- Tứ nhiếp pháp
- (Trích Phật Học Phổ Thông)
A.
MỞ ĐỀ
Tu hạnh lợi
tha nhiếp hóa chúng sinh là bổn phận của Bồ Tát
Ðức Phật ra đời nhằm mục đích
cứu vớt chúng sinh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Người Phật tử theo dấu
chân Phật tất phải tập làm những gì đức Phật đã làm. Trong khi tu
hành, Phật tử không bao giờ nên quá chú trọng đến mình mà quên người,
không nên chỉ lo giác ngộ cho mình mà không tìm cách giác ngộ cho người.
Trong đạo Phật, mình với người là một khối, mình không khác người,
không thể phân chia ra được. Càng lo tự lợi chừng nào lại càng đi ngược
với sự tu hành chừng ấy. Trái lại, càng hy sinh cho người, càng chú trọng
đến lợi tha, lại càng mau chứng ngộ chừng ấy.
Phật có
vô lượng phương pháp cứu độ chúng sanh, chúng ta muốn áp dụng phương
pháp nào cũng được. Song muốn có kết quả cụ thể, chúng ta phải tùy
theo căn cơ, hoài bão của chúng sanh mà chọn pháp môn tu hạnh lợi tha. Đối
với người đồng loại, chúng tôi tưởng không có phương pháp nào có hiệu
quả thiết thực lợi ích cho người và làm cho người cảm hóa sâu xa bằng
pháp môn Tứ nhiếp pháp.
B.
Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Tứ nhiếp
pháp là gì? Tức là bốn phương pháp lợi tha để nhiếp phục chúng sanh
quay về với Phật pháp.
Bốn phương
pháp đó là:
Bố thí
nhiếp
Ái ngữ
nhiếp
Lợi
hành nhiếp
Ðồng sự
nhiếp
II. Hành Tướng Của Tứ
Nhiếp Pháp
1.
Bố thí nhiếp
Một xã hội
tốt đẹp hay xấu xa, hòa bình hay hỗn loạn không phải là không nguyên
nhân. Nguyên nhân của hỗn loạn xấu xa chính là lòng ích kỷ. Nhân loại
đang quằn quại trong khổ đau, những cảnh nồi da xáo thịt, tái diễn hằng
ngày là do đâu, nếu không phải chính là lòng tham lam ích kỷ?
Ðạo Phật
là đạo từ bi, nghĩa là cứu khổ. Mà những nỗi khổ lớn của con người
là gì? Ðó là sự thiếu thốn về vật chất, sự mê mờ về tinh thần,
và lòng lo sợ về đủ mọi thứ, như lo sợ mất tiền của, mất thân mạng,
gặp tai biến, v.v...
Vậy người
có lòng từ bi, muốn cứu khổ thì trước tiên phải xả bỏ tánh ích kỷ,
phải cho mọi người những gì mình có, phải cho những gì người khác
mong muốn. Nghĩa là phải làm hạnh bố thí. Do sự bố thí ấy mà mình cảm
phục được người chung quanh, mà người chung quanh mới gần gũi thân mến
mình và mong cầu học đạo giải thoát. Bố thí có 3 lối: Tài thí, Pháp
thí và Vô úy thí.
a) Tài thí: Tài là tiền của.
tài thí là đem tiền của mà bố thí, để cứu vớt người đồng loại
thoát khỏi đau khổ. Cảnh khổ của chúng sinh về vật chất không thể kể
xiết: người thiếu cơm, kẻ thiếu áo, người thiếu thuốc thang, kẻ thiếu
nơi nương náu...Ðứng trước bao cảnh khổ ấy, người Phật tử không thể
nào an nhiên hưởng sự súng sướng riêng được, mà trái lại thấy mình
có bổn phận xuất của, ra công giúp kẻ nghèo khổ, thiếu hụt.
