- Thuyết Nghiệp của Phật giáo
- Minh Chi
Mỗi cá nhân đều tin rằng mình là chủ nhân cuộc sống của
mình, mỗi cá nhân đều thấy mình có trách nhiệm đầy đủ về mọi hành
vi của mình, lời nói và ý nghĩ hàng ngày, hàng giờ, phút của mình. Mọi
người đều tin sống thiện là sống hạnh phúc ngay trong hiện tại, và cả
sau này. Và sống ác là sống đau khổ và bất hạnh, ngay trong hiện tại
và cả về sau nữa. Do đó mà không ai bảo ai, mọi người đều lo làm điều
thiện, sống thiện, không những không làm hại ai, mà còn sẵn sàng giúp
người. Giúp người là giúp mình, hại người là hại mình. Đó là bài học
thiết thực và đơn giản của thuyết nghiệp. Với thuyết nghiệp được
phổ biến và áp dụng rộng rãi, đạo đức xã hội sẽ có bước cải
thiện đáng kể, tệ mê tín dị đoan giảm bớt, số tiền trước đây
dành cho các chuyện cúng sao, giải oan, giải nghiệp, giải hạn sẽ được
đem bố thí cho kẻ nghèo đói, đem giúp cho quỹ xóa đói giảm nghèo. Thuyết
nghiệp của đạo Phật tạo ra một xã hội, trong đó, người người làm
thiện, nói thiện và nghĩ thiện. Các tệ nạn xã hội sẽ dần dần bị
loại trừ. Mọi người sẽ được sống yên ổn và hạnh phúc.
1)- Định nghĩa nghiệp
Sách Phật định nghĩa nghiệp là hành động có dụng tâm.
Đạo Phật có một quan niệm rộng về hành động. Hành động ở nơi thân,
thường được gọi là việc làm, và một việc làm có dụng tâm được gọi
là thân nghiệp. Nhân ngày Tết, chúng ta tổ chức phóng sanh, với lòng thương
yêu loài vật, thì đó là một thân nghiệp lành. Lời nói có dụng tâm
thì gọi là khẩu nghiệp. Người bình thường hay nói: "Lời nói rồi
bay mất". Câu ấy không đúng. Mọi lời nói ác, khi có đủ nhân duyên
và đúng thời gian đều sẽ đem lại quả báo xấu cho người nói. Lời
nói thiện lành cũng có tác dụng như vậy, theo hướng thiện lành. Thí dụ,
tôi không có tiền. Nhưng gặp người nghèo đói, bất hạnh, tôi có lời
an ủi, thông cảm. Lời an ủi đó, bắt nguồn từ tình thương chân thật
là một nghiệp miệng lành, tương lai sẽ đem lại cho tôi quả báo lành.
Có dụng tâm thiện hay ác là ý nghiệp, mặc dù ý nghĩ đó chưa thành lời
nói hay hành động. Một người tuy cả ngày ngồi nhà, nhưng đầu óc anh
ta luôn bày mưu tính kế làm giàu bằng những thủ đoạn như buôn gian,
bán lận, đút lót cán bộ v.v... thì những mưu gian, kế độc của anh ta,
tuy chưa đem ra thi hành, nhưng cũng đều là những ý nghiệp xấu, tương
lai sẽ mang lại quả báo xấu cho anh ta.
Tuy nhiên, mọi hành động, dù là thân làm, miệng nói, hay
ý suy nghĩ, không phải là nghiệp tất cả, mà chỉ có những hành động có
dụng tâm hay dụng ý mới gọi là nghiệp.
Những điều nói trên đây đưa tới hai kết luận quan trọng:
thứ nhất, chúng ta hàng giờ, hàng phút có thể tạo nghiệp mà không biết,
bởi vì, chỉ trừ khi chúng ta ngủ, còn thì chúng ta thường xuyên hoạt động,
nói năng và suy nghĩ ; và mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm , cử chỉ,
hành động của chúng ta đều có thể tạo nghiệp, làm thay đổi cuộc sống
của chúng ta hiện nay và mai sau. Kết luận quan trọng thứ hai là một nghiệp
thiện hay ác, lành hay dữ, nặng hay nhẹ, đều do ở chỗ dụng tâm.
