- NHÂN QỦA
- HT. Thích Thiện Hoa
- (Trích từ Phật Học Phổ Thông)
A. MỞ ĐỀ
Vũ trụ, vạn vật không phải tuần
hành, biến dịch một cách tự nhiên, vô lý, mà tuân theo một cái luật
chung. luật đó là luật Ngài nhân quả. Luật nào không phải do một đấng
nào, xẫ hội nà đặt ra, mà là một lụat thiên nhiên âm thầm, lặng lẽ,
nhưng đúng đẵn vô cùng.
Người đời vì không quan sát một
cách kỹ càng, tường tân nên không thấy được luật ấy. Do đó, họ đã
hành động một cách bừu bãi, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với bản
thân mình và với người chung quanh. Và cùng chính vì thế mà họ đau khổ,
lặn hụp mãi trong biển mê mờ, tội lỗi.
Trái lại, Đức Phật là vị hoàn
toàn giác ngộ, đã phát huy ra cái luật nhân quả đang chi phối, điều hành
mọi sự vật trong vũ trụ nầy, nên Ngài đã hành động một cách sáng suốt,
lời lạc cho chính mình và chúng sanh.
Vậy chúng ta là Phật tử, chúng ta
cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà đấng từ phu đó phát huy nó
như thế nào, để rồi hành động đúng theo như lời Ngài đã làm, hầu
đem lại hạnh phúc chân thật, lâu bền cho mình và cho người chung quanh.
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. ĐỊNH NGHĨA
"Nhân" là nguyên nhân,
"Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái
do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành
của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối
nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì
không có Nhân.
NHỮNG ĐẶC TÍNH
CỦA LUẬT NHÂN QUẢ
1. Nhân thế nào
thì quả thế ấy
Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải
ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu.
Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại
được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ.
nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau.
Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.
2. Một nhân
không thể sanh ra quả
Sự vật trong vũ trụ nầy đều là
sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào, có thể
tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân
khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ
hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một
mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước,
nhân công.
Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên
bố rằng: "mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn
vật"; ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.
3. Trong nhân có
quả, trong quả có nhân
Chính trong nhân hiện tại đã có
hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có
hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó
chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một
sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng
thái렭à ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật,
vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ,
thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp
nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.
4. Sự phát triển
nhanh và chậm từ nhân đến quả
Sự biến chuyển từ nhân đến quả,
có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời
gian đồng nhất:
Có những nhân và xảy ra kế tiếp
nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa
đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả);
hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng
lên. Có khi nhân đã gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới hình
thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một
thời gian ít nhất là bốn tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau
từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành
tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.
Có khi cần đến một vài trăm
năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm
giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc
lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ.
Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện
cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn
quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.
III. PHÂN TÍCH
NHÂN QUẢ TRONG THỰC TẾ
Như các đoạn trên đã nói, nhân
quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì,
động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thóat ra ngoài luật
nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân
quả, chúng ta hãy tùan tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi
sự vật:
1. Nhân quả có
trong những vật vô tri vô giác
Nước bị lửa đốt thì nóng, bị
gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu nagỳ thì đại
hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
2. Nhân quả
trong loài thực vật
Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam
thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt.
Nói một cách tổng quát, giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì
sanh trái chua, giống nào thì sanh quả ấy.
3. Nhân quả
trong các loài động vật
Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta
gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại
làm nhân, sinh ra trứng là quả.
Loài thú sanh con, con ấy là quả.
Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.
4. Nhân quả nơi
con người
Về phương diện thể chất:
Thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng.
Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ
tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.
Về phương diện tinh thần:
Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt
hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: tư tưởng và hành động quá khứ
là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình
và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động
trong tương lai là quả.
Để nhận rõ cái phần tinh thần
quan trọng nầy, chúng ta hãy dành riêng ra một mục, để đặt biệt chú
ý đến hành tướng của nó dưới đây.
- IV. NHÂN QỦA VỀ PHƯƠNG DIỆN
TINH THẦN
- 1. Nhân quả của tư tưởng và
hành vi không tốt
Tham: Thấy tiền của người, nổi
lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh
đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong
khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.
Sân: Người quá nóng giận,
đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là
nhân; khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu
tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.