Ðừng viện cớ, hay tự an ủi
mình nghèo không có của tiền giúp đỡ người chung quanh. Thật ra miễn là
mình có từ tâm hay không, chứ không phải mình hoàn toàn thiếu phương tiện
để giúp đỡ người khác. Một chén cơm vẫn có thể chia hai được, một
manh chiếu vẫn còn đủ chỗ cho thêm một người nằm được. Người ta
thường nói: "chật bụng chớ chật chi nhà", là thế. Người triệu
phú đem cho năm, bảy ngàn bạc không làm cho người ta cảm phục, quý mến
bằng người nghèo chỉ có hai bộ quần áo, mà đem cho bớt đi một bộ.
b) Pháp
thí: Pháp là giáo pháp, là những lời dạy, những giáo lý của đức
Phật và các bậc Thánh Hiền Tăng, là tam tạng kinh điển. Pháp thí là
đem những giáo pháp quý báu ấy mà bố thí, giảng dạy cho chúng sinh.
Chúng sinh
đang mê mẫn, xoay vần trong sáu cõi, gây nghiệp rồi thọ báo, khác nào tỉnh
mộng rồi lại mơ. Trong lúc mộng nào biết có mơ, cứ lăn lộn vào đường
ái, như bướm đâm đầu vào đèn. Vì thế, đức Phật mới đem giáo pháp
ra giảng dạy khiến cho chúng sinh ra khỏi biển khổ luân hồi.
Pháp của
Phật nhiều vô số lượng, cao bao nhiêu cũng có, thấp bao nhiêu cũng có,
đủ cỡ, đủ loại cho mọi căn cơ. Dù người nước nào, bực nào, căn
cơ cao hay thấp, sáng hay tối, một khi nghe đến pháp của Phật, tùy sức
đều được hiểu cả. Nên trong kinh có câu: "Phật thuyết nhất âm,
chúng sinh tùy loại các đắc giải".
Chúng ta đừng
viện cớ mình còn kém Phật pháp, không thể làm công việc thí pháp được.
Như trên dã nói, Pháp Phật có vô số lượng pháp môn, nếu không biết
được pháp môn cao thâm, thì cũng biết được pháp môn thông thường. Mỗi
Phật tử ít ra cũng biết tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật, ăn chay. Chúng
ta đem những điều ấy chỉ bảo cho người, thế cũng là thí pháp rồi. Nếu
làm những điều ấy với tấm lòng chân thật, hoan hỷ, cố mong sao cho người
chung quanh đi đến với đạo để được lợi ích, thì sự thí pháp ấy
còn đáng quí hơn là giảng những giáo lý cao với một thái độ dửng
dưng hay tự cao tự đại.
Tuy thế, đã
là Phật tử thì chúng ta có bổn phận phải luôn luôn trao dồi, học hỏi
để biết rộng hiểu nhiều, hầu tự giải thoát và để công việc thí
pháp của chúng ta được hiệu quả hơn, phổ biến rộng rãi hơn và ứng
dụng trong mọi trường hợp.
Thí pháp càng lan rộng, thì người
xu hướng về với Phật pháp càng nhiều và cõi đời càng bớt đau khổ.
c) Vô úy
thí: Vô úy là không sợ hãi. Vô úy thí là đem cái không sợ mà thí
cho chúng sinh. Sự sợ hãi là một tâm trạng rất thông thường của chúng
sinh trong cõi đời giả tạm và đầy đau khổ này. Vậy người có lòng từ
bi, phải cố gắng làm sao cho chúng sinh chung quanh có được sự bình tĩnh,
yên ổn của tâm hồn, không hoang mang lo lắng, sợ hãi.
Vô úy thí,
không phải chỉ những người có can đảm, có tài năng, có uy quyền mới
làm được. Hằng ngày chung quanh ta, biết bao người đang ở trong cảnh sợ
hãi; nếu thật chúng ta có lòng từ muốn giúp đỡ cho họ khỏi sợ hãi
thì không có lúc nào là không thể làm được: một đứa bé đang kinh hãi
trước hàm răng của con chó dữ; một bà lão lo sợ bị xe cán không dám băng
qua đường nhiều xe cộ; một thiếu nữ đi đêm "sợ ma"; một
thí sinh run rẩy trước giờ vấn đáp, v.v...đó là bao nhiêu cơ hội mà
chúng ta có thể thi hành pháp Vô úy thí. gặp người bị tai nạn, ta đem tài
năng hay thế lực ra đùm bọc, che chở cho họ khỏi sợ hãi; gặp người
đau ốm, lo sợ thần chết mang đi, ta lấy luật vô thường giảng giải
cho họ và bảo họ niệm đức Quan Thế Âm Bồ Tát hay Phật A Di Ðà v.v...đó
là Vô úy thí.
