- Ngũ minh
- HT. Thích Thiện Hoa
(Trích Phật Học Phổ Thông)
A. MỞ ĐỀ
Người Tây phương thường chê đạo
Phật là tiêu cực. Thật ra, giáo lý của đức Phật như chúng ta đã học
trong mấy khóa phổ thông và nhất là trong khóa IV này, chứng tỏ một tinh
thần vô cùng tích cực, lợi tha, cứu thế. Nhưng trong thực tế, chúng ta
pphải công nhận rằng, phần đông các nhà hành đạo trong quá khứ; vì
thiếu phương tiện và khả năng chuyên môn nên chỉ hoằng pháp lợi sinh bằng
phương tiện nội điển, mà không đi sâu vào các ngành sinh hoạt khác của
xã hội. Do đó, Đạo Phật bị thu hẹp phạm vi hoạt động và mất rất
nhiều ảnh hưởng trong đời sống đại đa số quần chúng.
Nhất là trong thế giới phức tạp
ngaỳ nay, mà lòng người bị chi phối rất nhiều vì những sinh hoạt kinh
tế, chính trị văn hóa,...nếu người hành đạo cứ giữ những lề lối
cũ, không có những phương thức hoằng pháp thich hợp với xã hội mới,
không có những kiến thức và khả năng thích hợp với các ngành hoạt động
trong xã hội, thì đạo Phật sẽ mất dần ảnh hưởng và không giữ được
vai trò lãnh đạo của mình nữa.
Những ý nghĩ trên đây không phải
là những phát minh mới mẽ gì của chúng tôi, mà chính hơn 2.500 năm trước,
đức Phật đã nghĩ đế鮠trong dạy các Đệ
tử của Ngài phải học Ngũ minh, nếu muốn truyền giáo cho có hiệu quả.
Vậy Ngũ minh là gì và có tầm quan
trọng thế nào? Đó chính là vấn đề mà chúng ta sẽ đề cập dưới đây:
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. ĐỊNH NGHĨA NGŨ MINH
Ngũ minh là gì? Ngũ minh là năm
kiến thức người hoằng pháp cần phải có, phải hiểu biết.
Những kiến thức ấy là những kiến
thúc nào? Đó là những kiến thức về nôi minh, nhân minh, thanh minh, công xảo
minh và y phương minh.
- II. GIẢI RÕ VỀ NGŨ MINH
- 1. Nội minh
Trước tiên, người hoằng pháp
phải cần có Nội minh, nghĩa là phải có kiến thức về nột điển Phật
giáo.
Muốn hoằng pháp, nghĩa là muốn
đem giáo pháp truyền bá trong quần chúng để mọi người đeù hưởng sự
lợi ích, thì trước tiên mình phải tự tìm hiểu giáo lý của đạo Phật
cả. Chúng ta đã biết rằng không hiểu giáo lý, thì không ai có thể thực
hành đúng theo Phật pháp được.Những tình trạng lộn xộn, mê tín, lố
lăng của Đạo Phật Việt Nam, sở dĩ có ra cũng vì người hành đạo thiếu
sự am tường giáo lý nội điển. Vì không biết rõ nội điển cho nên
không biết chủ trương chân chính của đạo Phật. Do đó, người ta mới
đi sâu vào những hành động sai lầm: vàng mã, đồng bóng, cúng sao cúng hạn,
dời mả, giết hại sing vật để tế Thần tế Thánh, cúng kiến ông bà.
Muốn cho tình trạng ấy chấm dứt,
người hoằng pháp phải tự mình thông hiểu giáo điển và truyền bá
giáo lý cho tất cả tín đồ. Bao giờ cúng nên nhớ rằng đạo Phật chủ
trương hiểu rồi mới làm, mà không hiểu tức là bị lạc đường lầm nẻo.
Đứng ra hướng dẫn tín đồ mà chưa hiểu được nôi giáo, là một chuyện
nguy hiểm vô chừng. Không ai có thể tha thứ được cái thái độ "nhứt
manh dẫn quần manh" ấy.
Tăng giới phải là bực thông hiểu
giáo lý đã dành. Các bậc cư sĩ đứng ra làm Phật sự, điều khiển những
tổ chức Phật học cũng không thể không hiểu giáo lý. Một tệ đoan mà
chúng ta thấy cần pahỉ sửa chữa gấp là phải làm thế nào cho những phần
tử trong bộ máy của các tổ chức Phật học phải là những người có học
đạo.
Chúng ta không thể nào không lo sợ
khi thấy những người thiếu học Phật, đứng giữ địa vị tỏ chức và
điều kiện trong một Hội Phật học hay một cơ quan giáo dục như gia đình
Phật tử chẳng hạn.
