- Phật giáo, đạo Giác ngộ
- HT Thích Trí Quảng
Phật giáo có phải là một tôn giáo không? Có rất nhiều
câu trả lời khẳng định cũng như phủ định, nhưng tựu trung, đó vẫn
là một vấn đề khó khăn đối với các học giả nghiên cứu Phật giáo.
Khi Đức Phật tại thế, trong 5 năm tìm đạo, Ngài quan
sát thấy các tôn giáo đương thời bày ra nhiều phương cách tu có tính
cách mê tín, huyễn hoặc như tự hành hạ thân xác hay chủ trương hưởng
thụ khoái lạc cùng cực, hoặc giết hại súc vật v.v... để cúng tế, cầu
khẩn Thượng đế che chở, ban phước, và sau khi chết, mong được trở về
làm con dân phục vụ cho Thượng đế.
Tất cả hiểu biết và hành xử sai lầm của hàng ngoại
đạo bấy giờ là một đề tài lớn cho Đức Phật suy gẫm. Ngài suy tư
đến cao độ, gọi là nhập thiền định, thấy được đáp số của vấn
đề sanh tử, hiện hữu, chuyển biến đổi thay của muôn loài trong vũ trụ.
Nói khác, Đức Phật đắc đạo, đạt đến đỉnh cao giác ngộ, thấy biết
muôn sự muôn vật đúng như thật.
Từ đó, Ngài bắt đầu giáo hóa độ sanh, dạy người tu
tập thiền quán để đạt hiểu biết đúng đắn, sống tự tại, an vui
trong hiện đời và trong kiếp tương lai. ng dụng lời Phật dạy, phần lớn
đệ tử Ngài đắc A La Hán, giải thoát được phần vật chất và thức uẩn.
Quan sát người tu ở dạng thể nghiệm lời Phật dạy
trong cuộc sống, được thành quả giác ngộ như vậy, chúng ta thấy rõ đạo
Phật chưa hề có chút biểu hiện nào của tôn giáo.
Tuy nhiên, vì có giáo chủ là Đức Thích Ca và tổ chức
giáo đoàn gồm những vị đức hạnh, vượt trội hơn các tôn giáo khác,
cũng như Ngài có truyền bá tư tưởng, người nghe theo được lợi lạc,
sanh niềm tôn kính Phật và Thánh chúng. Vì vậy, Phật giáo được coi như
một tôn giáo, mặc dù Đức Phật chưa bao giờ xác định lời Ngài dạy
là một tôn giáo cần phải tuân thủ; và cũng chưa bao giờ Phật chủ
trương thờ phụng, cúng bái Ngài hay bất cứ cái gì.
Nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt, các vị Tổ sư tiếp nối,
thể hiện những tư tưởng và việc làm cao quý trong cuộc sống. Điều này
tác động cho người tu ở thời kỳ Phật giáo phát triển hình dung ra mối
quan hệ mật thiết, vô hình giữa Phật và chư vị thừa kế. Với lòng
hoài vọng kính ngưỡng, họ bắt đầu tạc tượng Phật và Thánh chúng để
tôn thờ, lễ lạy. Khởi điểm từ đây, Phật giáo mang màu sắc tôn
giáo.
Trong thời kỳ này, các sư tụng niệm, lễ bái, cầu nguyện,
tức thể hiện hình thức tín ngưỡng giống như các tôn giáo khác. Tuy
nhiên, điều khác biệt chính yếu của Phật giáo là hành giả không hề
phó thác vận mạng cho đấng sáng tạo hay thần linh, nhưng biết kết hợp
việc cầu nguyện, lễ bái với công phu tu hành.
Thể nghiệm pháp này, tu sĩ Phật giáo Mật tông chuyên trì
chú, cầu nguyện, nhờ lực siêu nhiên tác động qua con người thực. Khi kết
hợp được với lực siêu nhiên, tức giữa hành giả và thiên nhiên hòa
nhập thành một, tạo thành lực bất tư nghì, mà Mật tông tiêu biểu bằng
đồ hình tổng thể Mạn Đà La. Mặc dù cầu nương vào lực tam mật gia
trì, nhưng hành giả Mật tông cũng phải tự tịnh hóa bản thân, đạt đến
chứng đắc vô ngã vị tha, mới có thể sử dụng được toàn lực của tổng
thể Mạn Đà La. Thực tế cho thấy các tu sĩ Mật tông ở Tây Tạng thành
tựu pháp, tạo được khả năng vượt hơn con người bình thường như đi
trong hư không, đi trên nước dễ như đi trên đất liền hoặc nằm trên
tuyết vẫn khỏe mạnh v.v... Đó là sự phát triển của Phật giáo Mật
tông thể hiện rõ nét tính thần bí của tôn giáo.