Tóm lại, bố
thí là do lòng từ bi vô hạn mà làm. Nó có một phạm vi rộng rãi vô
cùng. Khi nào còn có chúng sanh đau khổ thì ta còn bố thí.
Hình thức
cao nhất của bố thí là bố thí Ba la mật, nghĩa là bố thí rất nhiều
mà không thấy mình có bố thí; bố thí mà không phân biệt thân sơ, không
chấp ta, người, thù, bạn; bố thí mà không chấp số lượng những vật
thí. Như thế là ta đã thành tựu pháp "Tam luân không tịch" về bố
thí. Khi ấy, bố thí không còn là một việc làm phúc hay ban ân nữa, mà
chính là một việc tự nhiên, không thể bỏ qua được như ăn, như uống,
như một bổn phận nhất định hàng ngày.
Vậy đã
là Phật tử thì không thể nào không thi hành pháp bố thí được. Sự thi
hành này tùy phương tiện, tài năng, thể lực của mình, và ở trong hoàn
cảnh nào cũng làm được, chứ không phải đợi có đủ một số điều
kiện nào đó mới làm được. Miễn là ta càng cố gắng giúp ích, cứu khổ
cho người được chừng nào thì quí chừng ấy.
2.
Ái ngữ nhiếp
Ái ngữ nhiếp
là tùy theo căn tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi, khuyên lơn, nhân
thế khiến cho họ sinh lòng thân mến, cảm phục, rồi từ đó họ mới
theo ta mà học đạo.
Ở đời phần
nhiều người ỷ của, cậy quyền, đối với mọi người dùng lời không
tao nhã, nên làm cho người chung quanh chán ghét. Một khi họ không yêu mến,
cảm phục, thì tuy trước mặt họ dạ dạ, vâng vâng, mà sau lưng lại không
chịu phục tùng, nghe theo. Vì thế, nhiều việc phải bị hư hỏng.
Tục ngữ có
câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau". Thật thế, lời nói là một của báu mà mọi người đều có cả,
không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn. Nhưng cũng lời nói ấy người nầy
sử dụng thì nên công việc, còn người kia sử dụng thì lại tán gia bại
sản. Sở dĩ như thế là vì một bên biết lựa lời ăn nói dịu dàng, dễ
nghe, còn một bên cộc cằn, thô tục. Nhiều người, tự bào chữa, thường
bảo: "Tánh tôi ngay thẳng và có hơi nóng, nên hay ăn to nói lớn, chứ
thật ra tôi không có ác ý".
Không có
ác ý, nhưng làm cho người chung quanh phải đau khổ, khó chịu vì lời nói
khiếm nhã, thô bạo của mình, thì có khác gì người ác?
Vậy Phật
tử chúng ta muốn cảm hóa, dẫn dắt người chung quanh về con đường chánh,
trước tiên phải áp dụng cho được ái ngữ, nghĩa là luôn luôn và trong
mọi trường hợp, phải dùng lời dịu dàng, êm ái, thương yêu trong khi tiếp
xúc với mọi người. Nhất là khi người ta đang ở trong cảnh khổ, thì
những lời khuyên lơn, vỗ về lại càng vô cùng quí báu, vì có thể thoa
dịu được vết thương lòng và làm cho người ta vô cùng cảm kích, khó
mà có thể phai mờ được.
3.
Lợi hành nhiếp
Lợi hành
nhiếp là làm lợi ích cho người bằng ý nghĩ, lời nói hay hành động,
khiến cho người ta sinh lòng thân mến mà theo ta học đạo.
