cái mà người ta thường gọi là
linh hồn, ngã hay cái tôi, là để nói một thực thể tuyệt đối, trường
cửu ở trong con người, cái bản thể bất biến ở sau hiện tượng giới
hằng biến. Theo một vài tôn giáo, mỗi người có một linh hồn tách biệt
như thế do Chúa tạo dựng, và linh hồn ấy sau khi chết sẽ vĩnh viễn sống
hoặc trong địa ngục hay trong thiên đường. Số phận nó tùy thuộc vào sự
phán xét của Đấng sáng tạo ra nó. Theo một vài tôn giáo khác, linh hồn
ấy trải qua nhiều đời sống, cho đến khi nó hoàn toàn trong sạch và cuối
cùng trở thành đồng nhất với Thượng Đế hay Brahman, Linh hồn phổ quát
hay Atman, từ đấy nó được sinh ra. Linh hồn hay ngã trong con người là
cái suy nghĩ, cảm giác, và nhận thưởng phạt về tất cả mọi hành vi
thiện và ác của nó. Một quan niệm như thế gọi là ý tưởng về
"Ngã".Phật giáo là tôn giáo độc nhất trong lịch sử tôn giáo của
nhân loại đã phủ nhận hiện hữu của một linh hồn, Ngã hay Atman như thế.
Theo giáo lý Đức Phật, ý tưởng về Ngã là một niềm tin tưởng sai lạc,
không có trong thực tại, và nó phát sinh những tư tưởng tai hại về
"tôi" và "của tôi", dục vọng ích kỷ, khát khao ràng buộc,
thù hằn, ác độc, kiêu căng ngã mạn, vị ngã, và những sự xấu xa, bất
tịnh khác cùng những vấn đề rắc rối khác. Nó là nguồn gốc của mọi
rối ren trong đời, từ những tranh chấp cá nhân đến chiến tranh giữa các
dân tộc. Tóm lại, tất cả mọi sự tác quái trên thế gian đều do quan
niệm sai lạc nầy.Có hai ý tưởng được ăn sâu trong tâm lý con người:
tự vệ và tự tồn. Vì tự vệ, con người đã tạo ra Thượng Đế để
nương cậy, để che chở cho chính mình, để được an toàn và bảo đảm,
như một đứa trẻ nương tựa vào cha mẹ. Vì muốn tự tồn người ta đã
tạo ra ý tưởng về một linh hồn bất tử hay Atman, sẽ sống mãi đến bất
tận. Trong ngu si, yếu đuối, sợ hãi, dục vọng, người ta cần hai điều
ấy để tự an ủi. Do đó, họ bám vào đấy một cách cuồng tín và sâu
đậm.Giáo lý của Đạo Phật không nâng đỡ sự ngu si, sợ hãi, dục vọng
ấy, mà cốt làm cho người giác ngộ bằng cách trừ khử và tiêu diệt
chúng, đánh vào tận gốc của chúng. Theo Phật giáo, những ý tưởng của
chúng ta về Thượng Đế và Linh Hồn là sai lạc và trống rỗng, mặc dù
những ý tưởng ấy được phát triển mạnh tạo thành những lý thuyết,
tất cả chúng đều là những bóng dáng của tâm thức vô cùng vi tế, được
gói ghém trong một lối ngôn thuyết triết lý và siêu hình phức tạp. Những
ý tưởng này đã ăn sâu vào tâm lý con người, gần gũi và thân thuộc với
họ đến nỗi họ không mong nghe, cũng không muốn hiểu một đạo lý nào
chống lại với chúng.Đức Phật biết rất rõ điều ấy. Quả vậy, Ngài
dạy rằng giáo lý của Ngài "đi ngược dòng" (Patisotagàmi), đi
ngược những dục vọng ích kỷ của con người. Bốn tuần lễ sau khi giác
ngộ, ngồi dưới một gốc cổ thụ, ngài tự nhủ: "Ta đã thực chứng
một sự thực sâu xa, khó thấy, khó hiểu ... chỉ những bậc trí giả mới
hiểu được ... Những người bị đam mê chế ngự, bị vô minh vây phủ
không thể nào thấy chân lý này, vì nó ngược dòng, nó cao siêu, sâu nhiệm,
tế nhị và khó nghĩ bàn".Nghĩ thế, Đức Phật do dự một lúc, có phải
vô ích không nếu ta cố gắng giải cho thế gian Chân lý mà ta đã chứng
nhập? Rồi ngài so sánh thế gian như một ao sen: trong ấy có nhiều hoa sen
còn ở dưới mặt nước, có những hoa khác chỉ vừa ló lên trên mặt nước,
nhưng cũng có những bông hoa đã vươn lên khỏi mặt hồ và không còn động
chạm với nước. Cũng thế trong thế gian này, trình độ phát triển của
con người khác nhau. Có một số người sẽ hiểu được Chân lý. Vì thế
Đức Phật quyết định giảng dạy chân lý ấy.Lý thuyết Anatta hay Vô
Ngã là kết quả tự nhiên, hay hệ luận của sự phân tích về Ngũ uẩn và
giáo lý Duyên khởi (hay Duyên sinh, Paticca-samuppàda). Cái mà ta gọi linh hồn
hay cá thể được cấu tạo bởi năm uẩn, và khi chúng ta phân tích và
xét kỹ chúng, thì không thấy có gì ở đằng sau chúng mà có thể gọi
được là Tôi, Atman, hay Ngã, hay bất cứ bản thể nào trường tồn bất
biến. Đấy là phương pháp phân tích. Ta cũng có kết quả tương tự khi xét
kỹ lý thuyết về luật Duyên khởi, phương pháp tổng hợp, và theo luật