Cho nên người có hoằng pháp có bổ
phận phải am tường nội điển. Phải tìm hiểu giáo lý hàm chứa trong ba
tạng: Kinh, Luật, Luận. Giáo lý cao siêu trong ba tạng phân làm ba hệ thống
rõ ràng:
a) Hệ thống Bát nhã: Giáo lý chân
không chủ trương rằng vạn pháp là không thực, để hiển lý tánh chân
không.
b) Hệ thống Pháp tướng: Giáo lý
Duy thức chủ trương vạn pháp không thực tánh và có là do thức biến hiện
ra ngàn sai muôn khác.
c) Hệ thống Pháp tánh: Giáo lý
pháp tánh là dẫn tướng qui tánh, chủ trương đạt đến chơn như, các
pháp đều do chơn như duyên khởi mà có.
Về mỗi hệ thống giáo lý, có vô
số pháp môn để chúng sinh thực hành và đạt đến quả vị giác ngộ.
Người hoằng pháp cần thông hiểu các hệ thống giáo lý và các pháp môn
phương tiện để có thể xem ra ứng tiếp với xã hội cho hợp tời và hợp
cơ. Tóm lại, sự hiểu biết về nội điển là điều quan hệ vào bậ⣠nhất.
2. Nhân minh
Am tường giáo lý chưa đủ. Muốn
trình bày giáo lý ấy một cách rỏ ràng, khúc chiết, muốn lập thuyết vững
vàng, người hoằng pháp cần phải dựa trên một phương pháp luận lý; phương
pháp luận lý ấy gọi là nhân minh.
Nhân minh là gì? Là một môn luận
lý học của Phật Giáo, chủ trương chứng minh lập thuyết bằng "Nhân",
nghĩa là bằng cách suy cứu đến lý do.
Bộ sách vĩ đại làm căn bản cho
Nhân minh học là Nhân minh đai sớ. Ở đây, chúng ta tìm hiểu qua đại
cương để hiểu thế nào là Nhân minh mà thôi.
Một lập luânk đầy đủ theo Nhân
minh phải có ba phần: TÔN, NHÂN, DỤ, gọi là tam chi tác pháp. Tôn là chủ
trương của mình. Nhân là lý do thành lập chủ trương ấy. Dụ là những
sự kiện đem ra để chứng minh (có thuận và nghịch). Ví dụ:
Tôn: Ông Nguyễn Văn A phải
chết.
Nhân: Vì ông Nguyễn Văn A đã
có kúc bị sanh ra.
Dụ: Phàm cái gì đó sinh tất
phải có chết, như Không Tử, Trần Trọng Kim v.v...(đông dụ). Trái lại,
phàm cái gì không có sanh tất không có chết, như hư không (dị dụ) v.v..
Đồng dụ là những thí dụ đồng
loại (có sinh có diệt). Di dụ là những thí dụ khác loại (không sinh thì
không chết).
Ta thêm một ví dụ khác:
Tôn: Trò B sẽ bị phạt
Nhân: Vì trò B học bài không
thuộc.
Dụ: Phàm, ai không thuộc bài
thì đều bị phạt cả, như trò C, trò ĐƯỢC (đồng dụ). Phàm, ai thuộc
bài thì đều không bị phạt như trò Mít, trò Ổi.
Ta nhận thấy môn luận lý nhân
minh có hơi giống với luận lý học hình thức (syllogisme) của phương tây,
và lại đầy đủ tinh vi hơn luận lý học này, vì nó có đủ tính cách
diễn dịch và qui nạp.
Ba phần chính của môn luận thức
nhân minh, phải có liên lạc mật thiết với nhau. Nhân bao giờ cũng quan hệ
đến Tôn, phải triệt để có tính cách của đồng dụvà tuyệt đối không
có tính cách của di dụ. Còn dụ bao giờ cũng phải dính líu đến Tôn và
Nhân. Mỗi phần Tôn, Nhân, Dụ muốn đứng vững được, cần phải tránh
nhiều lỗi. (Xem quyển PHPT khóa IX).
Học nhân minh có mục đích là biết
phán đoán chân ngụy, thuyết phục ngoại đạo và đọc được các bộ luận
về pháp tướng học, bởi vì các Tổ ngày xưa theo lối lập luận này
trong khi viết các bộ luận kia.
3. Thanh minh
Đây là môn học về ngữ môn văn
tự, về âm thanh và về văn học. Sự truyền giáo cũng đã rất cần đến
môn học này. Xưa các vị Tổ sư muốn đem giáo pháp truyền bá ở các nước,
đã phải thông hiểu về các thứ sinh ngữ,đã phải có tài phiên dịch
và trước tác. Nhiều bộ sách đạo lý lưu truyền đến tận nay mà cũng
phải nhận là có những giọng văn sáng sủa lưu loát, chính là nhờ ở căn
bản về thanh minh rất rộng rãi vậy.