Cái gương
sáng nhất về phương diện lợi hành là cái gương Ngài Trì Ðịa Bồ
Tát. Suốt đời, Ngài thường gánh đất đắp đường, ban cho bằng phẳng,
hoặc bắc cầu để cho khách bộ hành đi lại được dễ dàng tiện lợi.
Ngài thay người già gánh nặng, đẩy giúp cỗ xe lên dốc cao, chèo giúp
cho người lái thuyền ngược nước...
Tóm lại, bất
luận việc lớn nhỏ, miễn giúp ích được cho người là Ngài không bao giờ
từ nan. Xem thế, thì không cần phải đợi có dủ phương tiện mới làm lợi
ích cho người được. Chỉ với một ít sức khỏe cũng có thể giúp được
nhiều việc lợi ích cho người rồi.
Có khi chỉ
cần một ý nghĩ tốt, một lời giới thiệu hay cũng có thể giúp cho người
chung quanh có công ăn việc làm.
Ðối với
người giàu có nhiều phương tiện thì phạm vi hoạt động cho lợi hành lại
càng rộng rãi. Họ có thể xuất tiền của ra làm nhà dưỡng lão, nuôi người
tuổi già sức yếu, để tuổi già của họ bớt đen tối, nguy nan; hay họ
xây viện dục anh, nuôi trẻ mồ côi cha mẹ, cho chúng học hành và có nghề
nghiệp, huấn luyện cho chúng thành những công dân hữu dụng. Hay dựng trại
tế bần, cấp dưỡng cơm ăn áo mặc cho kẻ đói khó, hay dựng bệnh xá
để cứu chữa những kẻ bệnh tật; hay xây trường học giúp con em có nơi
học hành. Ðó là bao nhiêu công việc vô cùng lợi ích, vừa cho đời vừa
cho đạo. Những công việc lành ấy sẽ cảm hóa lòng người và hướng họ
trở về con đường giải thoát là con đường của đạo Phật.
4.
Ðồng sự nhiếp
Ðồng sự nhiếp là tùy theo căn
cơ, hoài bão, địa vị, nghề nghiệp của người mà lặn lội vào công việc
của họ, cộng tác với họ, để một mặt giúp đỡ họ trong nghề nghiệp,
một mặt nêu cao gương lành, làm cho họ cảm mến mà theo ta đến gần đạo
cả.
Chẳng hạn
như khi ta cùng làm việc trong một công sở, trong một xí nghiệp, trong thương
trường hay trong nông nghiệp, mà từ việc lớn cho đến việc nhỏ, từ ý
nghĩ cho đến câu nói, ta luôn luôn nêu gương đạo đức, tận tâm tận lực
làm việc, sẵn sàng hy sinh quyền lợi mình, cho bạn đồng nghiệp, dần dần
những người cộng sự, sẽ tiêm nhiễm những đức tánh tốt đẹp của
ta, sẵn sàng nghe theo, làm theo những điều ta khuyên bảo.
Ðồng sự
nghiệp, là một phương pháp có hiệu quả nhất để nhiếp hóa người
chung quanh quay về con đường đạo. Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp hay lợi
hành nhiếp, mặc dù đều cảm hóa được người, nhưng không thường trực
và không có ảnh hưởng sâu xa như đồng sự nhiếp. Chẳng hạn như người
được ta bố thí, hay lợi hành, thì không phải lúc nào cũng ở bên cạnh
ta, mà chỉ thỉnh thoảng mới được ân huệ ấy; còn ái ngữ thì chỉ hạn
cuộc trong lời nói; mà lời nói dù có hay ho êm dịu bao nhiêu, cũng không
thể biến thành cơm thành áo, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống
đau khổ, thiếu thốn của người chung quanh được.
Nhưng với
đồng sự nhiếp, ta có thể giúp đỡ một cách thiết thực và thường
xuyên cho những người cùng sống trong một hoàn cảnh một nghề nghiệp với
ta. Ta luôn luôn gần gũi chung đụng với họ, nên ta thấu rõ những hoài
bão, tâm trạng, nhu cầu của họ; nhờ thế ta có thể giúp ích cho họ một
cách có hiệu quả hơn. Ta trở thành một cột trụ chính cho họ nương tựa;
vì thế ta có thể nhiếp hóa họ dễ dàng, sâu xa hơn. Một sự nhận xét
thông thường là ở đâu, công sơ hay tư sở, nhà máy hay nông trường, hễ
có một Phật tử chân chính, thuần thành, gương mẫu, thì ở đó số người
theo Phật càng ngày càng đông, càng mạnh.