này không có gì trong thế gian là tuyệt đối. Mọi sự vật (pháp) đều
giới hạn, tương đối, và phụ thuộc lẫn nhau. Đây là thuyết tương đối
của Phật học.Trước khi thực sự đi vào vấn đề Vô Ngã, ta nên có một
ý niệm sơ qua về luật Duyên khởi. Nguyên tắc của lý thuyết này được
tóm tắt trong một công thức gồm 4 hàng:Cái này có, thì cái kia có
(Imasmim sati idam hoti)
Cái này sinh thì cái kia sinh (Imassuppàda idam uppajjati)
Cái này không có, thì cái kia không có (Imasmim asati idam na hoti)
Cái này diệt thì cái kia diệt (Imassa nirodhà idam nirujjhati)Trên nguyên tắc
ấy về điều kiện tính, tương đối tính và tính tương quan tương liên
(phụ thuộc lẫn nhau) toàn thể sự sinh tồn và tiếp tục sanh tử cùng sự
chấm dứt của nó được giải thích trong một công thức gọi là Duyên khởi
gồm 12 yếu tố:1- Vô minh duyên (sinh ra) hành (những hoạt động do ý muốn
và những tạo tác của nghiệp) (Avijjàpaccayà samkhàvà).
2- Hành duyên thức (Samkhàrapaccayà vinnànam)
3- Thức duyên danh sắc (những hiện tượng tâm lý và vật lý
(Vinnànapaccayà nàmarùpam).
4- Danh sắc duyên lục nhập -(5 giác quan ý thức) (Nàmarùpapaccayà
salàyatanam).
5- Lục nhập duyên xúc (động chạm, tiếp xúc) (Salàyatanapaccayà phasso)
6- Xúc duyên thọ (cảm giác) (Phassapaccayà vedanà)
7- Thọ duyên ái (khao khát ham muốn) (Vedanàpaccayà tanhà).
8- Ái duyên thủ (bám víu, giữ lấy) (Tanhapaccayà upàdànam)
9- Thủ duyên hữu (quá trình sinh ra và trở thành) (Upàdànapaccayà bhavo)
10- Hữu duyên sinh (sự sống, sinh ra) (Bhavapaccayà jàti)
11- Sinh duyên ... 12- Lão (già), tử (chết), ưu bi khổ não (buồn lo đau đớn)
(Jàtipaccayà jaràmaranam).Đây là quá trình theo đó sự sống đã phát sinh,
tồn tại và tiếp diễn. Nếu ta đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến
sự chấm dứt của quá trình: Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì
thức diệt, thức diệt thì sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt
v.v... cho đến khi sinh, lão, tử, ưu bi khổ não ... diệt.Cần nhớ rõ một
điều rằng mỗi yếu tố trên đây đều vừa là nhân vừa là quả, nó vừa
bị định đoạt bởi (paticca samuppanna), và vừa làm điều kiện cho
(paticca samuppàda). Bởi thế chúng đều là tương đối, phụ thuộc lẫn
nhau và liên quan với nhau, không có cái gì là tuyệt đối hay biệt lập,
do đó mà Phật giáo không công nhận có "nguyên nhân đầu tiên".
Duyên khởi nên xem như một vòng tròn, chứ không nên xem là một sợi dây
xích.Vấn đề ý chí tự do đã chiếm một địa vị quan trọng trong tư
tưởng và triết học Tây Phương. Nhưng theo luật Duyên khởi, vấn đề này
không phát sinh và không thể phát sinh trong triết học Phật giáo. Nếu
toàn thể hiện hữu đều là tương đối, giới hạn và phụ thuộc nhau,
làm sao một mình ý chí có thể được tự do? Ý muốn, cũng như bất cứ
tư tưởng nào khác, cũng bị giới hạn. Cái mà ta gọi là "Tự
Do", chính nó cũng giới hạn và tương đối. Không thể có cái gì vật
lý hay tâm lý, có thể tuyệt đối tự do, vì mọi sự đều tương quan và
tương đối. "Ý chí tự do" bao hàm ý nghĩa, một ý muốn không phụ
thuộc vào những điều kiện, biệt lập với nhân quả. Làm sao một ý muốn
hay bất cứ cái gì thuộc về ý chí, có thể phát sinh mà không có những
điều kiện, tách rời nhân và quả - khi toàn thể hiện hữu đều giới hạn
và tương đối, nằm trong luật nhân quả? Lại ở đây, ý tưởng về ý
chí tự do cũng liên quan căn bản với những ý tưởng về Thượng Đế,
linh hồn, công bằng, thưởng và phạt. Không những cái gọi là tự do đã
không tự do, mà ngay cả chính ý tưởng về ý chí tự do cũng không thoát
khỏi những điều kiện.Theo thuyết duyên khởi, cũng như theo sự phân
tích con người thành năm uẩn, ý tưởng về một bản thể trường cửu bất
diệt trong người hay ở ngoài nó, dù gọi là Atman, Tôi, Linh hồn, Ngã hay
cái Ta, chỉ được coi như một niềm tin sai lầm (tà tín), một bóng dáng
của tâm thức. Đây là lý thuyết Phật giáo về Vô ngã hay "không có
linh hồn" (Anatta).Để tránh một sự lầm lẫn, ở đây ta nên nhắc rằng
có hai loại chân lý: chân lý ước định (sammuti-sacca) và chân lý tối hậu