Trong Phật giáo, chỉ có Thiền
tông chủ trương không chú trọng mấy về văn tự. Các tôn phái khác đều
cần đến thanh minh; Người tu học cần phải có kiến thức về văn học
mới có thể học hiểu giáo lý tu tập; nn môn học này. Xưa các vị Tổ sư
muốn đem giáo pháp truyền bá ở các nước, đã phải thông hiểu về các
thứ sinh ngữ,đã phải có tài phiên dịch và trước tác. Nhiều bộ sách
đạo lý lưu truyền đến tận nay mà cũng phải nhận là có những giọng
văn sáng sủa lưu loát, chính là nhờ ở căn bản về thanh minh rất rộng
rãi vậy.
Trong Phật giáo, chỉ có Thiền
tông chủ trương không chú trọng mấy về văn tự. Các tôn phái khác đều
cần đến thanh minh; Người tu học cần phải có kiến thức về văn học
mới có thể học hiểu giáo lý tu tập; người truyền giáo phải có kiến
thức về văn học để phiên dịch, trước tác với các nước Phật Giáo
trên hoàn cầu.
Hiện nay, người Phật tử Việt
Nam rất cần đến thanh minh: Phật Giáo Việt Nam đang đòi hỏi một kho
kinh điển bằng tiếng Việt làm tài liệu học tập và truyền bá. Như thế
các nhà hữu tâm của Phật Giáo phải lưu ý đến việc học tập văn
chương và ngoại ngữ để có thể kiến thiết một nền Phật học bằng
quốc văn.
4. Công xảo minh
Đây là môn học về công nghệ và
kỹ thuật:
Trong công cuộc hành đạo, người
tín đồ của Phật Giáo nhận thấy cần có đủ điều kiện kinh tế, mới
có thể lập ra những cơ quan tu học cho Tăng giới, cho cư sĩ, mới có thể
thành được những tổ chức cứu tế, giúp đỡ cho người nghèo đói tật
nguyền, thể hiện lòng từ bi bác ái. Công nghệ và kỹ thuật mỗi ngày mỗi
thêm tiến bộ, người Phật tử cần phải học tập để óc những phương
tiện hành đạo rộng rãi trong phạm vi xã hôi nhân sinh.
Công nghệ và kỹ thuật, nếu chỉ
là lợi khí cho sự kinh doanh vụ lợi ích kỷ, thì không đáng cho ta phải
bận tâm. Công nghệ và kỹ thuật ấy tiến bộ chừng nào, thì gây đau khổ
cho loài người chừng ấy, bởi vì chúng sẽ biến ra lợi khí tranh giành,
cướp đoạt và bóc lột. Kỹ thuật tiến bộ của máy móc, của bom đạn
đã là một sự đe dọa ghê ghớm.
Người Phật tử học lấy công nghệ
và kỹ thuật rồi đem công nghệ và kỹ thuật phụng sự nhân loại, thể
theo lòng vị tha và bác ái muốn cho muốn loài có hạnh phúc chân thực,
tránh những tai hạo do dục vọng gây nên.
5. Y phương minh
Đây là môn học về các phương pháp
chữa bệnh. Các đức Phật là những nàh lương y, trị cả tâm bệnh và cả
thân bệnh cho chúng sinh, đức Dược Sư Lưu Ly là một gướng sáng. Thế
gian này đầy dẫy những bệnh nhân đau khổ về vật chất lẫn tinh thần.
Những phương thuốc chữa bệnh tinh thần đã đành rằng rất cần thiết,
nhưng những phương thuốc chữa bệnh về vật chất cũng không phải là
không quan trọng. Người Phật tử nếu có được những thời giờ rảnh
rang nên học chuyên môn về thuốc, để có thực hành một công tác xã hội
rất thích hợp với lòng từ bi: đó là sự chữa bệnh. Các bác sic các lương
y, nếu là Phật tử thì đã có trong tay một phương tiện hành đạo rất
quan trọng. Đem sự an ủi đến cho người bệnh, nâng đỡ họ trong cơn
ốm đau, cử chỉ đó thực có thể tiêu biểu được một phần nào tinh
thần cứu thế tích cực của đạo Phật.
Chúng ta hy vọng rằng sau này Phật
Giáo sẽ có được những bệnh viện do Phật tử chăm Ngài on, và mỗi một
gnôi chùa địa phương, có thể có một cơ quan cấp cứu tương trợ cho đồng
bào trong những lúc nguy biến ngặt nghèo.
C. KẾT LUẬN
Trong thời đại hiện tại, xã hội
đòi hỏi một phương thức hoằng pháp rộng rãi hơn. Chúng ta không có thể
áp dụng những phương tiện nhỏ hẹp, mà cần phải mở rộng phàm vi của
hoằng pháp theo Đại Thừa Phật Giáo; người Phật tử cần phải y lời
Phật dạy học Ngũ minh và mỗi người sẽ là một chiến sĩ từ thiện xã
hội, lo xây đắp cho nền Phật giáo tương lai hưng thịnh và thực hiện
được bảo cứu tế to rộng của đức Bổn sư.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/043-tth-nguminh.htm