- ĐẠO PHẬT
- HT. Thích Thiện Hoa
- (Trích từ Phật Học Phổ Thông)
MỞ ĐỀ:
PHẬT RA ĐỜI VÌ MỘT NHÂN DUYÊN LỚN: "KHAI THỊ CHÚNG
SANH NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN".
Người đời thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện,
"Đạo nào cũng tốt!". Lời nói ấy, hoặc vì xã giao để cho vui lòng
khách, hoặc vì chưa rõ bề mặt trong của các Đạo khác nhau thế nào,
nên mới ra như thế. Thật ra về mục đích thì đạo nào cũng có giá trị
của nó, chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi. Nhưng mục
đích tốt dù sao, cũng chưa đủ. Điều quan trọng là làm sao thực hiện
được mục đích ấy, và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu
đạo nào cũng có giá trị như nhau, thì sao trước đây 2500 năm, trong lúc
xứ Ấn độ đã có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích Ca còn giáng
sinh làm chi nữa?
Chẳng qua các Đạo tuy nhiều, mà chưa được toàn "chơn,
thiện, mỹ", nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho
chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngõ hầu giải
thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, được tự tại vô ngại như Phật.
Kinh Pháp Hoa chép, "Vì một nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời".
Nhân duyên lớn ấy là gì? Chính là: "Khai thị chúng
sanh ngộ nhập Phật tri kiến", để cho chúng sanh được nhờ đó
mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống
khỏi chết, lìa khổ được vui.
CHÁNH ĐỀ
ĐỊNH NGHĨA:
1. Chữ Đạo nghĩa là gì? Chữ đạo có ba nghĩa: Đạo
là con đường; Đạo là bổn phận; Đạo là lý tánh tuyệt đối, là bản
thể.
a) Đạo là con đường, như người ta thường dùng
trong những chữ: nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo,
súc sanh đạo. Phàm là con đường thì có tốt, xấu, có thiện, ác
v.v...Theo đạo Phật, hễ còn trong vòng đối đãi, thì không thể gọi
hoàn toàn rốt ráo.
b) Đạo là bổn phận, như người ta thường dùng những
chữ: đạo vua tôi, đạo thầy trò, đạo vợ chồng v.v...Phàm là bổn phận
thì thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục và tập
quán của nước này không giống nước kia. Vì vậy, chữ Đạo là bổn phận
cũng chưa đúng với nghĩa chữ Đạo mà nhà Phật muốn nói.
c) Đạo là* lý tánh tuyệt đối, là bản the
嬍 nó lìa nói năng, không thể nghĩ bàn. Đức Lão tử
nói: "Đạo mà nói ra được, không phải là đạo". Xưa có người
hỏi một vị Tổ Sư: "Đạo là gì?". Tổ sư đáp: "Trước Phật
Oai Âm Vương, không có tên Phật và chúng sanh, lúc ấy chính là Đạo".
Chữ Đạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể
vậy.
2. Chữ Phật nghĩa là gì? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng
Phạn là Bouddha (Phật Đà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bực
đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bực:
a) Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước
huệ và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người còn mê muội,
bị luân hồi trong cõi trần lao, khổ hải.
B) Giác tha: Nghĩa là mình đã giác ngộ, lại đem
phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ
như mình. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, vì chỉ
lo giải thoát cho mình. Chỉ người tu theo Đại Thừa mới có được giác
tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sanh đang chìm đắm.
C) Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn
đầy đủ cho mình và cho người. Những bậc Bồ Tát, tuy đã giác ngộ cho
mình và cho người, nhưng công hạnh chưa viên mãn, nên chưa gọi được là
"Giác Giác Hạnh Viên Mãn". Chỉ có Phật mới có * được gọi là
Giác Hạnh Viên Mãn.
Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự
giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ
riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả
như đã nói trên đều được gọi là Phật cả.
3. Đạo Phật nghĩa là gì? Theo những định nghĩa về
chữ Đạo và chữ Phật đã nói trên, chúng ta có thể giải thích chữ Đạo
Phật như sau:
- Đạo Phật là con đường chơn chánh, hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản
thể của sự vật, là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt,
mà các đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra.
- Đạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha và có
công hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo
viên mãn.
ĐẠO PHẬT CÓ TỪ HỒI NÀO?
Có hai nghĩa:
- Đứng về phương diện bản thể mà xét thì Đạo Phật có từ vô thỉ
(nghĩa là không có đầu mối, không có giới hạn ở trong thời gian). Vì
Đạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sanh, nên có chúng sanh là có
Đạo Phật; mà chúng sanh đã có từ vô thỉ thì Đạo Phật cũng có từ
vô thỉ.
- Đứng về phương diện lịch sử và hạn cuộc trong thế giới này mà
nói, thì Đạo Phật đã có từ 2501 (1) năm nay (tính đến năm
1957), trước Thiên Chúa Giáo 544 năm.