(paramattha-sacca). Khi ta dùng thường ngày những từ ngữ như "tôi",
"anh", "linh hồn", "cá nhân" v.v... không phải chúng
ta nói dối, bởi vì không có ngã hay linh hồn như thế, nhưng chúng ta nói
một sự thật thuận theo quy ước của thế gian. Nhưng sự thật tối hậu
là: trong thực tế, không có "tôi" hay "linh hồn". Như kinh
Mahàyàna-Sutralãnkàra (Lăng già) dạy: "Một con người (pudgala) nên được
xem là chỉ có trong sự ấn định (prajnapti) (nghĩa là gọi như quy ước thì
có một cá thể hay con người), chứ không phải trong thực tại (hay trong bản
thể, dravya)."Bởi thế, thật lạ lùng khi gần đây vài học giả (như
bà Rhys Davids và những người khác) đã cố - một cách vô vọng - xen ý tưởng
về Ngã vào trong giáo lý Đức Phật, một điều hoàn toàn trái ngược với
tinh thần Phật giáo. Những vị học giả này kính trọng, ngưỡng mộ và
sùng thượng Đức Phật và giáo lý Ngài. Họ ngưỡng mộ Phật giáo. Nhưng
họ không thể tưởng tượng được rằng Đức Phật, người họ xem là tư
tưởng gia sâu sắc và minh bạch nhất, lại đã có thể phủ nhận hiện hữu
của Atman, linh hồn hay ngã mà họ vô cùng cần đến. Họ không biết rằng
họ đang tìm sự ủng hộ của Đức Phật cho nhu cầu này, nhu cầu một hiện
hữu bất diệt - dĩ nhiên không phải trong một cái ngã nhỏ nhen cá biệt
với một chữ "n" thường, mà trong cái Ngã với một chữ
"N" hoa.Tốt hơn, người ta nên nói thật rằng họ tin vào một
Atman hay Ngã, hoặc người ta có thể nói ngay rằng Đức Phật hoàn toàn
sai lầm trong khi phủ nhận hiện hữu của một cái Ngã. Nhưng chắc chắn
là không ai nên đưa vào trong Đạo Phật một ý tưởng mà Đức Phật không
bao giờ chấp nhận, như chúng ta có thể thấy từ những nguyên bản Pali
còn lại.Những tôn giáo tin vào Thượng Đế và linh hồn không giấu diếm
gì về hai ý tưởng ấy, họ còn tuyên bố chúng ra, lập lại nhiều lần
trong những từ ngữ hùng hồn nhất. Nếu Đức Phật quả chấp nhận hai
ý tưởng ấy, hai ý tưởng tối quan trọng trong mọi tôn giáo, thì chắc
chắn Ngài đã công khai tuyên bố chúng ra, như Ngài đã nói về những điều
khác, chứ đã không để cho chúng bị ẩn một để mà chỉ được khám
phá ra 25 thế kỷ sau khi Ngài mất. Người ta trở nên nóng nảy khi nghĩ rằng
qua giáo lý Vô ngã của Đức Phật, cái Tôi mà họ tưởng tượng mình
có, sẽ bị phá hủy.Đức Phật không phải là không biết đến điều này.
Một hôm, một vị Tỳ kheo hỏi Ngài: "Bạch Đức Thế Tôn, có khi nào
người ta bị dày vò bối rối vì không tìm thấy được một cái gì hằng
tồn ở trong nó?"Đức Phật trả lời:-- "Có, này Tỳ kheo, khi một
người có quan niệm sau đây, "Vũ trụ là Atman ấy, ta sẽ là Atman sau
khi chết, trường tồn, vĩnh viễn, bất diệt và ta sẽ tồn tại như thế
trong vô tận thời gian".Người ấy nghe Như Lai hay một đệ tử của
Như Lai thuyết lý nhằm mục đích phá hủy hoàn toàn mọi quan điểm tư
duy ... nhằm mục đích diệt tắt lòng khao khát (ái), nhằm mục đích cởi
mở, chấm dứt, Niết Bàn. Rồi người ấy nghĩ: "Ta sẽ trở thành hư
vô, ta sẽ bị phá hủy, ta sẽ không còn nữa". Bởi thế nó buồn rầu,
lo lắng, than khóc, đập vào ngực, và trở nên hoảng hốt hoang mang. Như
thế, này Tỳ kheo, quả có trường hợp người ta bị dày vò khi không tìm
thấy được một cái gì trường cửu ở trong nó". (Trung Bộ kinh)Ở một
đoạn khác, Đức Phật dạy rằng: "Hỡi các Tỳ kheo, ý tưởng rằng
"ta có thể không còn tồn tại nữa, không có gì nữa" làm cho những
người ngu lo sợ" .Những người muốn tìm một cái "Ngã" trong
Phật giáo lý luận như sau: Quả thật rằng Đức Phật đã phân tích con
người ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn), và bảo rằng không
có gì trong những thứ ấy là Ngã. Nhưng Ngài không nói tuyệt đối không
có Ngã trong con người hay bất cứ chỗ nào khác, ngoài những "uẩn"
ấy. Lập trường này không đứng vững được vì hai lẽ:- Lẽ thứ nhất
là theo giáo lý Đức Phật, một con người chỉ do năm uẩn kết hợp và
không là gì khác. Không có chỗ nào Đức Phật bảo rằng có cái gì khác
ngoài năm uẩn ấy trong một con người. - Lẽ thứ hai là Đức Phật đã
phủ nhận hoàn toàn, trong những lời lẽ minh bạch, hiện hữu của Atman,
Linh hồn hay Ngã trong người hay ở ngoài, hay bất cứ ở đâu trong vũ trụ.