Si mê: Người say mê sắc dục,
liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm
cho gia đình lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả.
Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi
ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không
theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm
chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.
Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn
cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là
nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả.
Nghiện rượu trà: chung quanh tiện bạc ăn nhậu cho ngỏa nguê là nhơn; đến
lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém
giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc
của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo con
bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu
trước hụt sau, thâm quỹ "thụt két" là quả.
2. Nhân quả của
tư tưởng và hành vi tốt
Như trên chúng ta đã thấy, những
tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục
nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo
cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy.
Người không có tánh tham bỏn sen,
thì tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi. Người
không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm; người
không si mê theo sắc dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ
sáng suốt, thân thể tráng kiện; người không hay ngờ vực, có đức tin,
thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu
trong đời; người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm nở
đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến. Người không rượu
chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quan biết kình nể,
yêu vì...Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều, quí đọc
giả cũng chán biết. Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và
quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng ngày, đọc các
mục tin tức là thấy ngay.
Nói một cách tổng quát, về phương
diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ gì, thì gặp thứ
ấy. Người Pháp có câu: "Mỗi người là con đẻ của công nghiệp
mình".
- V. LỢI ÍCH ĐEM LẠI CHO CHÚNG TA
DO SỰ HIỂU BIẾT VÀ ÁP DỤNG LUẬT NHÂN QUẢ
- 1. Luật nhân quả tránh cho ta những
mê tín dị đoan,
- những tin tưởng sai lầm vào thần
quyền
Luật nhân quả cho chúng ta thấy
được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất
cả những cái gì đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm
sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương "Vạn vật do
một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loài". Do đó, người
hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình,
không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ
hoang mang.
2. Luật nhân quả
đem lại lòng tin tưởng vào chình con người
Khi đã biết cuộc đời của mình
do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình,
mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở
ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người
dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động
tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết
quả đẹp đẽ.
3. Luật nhân quả
giúp chúng ta không chán nản, không trách móc
Người hay chán nản, hay trách móc
là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi
đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất
bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Đã biết mình là
quan trọng như thế, là chỉ còn lo tự sửa mình, thôi gieo nhân xấu, để
khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.
VI. QUYẾT NGHI
1. Có người nghĩ rằng: Nhân quả
là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, sao có người cả đời
hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái lại, những người hung
ác, sao lại vẫn được an bình ?
Đáp: Những đọan trên đã
nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ
không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời
sau mới hình thành quả v.v...
Vậy nếu có người trong đời hiện
tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn
hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, thì tương lai hay
qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi,
không làm gì hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền
của để dành vậy. Còn cái nhân ăn chơi không làm năm nay, thì sang năm họ
sẽ chịu quả đói rách.
Còn người đời nay hiền từ, làm
các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước,
họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ
sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng,
mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng
năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói:
- Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
- Chỉ danh lai tảo dữ lai trì
(Việc lành hay việc dữ đều có
quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)
2. Có người hỏi: Theo luật
nhân quả thì làm nấy chịu: cha làm tội, con không thể thay thế được;
con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha
làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?
Trả lời: Trong kinh Phật dạy:
Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp.
Bật nghiệp là nghiệp báo riêng của
mỗi chúng sanh, như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì
mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thì mình
thất bại.
Cộng nghịêp là nghiệp chung cho
nhiều chúng sinh; cùng sống trong mọt hoàn cảnh. Như người Việt Nam, sống
trên mảnh đất chữ S nầy trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa
qua, thì dù giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng
chung của chiến tranh; như sanh ở một nước tiên tiến, thì mọi người
đều tương đối được hưởng một dời sống vật chất đầy đủ hơn
ở một nước bán khai. Đã sanh chung một gia đình, một xứ sở hay một
dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau. Sách có
câu:
- Nhất nhơn tác phước, thiên nhơn hưởng,
- Độc thọ khai hoa, vạn thọ hương.
(Một người làm phước, ngàn
người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều
được thơm lây).
C. KẾT LUẬN
Chúng ta đã biết giá trị của luật
nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc
hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng
nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói
liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhã trong tương lai. Nếu
chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của
chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các
việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ
địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền,
siêu nhân.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/035-tth-nhanqua.htm