AI KHAI SÁNG RA ĐẠO PHẬT?
Tín đồ Đạo Phật cần phải biết lịch sử đức Giáo
Chủ của mình.
Dưới đây, xin kể sơ lược những điểm chính của đời
đức Giáo Chủ, người đã khai sáng ra Đạo Phật, tức là đức Phật Thích
Ca Mâu Ni
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nguyên là Thái Tử nước Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ, Phụ hoàng tên Tịnh Phạn Vương Đầu
Đà Nà (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma Da (Maya). Họ Ngài là Kiều Đáp Ma,
xưa dịch là Cù Đàm, tên Ngài làTất Đạt Đa (Shidartha). Còn chữ Thích
Ca (Sakya), Tàu dịch là Năng Nhơn: Năng là năng lực, Nhơn là từ bi. Mâu Ni
(Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động
tâm; Mặc là lặng lẽ, không bị phiền não khuấy rối, độ mình độ
người, công đức đầy đủ.
Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường.
Lớn lên nhìn thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên Ngài cương
quyết xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người, ngõ
hầu đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ.
Sau sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài thấy
tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt được chân lý, nên Ngài
đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc cây Bồ Đề (Tất Bát La, dịch âm theo tiếng
Ấn Độ) và thề rằng: "Nếu ta không thành đạo, thì dù thịt nát xương
tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này". Với chí hùng dũng
cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rõ chân tướng của vũ trụ
nhân sanh và chứng đạo Bồ Đề. Sau khi thành đạo, Ngài chu du khắp xứ,
thuyết pháp độ sinh, để chúng sanh chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được
vui. Suốt thời gian 49 năm, như một vị lương y đại tài, xem bịnh cho thuốc,
Ngài đã dắt dẫn chúng sanh lên đường hạnh phúc và vạch cho mọi người
con đường giác ngộ giải thoát.
Đến 80 tuổi, Ngài nhập Niết Bàn ở thành Câu Thi Na,
trong rừng Ta La (Song Thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày Rằm tháng 2 âm lịch.
GIÁO LÝ CỦA ĐẠO PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Giáo lý của đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển là
Kinh, Luật, Luận.
1. Kinh: Kinh là những lời của đức Phật Thích Ca đã
nói khi còn tại thế, để dạy chúng sanh dứt trừ phiền não và đạt đến
quả Niết Bàn.
2. Luật: Luật là những giới luật mà Phật đã chế
ra cho các đệ tử, để các đệ tử răn chừa các điều dữ, tu tập các
điều lành, trau dồi thân tâm cho thanh tịnh.
3. Luận: Luận là những sách phần nhiều do các đệ
tử Phật làm ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong kinh, luật
hoặc quyết đoán tánh, tướng của các Pháp, phân biệt những lẽ phải
*chẳng củam chánh đạo và tà đạo, khiến cho người đời khỏi nhận lầm
phải trái, chánh tà.
Tam tạng kinh điển lại chia làm hai loại là Đại Thừa và
Tiểu Thừa.
Chữ Thừa nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa
là cổ xe. Thừa hay Thặng đều có hàm ý nghĩa là: Giáo lý của Phật có
công năng như một chiếc xe, đưa chúng sanh từ nơi cõi trần lao phiền
não đến cảnh giới an vui thanh tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết
Bàn, giải thoát.
Đại thừa như là cỗ xe lớn, có thể chở nhiều người
trong một lúc; trái lại Tiểu Thừa như là một cỗ xe nhỏ, chỉ chở mỗi
lúc một vài người mà thôi.
Sở dĩ giáo lý Đạo Phật chia ra làm Đại Thừa và Tiểu
Thừa như thế, vì căn cơ và nguyện vọng chúng sanh không đồng nhau. Những
hạng người nào nhận thấy mình chỉ đủ sức để giải thoát cho riêng
phần mình mà thôi, như chiếc xe nhỏ chở được một vài người, thì
theo giáo lý Tiểu Thừa.
Những hạng người nào tự nhận thấy mình có thể vừa
giải thoát cho mình và cho người ra khỏi sanh tử luân hồi, tự nguyện độ
mình và người cùng đi đến Niết Bàn, như một cỗ xe lớn, cùng chở
trong một lúc được nhiều người, thì theo Đại Thừa. Hạng người này
rõ biết phiền não, sanh tử như huyển hóa, nên không chịu sớm an vui ở
quả vị cuối cùng của mình, mà thường độ sanh không bao giờ biết mỏi
mệt; và vì nhận thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình chưa có thể an
vui được.