Ta hãy lấy vài ví dụ:Trong kinh Dhammapada (Pháp cú) có ba câu vô cùng quan
trọng và cốt yếu trong giáo lý Đức Phật, đấy là những số 5, 6, 7, chương
20 (hay những câu thơ số 277, 278, 279). Hai câu thơ đầu nói:"Mọi sự
vật bị giới hạn (có điều kiện) đều là vô thường" (sabbe samkhàrà
anicca) và
"Mọi sự vật bị giới hạn đều là khổ (sabbe samkhàrà dukkhà)Câu
thứ ba là:"Mọi pháp (dhammas) là vô ngã (sabbe dhammà anattà).Cần chú
ý đặc biệt ở đây rằng trong hai câu đầu chữ samkhàrà (hành), "những
sự vật bị giới hạn", đã được dùng. Nhưng trong câu thứ ba thay
vì chữ samkhàra, chữ dhammà đã được dùng. Vì sao câu thơ thứ ba đã
không dùng chữ samkhàrà, "sự vật bị giới hạn", như hai câu trước,
mà lại dùng danh từ dhammà thay vào? Chính đấy là điểm quan trọng nhất
của cả vấn đề.Danh từ samkhàrà chỉ Ngũ uẩn, mọi sự vật và trạng
thái bị giới hạn, phụ thuộc lẫn nhau, tương đối, mọi "pháp"
vật lý cũng như tâm lý (sắc pháp và tâm pháp). Nếu câu thơ thứ ba nói:
"Mọi samkhàrà (sự vật bị giới hạn) là vô ngã" thì người ta
có thể nghĩ rằng, mọi sự bị giới hạn là vô ngã, tuy nhiên có thể
có một cái Ngã ở ngoài những sự vật bị giới hạn đó, ở ngoài Ngũ
uẩn. Chính là để tránh sự hiểu lầm mà danh từ dhammà (Pháp) đã được
dùng trong câu thơ thứ ba.Danh từ dhamma, "Pháp", có phạm vi rộng lớn
hơn samkhàra nhiều. Không có danh từ nào trong thuật ngữ Phật học lại
có phạm vi rộng lớn hơn chữ "Pháp". Nó bao gồm không những những
sự vật và trạng thái có điều kiện, mà còn cả cái vô điều kiện, cái
tuyệt đối, Niết Bàn; không có gì ở trong hay ở ngoài vũ trụ, tốt hay
xấu, có điều kiện hay không có điều kiện, tương đối hay tuyệt đối..,
mà không được bao gồm trong danh từ này. Bởi vậy, thật quá rõ rằng,
theo câu: "mọi pháp là vô ngã" thì không có Ngã, không có linh hồn,
không những chỉ ở trong ngũ uẩn, mà còn bất cứ ở đâu ngoài ngũ uẩn
hay riêng biệt với ngũ uẩn.Theo giáo lý Nguyên thủy, Theravàda, điều này
có nghĩa rằng không có Ngã ở trong cá nhân (puggala) hay trong các Pháp. Triết
lý Đại thừa cũng có một lập trường y hệt, không có một dị biệt
nào về điểm đó, nhấn mạnh trên sự vô ngã của các pháp cũng như vô
ngã trong con người (dhamma-nairàtmya và pudgala-nairàtmya).Trong kinh
Alagaddùpama Sutta thuộc bộ Majjhimà-nikàya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật dạy
môn đệ:"Hỡi các Tỳ kheo, hãy chấp nhận một lý thuyết về linh hồn
nếu khi chấp nhận nó sẽ không còn phát sinh sự buồn sầu, bi thương, thống
khổ, phiền muộn, đớn đau. Nhưng này các Tỳ kheo, các ông có thấy một
lý thuyết về linh hồn nào như thế hay không, lý thuyết mà khi chấp nhận
nó, sẽ không còn phát sinh buồn sầu, bi thương, thống khổ, phiền muộn,
đớn đau?.-- Bạch Đức Thế Tôn, nhất định là không.-- Chính thế, hỡi
các Tỳ kheo. Ta cũng vậy, này các Tỳ kheo, ta không thấy một thuyết về
linh hồn nào mà nếu chấp nhận, sẽ không còn phát khởi buồn rầu, bi thương,
thống khổ, phiền muộn, đớn đau".Nếu có một thuyết về linh hồn
nào mà Đức Phật đã chấp nhận, thì chắc chắn Ngài đã giảng ra ở đây,
bởi vì Ngài bảo các Tỳ kheo hãy chấp nhận một lý thuyết về linh hồn
mà không phát sinh đau khổ. Nhưng theo quan điểm của Đức Phật, không có
một thuyết linh hồn như thế, và bất cứ một thuyết linh hồn nào, dù
tinh tế và cao siêu mấy đi nữa cũng đều là giả danh và tưởng tượng,
sinh ra mọi thứ vấn đề rắc rối, phát sinh theo nó những buồn rầu, bi