III. Lợi Ích Của Tứ Nhiếp
Pháp
Nếu ta thực
hành đúng theo Tứ Nhiếp Pháp ta sẽ thấy những kết quả đẹp đẽ sau
đây:
1. Về phương
diện cá nhân:
Ta sẽ là một
con người gương mẫu; mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành động của ta
đều là một hạt giống thiện gieo vào ruộng phước mà sau nầy ta sẽ gặt
được những kết quả quý báu, tốt lành. Những gì của ta nói ra, làm ra
đều được thông cảm, tán thành, mến phục. Ta có thể thu hút nhân tâm
một cách dễ dàng, rộng rãi, và mỗi khi đi đến đâu, ta đều được tiếp
đón một cách chân thành, nồng nhiệt. Do đó, ta sẽ dễ dàng thành công
trong mọi việc.
2. Về phương
diện gia định:
Khi người
ngoài, xa lạ mà còn mến phuc, thương yêu ta, thì sao cha mẹ, vợ con, anh em
là những người thân thuộc lại không quý mến ta được? Do ảnh hưởng
tốt đẹp và uy tín của ta, mọi người trong gia đình đều trở thành thuần
lương, đức độ cả. Và một gia đình gồm những phần tử như thế, thì
thể nào cũng được trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm, nghĩa là
có hạnh phúc.
3. Về phương
diện xã hội:
Một người
tu hạnh Tứ Nhiếp pháp cũng đã gây được ảnh hưởng tốt lành và hoán
cải được một phần nào hoàn cảnh xã hội. Số người tu Tứ Nhiếp Pháp
cành nhiều thì xã hội lại càng được cải tiến, và trở thành thuần lương,
thiện mỹ.
Người ta
thường trách đạo Phật là tiêu cực yếm thế. Những lời chỉ trích sai
lầm ấy, chỉ đem một giáo lý Tứ Nhiếp Pháp nầy ra chứng minh, cũng đủ
đánh đổ được ngay. Thật vậy, nếu áp dụng triệt để Tứ Nhiếp Pháp
vào cuộc đời thực tế, thì xã hội sẽ được cải tiến một cách vô
cùng lợi lạc.
C.Kết
Luận
Như trên đã
nói, Tứ Nhiếp Pháp là một pháp môn để cải tiến xã hội một cách có
hiệu quả nhất. Nó lấy lợi sanh làm căn bản, lấy hạnh phúc của chúng
sanh làm mục đích. Ðây chúng ta hãy nhớ lại từng điểm một:
1) Hãy đem
của cải giúp cho người túng thiếu, tật nguyền, đem Phật pháp giảng
nói để cho mọi người cải ác tùng thiện, đem dũng lực tinh thần hay vật
chất để che chở cho người chung quanh khỏi lo sợ.
2) Hãy nói
lời ôn hòa nhã nhặn, để cảm hóa người ta đi theo con đường lành.
3) Hãy làm
lợi ích chomọi người trong mọi trường hợp.
4) Hãy hòa
mình trong cuộc sống, trong công việc của người chung quanh, để nhận rõ
được người nhu cầu thiết tha của họ, hầu giúp đỡ họ một cách có
hiệu quả, và đưa dần dần họ về con đường chính.
Vậy là Phật
tử, chúng ta không thể dửng dưng trước những lời kêu gọi lợi tha ấy
được.
Nếu chúng
ta làm ngơ, chúng ta chưa phải là Phật tử chân chính, vì chúng ta đã thiếu
hai yếu tố quan trọng nhất để tu hành: đó là lòng từ bi và lợi tha.
Thiếu hai điểm ấy không bao giờ chúng ta có thể tiến triển trên đường
đạo và thành Phật được.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/041-tth-tunhiepphap.htm