SỰ TRUYỀN BÁ CỦA ĐẠO PHẬT:
Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, hai vị đại đệ tử
của Phật là Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan thay Phật hoằng truyền Phật pháp
ở Ấn độ. Đó là thời kỳ thứ nhứt. Thời kỳ thứ hai do các vị Tổ
sư Long Thọ, Mã Minh và Vô Trước lãnh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị
Tổ sư Long Trì, Thiện Vô Úy và Liên Hoa Sanh đảm nhiệm.
Từ Ấn Độ, Phật Giáo lan truyền vào các nước lân cận,
rồi toàn cõi Á Đông, và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự truyền bá
này đi theo hai hướng: một hướng về phương Bắc và một hướng về
phương Nam. (Xem Lịch sử truyền bá Phật Giáo khóa 5)
Về phương Bắc, thì gọi là Bắc Phương hay là Bắc Tôn
Phật Giáo, hay Đại Thừa Phật Giáo, gồm có những nước: Tây Tạng,
Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam v.v..
Về phương Nam, thì gọi là Nam Phương hay Nam tôn Phật
Giáo, hay Tiểu Thừa Phật Giáo, hay Nguyên Thủy Phật Giáo, gồm có những
nước: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Nam Dương v.v...
Nhưng hiện nhờ sự giao thông tiện lợi và kinh điển được
trao* dồi khắp các nước, nên sự chia rẽ giữa Bắc tôn và Nam tôn không
còn được rõ ràng như trước: trong Đại Thừa vẫn còn có Tiểu Thừa
và trong Tiểu Thừa vẫn còn có Đại Thừa.
SỰ LỢI ÍCH CỦA ĐẠO PHẬT:
Mục đích của Đạo Phật là đem lại những kết quả đẹp
đẽ sau này cho chúng sanh:
1. Chơn thường: Chúng sanh trôi lăn, lặn hụp trong biển
sanh tử luân hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô thường, khi trẻ khi già,
khi lành khi ốm, khi sống khi chết...Đạo Phật đem lại cho người tu hành
một quả vị là không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi phối.
2. Chơn lạc: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối
tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được trong chốc lát,
như người khát, uống nước mặn vào, đỡ khát trong chốc lát, rồi về
sau lại càng khát hơn lúc đầu. Đạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ
tu hành một sự an vui toàn vẹn và bất tận.
3. Chơn ngã: Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch
cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ tù tội bị giam hãm trong
ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt động theo ý muốn của
mình. Đạo Phật có mục đích làm cho những người tu hành được giải
thoát hoàn toàn ra ngoài những trói buộc nói trên, làm cho con người đầy
đủ năng lực để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống một
cuộc đời an nhiên tự tại.
4. Chơn tịnh: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới ô
trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cõi tục, từ trong tâm hồn cho đến ngoài
thể chất. Đạo Phật có mục đích làm cho người tu hành gạn lọc được
bao nhiêu ô trọc của cõi đời, được sống một cuộc sống trong trắng,
tinh khiết, không vướng chút bận nhơ của trần tục.
Không phải chỉ trong vị lai, Đạo Phật mới đem lại lợi
ích cho đời, ngay trong xã hội hiện tại, Đạo Phật cũng đem lại nhiều
lợi ích quý báu:
- Đạo Phật, nhờ tinh thần Từ Bi, làm cho xã hội, nhân
loại thương yêu nhau hơn.
- Đạo Phật, nhờ ánh sáng Trí Tuệ, làm cho xã hội, nhân
loại bớt si mê lầm lạc, thấy được đâu là giá trị thật, đâu là phỉnh
phờ, giả dối.
- Đạo Phật, nhờ tinh thần Bình Đẳng tuyệt đối, san bằng
được những bất công của xã hội, nhân loại, và làm cho cảnh giới Ta
Bà này được sáng sủa, an vui hơn.
Đó là những lợi ích mà Đạo Phật đem lại cho cõi đời.
KẾT LUẬN:
Những lợi ích nói trên quý báu như thế, nhưng sẽ không
bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành theo Phật.
1. Học Phật: Đức Phật mặc dù là một đấng xuất
phàm, thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải học hỏi đêm
ngày, hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát huy ra được cái giáo lý nhiệm
mầu để lại cho chúng ta. Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử
chân chính thì trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ
học trong giáo lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức hạnh, hành
vi của đời Ngài nữa.
2. Hành theo Phật: Nhưng học mà không tập, không
hành, thì chẳng khác gì cái đãy đựng sách, chữ nghĩa kinh sách chất chứa
thật nhiều, mà chẳng có ích lợi gì cả. Vậy nên học phải đi đôi với
hành. Chúng ta phải cố gắng thực hành cho được những điều đã học,
làm cho được những điều mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì,
chúng ta phải tập làm lại; Phật đã có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả,
Hoan Hỷ, Tinh Tấn, Thanh Tịnh...chúng ta cũng cố gắng thực hiện cho được
những đức tánh ấy.
Có như thế, mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới
gọi là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ Phụ Thích
Ca.