thương, thống khổ, phiền não, đớn đau.Tiếp đó Đức Phật dạy cũng cùng
trong Kinh ấy:"Hỡi các Tỳ kheo, khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về
Ngã không có, thì quan điểm tư duy này: "Vũ trụ là Linh hồn, ta sẽ
là Linh hồn sau khi chết, sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh viễn bất biến,
và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian", quan điểm
ấy có phải là hoàn toàn điên rồ chăng?"Ở đây Đức Phật nói rõ
rằng một Atman, hay Linh hồn, hay Ngã, thì không thể tìm thấy đâu trong thực
tại, và thật điên rồ để tin tưởng rằng có một chuyện như thế.Những
người tìm kiếm một cái Ngã trong giáo lý Đức Phật trích ra một ví dụ
mà trước hết họ dịch sai, rồi giải thích một cách lầm lẫn. Một
trong những ví dụ ấy là câu danh tiếng Attà hi attano nàtho trong Kinh Pháp
Cú (câu kệ 160), đã được dịch là "Ta là chúa tể của ta", và
được giải thích rằng nó có nghĩa cái Ngã lớn là chúa tể của cái
Ngã nhỏ.Trước hết, lối dịch ấy không đúng. Attà đây không có nghĩa
là ngã trong ý nghĩa Linh hồn. Trong tiếng Pali, danh từ Attà thường được
dùng như một đại-danh từ tự quy (reflexive pronoun), trừ trong một số ít
trường hợp trong ấy nó được dùng theo nghĩa đặc biệt và triết học
để chỉ thuyết linh hồn như đã thấy ở trên.Nhưng trong cách dùng thông
thường, như trong kinh Pháp cú, nơi câu ấy được tìm thấy, và trong nhiều
nơi khác, nó được dùng như một Đại danh từ hay đại danh từ bất định
có nghĩa: "chính tôi, "chính anh", "chính nó",
"chính ta", "chính người ta" v.v..Kế đến, chữ nàtho
không có nghĩa là "chúa tể", mà là "nơi nương tựa",
"trú ẩn", "giúp đỡ", "che chở"... Bởi thế Attà
hi attano thật sự có nghĩa "người ta là sự giúp đỡ của chính
mình" hay "điểm tựa". Nó không dính dáng gì đến một cái
ngã hay linh hồn siêu hình nào cả. Nó chỉ có nghĩa bạn phải nương cậy
vào chính bạn chứ đừng ỷ lại vào kẻ khác.Một ví dụ khác về sự cố
đưa ý tưởng về ngã vào giáo lý Đức Phật là câu danh tiếng
"attadìpà viharatha, attasarana anannasaranà", được rút ra khỏi mạch
văn trong kinh Đại Bát Niết Bàn của hệ Nguyên thủy (Trường Bộ Kinh). Câu
này dịch sát ý có nghĩa: "Hãy cứ làm hòn đảo (nơi nương cậy) cho
chính ngươi, làm nơi trú ẩn cho chính ngươi, và đừng xem ai khác hơn làm
nơi nương cậy". Những người muốn tìm thấy một cái ngã trong Phật
học đã giải thích từ ngữ attadìpà và attasaranà là "lấy ngã làm một
ngọn đèn", "lấy ngã làm một nơi nương tựa"!Ta không thể
hiểu ý nghĩa toàn vẹn của lời Đức Phật khuyên A-nan (Ananda), nếu ta
không xét đến bối cảnh và mạch văn trong đó những lời nầy đã được
thốt ra.Lúc ấy Đức Phật đang nghỉ tại một khu làng gọi là Behuva, ba
tháng trước khi Ngài mất, Bát-Niết-Bàn (parinirvàna). Bấy giờ Ngài đã
80 tuổi, và đang lâm bệnh nặng, gần mất. Nhưng Ngài nghĩ không nên chết
mà không từ giã những môn đệ vốn gần gũi yêu mến Ngài. Bởi thế, một
cách can đảm, quả quyết, Ngài chịu đựng tất cả đau đớn, thắng lướt
cơn bệnh, và bình phục. Nhưng sức khoẻ Ngài còn kém. Sau khi bình phục,
một ngày kia Ngài ngồi trong bóng mát ở bên ngoài chỗ Ngài lưu trú.
A-Nan, vị thị giả tận tụy nhất của Phật, tiến đến Đức Đạo Sư
quý mến của mình, ngồi bên cạnh Đức Thế Tôn và bạch:"Bạch Đức
Thế Tôn, con đã săn sóc sức khoẻ Đức Thế Tôn, con đã hầu hạ Ngài
trong khi Ngài lâm bệnh. Nhưng khi thấy bệnh tình của Ngài, bầu trời đối
với con trở nên mờ mịt, và các giác quan của con không còn sáng suốt nữa.