Bên cạnh sự phát triển pháp tu mang đậm màu sắc thần
bí của Mật tông, lại nảy sanh ý tưởng của những người kém cỏi hơn,
không có khả năng kết hợp lực cá nhân và tổng thể. Họ cảm thấy
thân phận bé nhỏ, cần nương tựa vào một lực khác để tồn tại,
thăng hoa. Từ đó, hình thành pháp môn Tịnh độ, hành giả hướng tâm cầu
nguyện Đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương Cực lạc, cũng cảm
nhận an lành, quên đi oi bức của cuộc đời. Tất nhiên, gá tâm đến thế
giới khác để cầu nguyện như vậy đã đi khá xa giáo lý chính thống của
Đức Phật.
Khi tư tưởng của Tịnh độ tông không được chấp nhận
nữa, chúng ta thấy phát sanh chủ trương quan sát ngược lại thời nguyên
thủy, xem Đức Phật làm gì. Hiển nhiên, ai cũng biết Đức Phật do tu tập
thiền định, khai mở tâm trí, thấy rõ chân lý và sử dụng phương tiện
đưa người đến chân lý một cách toàn bích. Nhận thức sâu sắc điều
đó dẫn đến sự ra đời của tông phái Thiền.
Thiền tông không trì chú hay sử dụng lực siêu nhiên như
Mật tông và cũng không cầu tha lực như Tịnh độ tông. Hành giả cố
tìm lại thời Phật tại thế tu tập và hành đạo như thế nào, đạt kết
quả ra sao, để rồi suy tư và ứng dụng giáo lý nguyên thủy vào cuộc sống,
ngõ hầu minh tâm, kiến tánh, trở thành thánh thiện, minh triết ngay trên
cuộc đời này. Trên nền tảng ấy, hành giả không quan tâm đến cúng
kính, lễ bái, nhưng đặt nặng vấn đề tham khảo công án hay thể nghiệm
cuộc sống như Phật.
Tóm lại, kết hợp ba dạng thức tu của Mật tông, Tịnh
độ tông và Thiền tông, chúng ta thấy được Thường Tịch Quang chơn cảnh.
Nói khác, chúng ta hành thiền, lắng yên suy nghĩ xem thế giới mầu nhiệm
Tịnh độ như thế nào, thế giới do lực siêu nhiên tác động như thế nào,
và mang đối chiếu với cuộc sống của Phật cùng Thánh chúng để tự vạch
cho mình cách hành xử trên lộ trình tu Bồ Tát đạo. Dần dần, chúng ta cũng
đắc đạo, nhận ra được chân lý mà Phật và Thánh chúng đã chứng ngộ.
Trên bước đường tu, đối với chúng ta, Thường Tịch
Quang chơn cảnh là thế giới quan lý tưởng với hiện hữu của Phật, Bồ
Tát và Thánh chúng. Vì vậy, chúng ta không bao giờ rời bỏ thế giới đó.
Làm thế nào để trực nhận bản tâm thanh tịnh của chính mình và hài
hòa được với thế giới lý tưởng ấy, để trở lại thực tế hàng phục
được mọi chướng ngại của thế giới Ta bà, khai tri kiến Phật cho
chúng hữu tình ngay trên cuộc đời này.
Phật giáo là tôn giáo hay không phải là tôn giáo, thiết
nghĩ chẳng có gì quan trọng. Làm sống dậy hình ảnh cao quý của Đức Từ
Tôn, thể hiện cuộc sống thánh thiện như Ngài, mang tình thương, hiểu biết,
an lạc, giải thoát cho mọi loài. Đó mới chính là những gì Đức Phật
truyền trao cho hàng đệ tử và là chất liệu vô giá nối kết mạng mạch
Phật giáo trường tồn hơn 25 thế kỷ./.
-oOo-