Tuy nhiên con còn một điều an ủi nhỏ này: con nghĩ rằng Đức Thế Tôn sẽ
không nhập Niết Bàn mà không để lại những lời di giáo, đề cập đến
đoàn thể Tăng già".Khi ấy Đức Phật đầy từ bi và nhân ái, đã
khoan hòa nói với người thị giả tận tụy thân yêu:"A-Nan, đoàn thể
tăng già còn chờ đợi gì nơi ta nữa? Ta đã nói pháp (chân lý) không
phân biệt cao thấp. Về phương diện chân lý, Như Lai không có gì như nắm
tay khép chặt của một ông thầy (àcariya-mutthi). Dĩ nhiên rằng, hỡi
A-Nan, nếu có một người nào nghĩ rằng họ muốn lãnh đạo Tăng già, và
Tăng già phải tùy thuộc vào họ, thì người ấy hãy đặt ra những điều
chỉ dẫn. Nhưng Như Lai không có ý nghĩ ấy. Vậy thì sao Như Lai phải lưu
lại những lời chỉ dẫn thuộc về tổ chức Tăng già? Nay ta đã già rồi,
A-Nan, đã 80 tuổi. Như một chiếc xe cũ cần phải sữa chữa mới chạy
được, cũng thế, thân xác của Như Lai bây giờ cũng chỉ tiếp tục điều
hành nhờ sữa chữa. Bởi thế, này A-Nan, hãy tự làm hòn đảo (nơi
nương cậy) cho chính ngươi, hãy lấy chính ngươi làm nơi trú ẩn và
không ai khác, hãy lấy Pháp làm hòn đảo (nơi nương tựa), lấy Pháp làm
nơi trú ẩn, và không ai khác có thể làm nơi trú ẩn cho ngươi".Những
gì Đức Phật muốn truyền dạy A-Nan thật quá rõ ràng. A-Nan đang buồn sầu
đau đớn, Ông nghĩ rằng mình sẽ hoàn toàn cô độc, không người giúp đỡ
không nơi nương tựa, không người hướng dẫn, sau khi Đức Đạo Sư vĩ
đại qua đời. Bởi thế Đức Phật ban cho ông những lời an ủi, khuyên
ông can đảm, tin tưởng, dạy rằng nên nương vào chính đạo và nương vào
"Pháp" Ngài đã truyền, chứ đừng nương vào ai khác, vào cái gì
khác. Ở đây vấn đề về một Atman siêu hình, hay ngã, là hoàn toàn
không nhằm chỗ.Sau đó, Đức Phật giảng giải cho A-Nan làm thế nào để
có thể là hòn đảo hay chỗ trú ẩn cho chính mình: Ấy là nhờ sự đào
luyện của ý thức, về thân xác, cảm giác, tâm và các tâm pháp -- 4 pháp
quán niệm. Không có gì ở đây nói về một Atman hay Linh hồn cả.Một
tài liệu khác rất thường được trích ra đã được dùng bởi những người
muốn tìm Ngã trong giáo lý Đức Phật. Một hôm Đức Phật ngồi dưới bóng
cây trong một khu rừng trên đường đi từ Benares (Ba la nại) đến Uruvelà.
Vào ngày ấy có 30 hoàng tử trẻ tuổi đang đi cấm trại cùng với những
người vợ trẻ của họ trong cùng khu rừng ấy. Một ông hoàng chưa vợ
mang theo một gái giang hồ. Trong khi những người khác đang vui đùa, thì
cô ta trộm một vài đồ vật quí giá và trốn mất. Trong khi đi tìm cô
ấy trong cánh rừng, họ thấy Đức Phật ngồi dưới gốc cây và hỏi
Ngài có thấy một người đàn bà đi qua không. Ngài hỏi có chuyện gì xảy
ra và sau khi nghe giải thích Đức Phật hỏi họ: "Các ngươi nghĩ sao,
hỡi những người trẻ tuổi? Nên làm gì tốt đẹp hơn cho các ngươi? Đi
tìm một người đàn bà, hay đi tìm chính các ngươi?" (Đại sử)Đây
cũng lại là một câu hỏi rất giản dị và tự nhiên, không có lý do gì
để đưa vào trong chuyện ấy những ý tưởng tìm kiếm xa xôi về một
cái Ngã hay Linh hồn. Họ trả lời rằng tốt hơn họ nên tìm kiếm chính
họ. Đức Phật liền bảo họ ngồi xuống và giảng Pháp cho họ nghe.
Trong tài liệu còn để lại, trong nguyên bản về những gì Ngài đã giảng
cho họ, không có một chữ nào nói về Atman.Người ta đã viết nhiều về
đề tài "sự im lặng của Đức Phật" khi có một người khất
sĩ tên Vacchagotta hỏi Ngài có một linh hồn hay không. Câu chuyện như
sau:Vacchagotta đi đến Đức Phật và thưa hỏi:-- Thưa Ngài Cồ Đàm, có một
linh hồn hay không?Đức Phật lặng im.-- Thế thì thưa Ngài, không có linh hồn
à?Đức Phật lại im lặng.Vacchagotta đứng dậy bỏ đi.Sau khi người khất
sĩ (parivràjaka) rời khỏi, A-Nan hỏi Phật vì sao Ngài đã không trả lời
câu hỏi của Vacchagotta. Đức Phật giải thích thái độ của Ngài như
sau:"Này A-Nan, khi Vacchagota, người khất sĩ ấy hỏi: "Có một linh
hồn hay không?, nếu trả lời: "Có" thì khi ấy có nghĩa là ta đã
đứng về phía những ẩn sĩ và Bà la môn chủ trương thuyết trường tồn
(sassata-vàda)."Và này A-Nan, khi người khất sĩ ấy hỏi: "Không có
linh hồn hay sao?, nếu trả lời "Không" thì ta đã đứng về phía
những ẩn sĩ và Bà la môn chủ trương thuyết đoạn diệt (uccheda-vàda)."Lại
nữa, này A-Nan, khi người khất sĩ ấy hỏi: "Có linh hồn không?"
mà ta trả lời "Có" thì như thế có phù hợp với sự thấy biết
của ta rằng vạn pháp vô ngã hay không?" -- Bạch Thế Tôn, hẳn là
không.-- "Lại nữa này A-Nan, khi người khất sĩ ấy hỏi: "Không
có linh hồn hay sao?" mà ta trả lời "Không" thì điều ấy sẽ
làm cho Vacchagotta đã hoang mang lại càng hoang mang thêm nữa. Vì y sẽ nghĩ:
trước kia quả thật ta có một linh hồn (Ngã) nhưng bây giờ ta không có nữa".
(Tương Ưng, IV)Bây giờ hẳn là ta phải hiểu rõ vì sao Đức Phật đã im
lặng. Nhưng ta sẽ còn hiểu rõ hơn nếu ta xét toàn thể bối cảnh và
cách Đức Phật xử trí về những câu hỏi và người hỏi - điều này những
người bàn đến vấn đề ấy hoàn toàn không kể đến.Đức Phật không
phải là một bộ máy tính, tuôn ra đáp số cho bất kỳ câu hỏi nào, do bất
cứ ai đặt ra, mà không suy xét. Ngài là một vị Thầy thực tế, đầy Từ
bi và Trí tuệ. Ngài không trả lời câu hỏi để phô bày kiến thức và
thông minh của Ngài, nhưng để giúp người hỏi trên đường đi đến thực
chứng. Khi nói với người nào Ngài luôn luôn để tâm đến trình độ phát
triển của họ, khuynh hướng họ, cấu tạo tâm thức của họ, tính tình
họ và khả năng của họ để lĩnh hội một vấn đề nào đó.Theo Đức
Phật, có bốn cách đáp những câu hỏi:- Có những câu nên trả lời một
cách trực tiếp,
- Có những câu khác nên trả lời bằng cách phân tích,
- Có những câu nên trả lời bằng cách hỏi vặn lại,
- và cuối cùng, có những câu hỏi nên dẹp lại một bên. (Tăng Chi)Có thể
có nhiều cách dẹp vấn đề sang bên. Một cách là nói rằng một câu hỏi
là không được trả lời hay giải thích, như cách Đức Phật đã hơn một
lần dùng với cùng một người Vacchagotta ấy, khi anh ta đặt những câu hỏi
danh tiếng về vũ trụ trường tồn hay không v.v.. (Tương Ưng, IV; Trung Bộ
Kinh). Cũng với các cách ấy, Ngài đã trả lời cho Màlunkyaputta và những
người khác. Nhưng Ngài không thể nói như thế về vấn đề có ngã, linh
hồn hay không, vì Ngài đã luôn luôn thảo luận và giảng giải nó. Ngài
không thể nói: "có linh hồn" vì nó trái ngược với kiến giải của
Ngài rằng "tất có các pháp đều vô ngã". Và Ngài cũng không muốn
nói rằng "không có linh hồn", vì như thế là vô cố làm cho anh
chàng khổ sở. Vacchagotta đã hoang mang về một vấn đề tương tự lại càng
hoang mang thêm, như chính anh ta đã công nhận ở trước (Trung Bộ, I). Anh
ta chưa đủ căn cơ để hiểu ý tưởng về vô ngã. Vì vậy trong trường
hợp này, dẹp câu hỏi sang một bên bằng cách im lặng; chính là khôn
ngoan nhất.Ta cũng đừng quên rằng Đức Phật đã biết rõ Vacchagotta từ
lâu. Đây không phải là dịp đầu tiên mà người khất sĩ thắc mắc ấy
đến thăm Đức Phật. Đấng Đạo Sư trí huệ và từ bi đã lưu tâm chú
ý nhiều đến con người tìm kiếm hoang mang này. Có nhiều đoạn nói đến
anh chàng Vacchaghtta người khất sĩ, trong các bản kinh Pali, anh ta đã từng
tìm đến Đức Phật và các môn đệ Ngài khá nhiều lần, lập lại nhiều
lần cũng những câu hỏi ấy, rõ ràng anh ta rất băn khoăn hầu như bị
ám ảnh bởi vấn đề kia. Sự im lặng của Đức Phật có lẽ đã có hiệu
quả đối với Vacchogatta hơn tất cứ một sự trả lời hay thảo luận hùng
hồn nào.Một vài người xem Ngã có nghĩa là cái gì thường được gọi là
"tâm" hay "thức". Nhưng Đức Phật dạy rằng chẳng thà người
ta nên xem thân xác vật lý của mình như là "Ngã" còn hơn tâm, ý
hay thức (citta, mano, vinnàna) vì tâm, ý hay thức thì biến đổi không ngừng
ngày cũng như đêm, vả lại còn mau chóng hơn cả thể xác (kàva). (Tương
Ưng, II)Chính cảm giác mơ hồ "có tôi" đã phát sinh ý tưởng về
Ngã, vốn không có cái gì tương đương trong thực tại; và thấy được
chân lý ấy tức là thực chứng Niết Bàn, một điều không phải dễ
dàng cho lắm. Trong kinh Samyutta-nikàya (Tương ưng), có một cuộc đàm thoại
khá làm sáng tỏ vấn đề về điểm này giữa thầy Tỳ kheo tên Khemaka
và một nhóm Tỳ kheo. Những vị nầy hỏi Khemaka có thấy trong ngũ uẩn một
cái "ngã" nào hay bất cứ cái gì thuộc về "ngã" không.
Khemaka trả lời "không". Đoạn những Tỳ kheo bảo rằng, nếu thế
thì ông ta phải là một vị La Hán đã thoát khỏi mọi sự dơ bẩn. Nhưng
Khemaka thú thật rằng mặc dù ông ta không tìm thấy trong ngũ uẩn một cái
ngã nào hay bất cứ gì thuộc về Ngã, "tôi vẫn không phải là một A
La Hán (Arahant) đã thoát khỏi mọi sự cấu uế, bất tịnh. Này các bạn
ơi, đối với ngũ uẩn, tôi có một cảm giác rằng "Tôi có", nhưng
không thấy rõ "đây là Tôi". Rồi Khemaka giải thích rằng cái mà
ông ta gọi là "Tôi" không phải sắc, không phải thọ, không phải
tưởng, không phải hành, cũng không phải thức, cũng không phải bất cứ
cái gì bên ngoài chúng. Nhưng ông vẫn có một cảm giác "Tôi có"
đối với năm uẩn, mặc dù ông không thể thấy rõ "đây là
Tôi".Ông ta bảo rằng cũng giống như mùi thơm của một bông hoa: nó
không phải là mùi thơm của các cánh hoa, không phải của màu sắc hoa,
không phải của đài hoa, nhưng là mùi thơm của hoa.Khemaka còn giải thích
thêm rằng ngay cả một người đã đạt những giai đoạn đầu tiên của
sự thực chứng vẫn còn có cảm giác "Tôi có" ấy. Nhưng về sau,
khi người ấy tiến xa hơn, cảm giác ấy hoàn toàn biến mất, hệt như mùi
hóa học của một chiếc áo mới giặt sẽ bay mất một thời gian sau khi
ra khỏi hộp đựng nó.Cuộc thảo luận này ích lợi và làm sáng tỏ vấn
đề đối với họ đến nỗi sau đó, như bản kinh chép, tất cả mọi người,
gồm cả Khemaka, đều chứng quả A La Hán, thoát khỏi mọi cấu bẩn, và
như thế cuối cùng họ đã xua đuổi được cảm giác "Tôi
có".Theo giáo lý Đức Phật, chấp rằng "tôi không có ngã" (tức
là thuyết đoạn diệt) cũng sai lầm như chấp rằng "tôi có ngã"
(thuyết thường tồn), bởi vì cả hai quan niệm đều là những xiềng
xích, vì cả hai đều phát sinh từ ý tưởng sai lầm "Tôi có".
Thái độ đúng đắn đối với vấn đề vô ngã là không chấp một quan
điểm hay "kiến" nào, mà cố nhìn sự vật một cách khách quan,
nhìn chúng như sự thật, không có những dự phóng của tâm thức, phải thấy
rằng cái mà ta gọi là "Tôi" hay "linh hồn", chỉ là một
kết hợp của các uẩn (sự chứa nhóm) vật lý và tâm linh, hoạt động
tương quan mật thiết với nhau trong một dòng biến chuyển hằng tồn ở
trong luật nhân quả, và không có cái gì trường cửu, thường tồn, bất
biến và vĩnh viễn trong toàn thể hiện hữu.Ở đây một câu hỏi tự
nhiên đặt ra: Nếu không có Ngã hay Atman, vậy thì ai thọ nhận những hậu
quả cuả nghiệp (hành động)? Không ai có thể giải đáp câu hỏi này hơn
Đức Phật. Khi một Tỳ kheo hỏi Ngài câu đó, Đức Phật dạy: "Hỡi
các Tỳ kheo, ta đã dạy các ông thấy rõ điều kiện tính ở trong mọi sự
vật".(Trung Bộ, III; Tương Ưng, III)Giáo lý Đức Phật về Anatta (không
có linh hồn, hay Vô ngã) không nên được xem như tiêu cực hay hủy diệt.
Cũng như Niết bàn, đấy là Chân lý, Thực tại, và Thực tại không thể
là tiêu cực. Chính niềm tin sai lầm vào một cái ngã tưởng tượng không
có thực, mới là tiêu cực. Giáo lý Vô ngã xua tan bóng tối của tà tín,
và phát sinh ánh sáng của trí huệ. Nó không tiêu cực, như ngài Vô Trước
(Asanga) đã nói rất đúng: "Có một thực tại là Vô Ngã"
(nairàtmyàstità).
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/015-vonga.htm