Dụng tâm thiện đưa tới quả báo thiện, dụng tâm ác
đưa tới quả báo đau khổ. Cũng như người trồng dưa thì sẽ có cây dưa
và quả dưa để ăn. Không thể trồng dưa mà lại mọc ra cây đậu. Tất
nhiên, trồng dưa vẫn có thể không có dưa ăn, nếu không biết trồng. Hơn
nữa, dù cho có biết trồng thì cũng phải có thời gian nhất định, cây dưa
mới mọc và lớn lên và cho quả. Tạo nghiệp ác hay nghiệp thiện cũng
như vậy, nghĩa là phải có đủ nhân duyên và thời gian thích hợp thì mới
có quả báo thiện hay ác. Có người tuy hiện nay tạo ra nhiều nghiệp ác,
nhưng vẫn sống sung sướng trong hoàn cảnh giàu sang, là vì người ấy
trong một kiếp trước đã tạo ra nhiều nghiệp thiện, đến đời này vừa
đúng thời gian lại có điều kiện thích hợp cho nên được quả báo
lành, được hưởng giàu sang phú quý. Còn những nghiệp ác anh ta tạo ra
trong đời sống hiện tại, thì chưa đến thời gian chín muồi, lại chưa
có nhân duyên thích hợp, cho nên quả báo ác chưa đến (chứ không phải
không đến !).
Hơn nữa, chúng ta cần phân biệt thân thọ nghiệp, tức
là nghiệp mà thân cảm thọ, với tâm thọ nghiệp, là nghiệp mà tâm cảm
thọ. Một người đã làm điều ác, thì tâm thọ nghiệp bao giờ cũng khổ,
anh ta ray rứt không yên. Hay là, trong khi làm điều ác, anh ta có thể thản
nhiên, nhưng sau đó, nhất là về đêm, anh ta sẽ hối hận, bức xúc,
không ngủ được.
Ngược lại, có người hiện nay có nếp sống rất thiện
lành, nhưng đời sống lại nghèo khổ, cơ cực, lại thường gặp nhiều rủi
ro, bất hạnh. Đó là do những nghiệp ác mà người ấy làm trong một đời
sống trước, đến đời này đã chín muồi, lại gặp nhân duyên đầy đủ,
cho nên quả báo đau khổ hiện tiền, không thể tránh được. Nhưng vì anh
ta có duyên lành được nghe giảng Phật pháp, hiểu được thuyết nghiệp,
cho nên quyết tâm bỏ mọi điều ác, làm mọi điều lành. Người đó tuy
sống nghèo khổ, có thể gặp phải nhiều điều bất hạnh ở đời này,
do nghiệp ác đã làm trong đời trước nay đã chín muồi, nhưng do hiện tại
anh thường xuyên làm điều thiện, cho nên trong tâm vẫn được an vui... Nói
tóm lại, nếu đứng về tâm thọ nghiệp thì có thể nói là quả báo xảy
ra tức thời, như bóng theo hình, hay là như bánh xe lăn theo chân con bò, đúng
như trong kinh Pháp Cú, bài kệ I và II viết:
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo"
- "Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình"
- (Kinh Pháp Cú, bản dịch Th. Minh Châu, tr. 11 và 12)
Hai bài kệ trên còn cho thấy vai trò làm chủ của ý, tức
là của dụng tâm đối với thân nghiệp và khẩu nghiệp, tức là nghiệp
nơi thân (thân nghiệp) và nghiệp nơi lời nói (khẩu nghiệp). Cũng do vậy
mà đạo Phật luôn luôn nhấn mạnh trong thuyết nghiệp là dụng tâm, chế
ngự tâm, làm sao cho tâm mình luôn luôn nghĩ thiện, nghĩ lành, tâm luôn
luôn được thanh tịnh, trong sáng thì tự khắc mọi nghiệp nơi thân và lời
nói cũng sẽ tự khắc trong sáng và thanh tịnh, đời này và đời sau sẽ
được an lạc, hạnh phúc. Không có hành động nhỏ, tầm thường; chỉ có
dụng tâm nhỏ, tầm thường
Khi thuyết nghiệp của đạo Phật nhấn mạnh ý nghĩa quyết
định của dụng tâm, nó còn cảnh tỉnh chúng ta không nên xem thường những
hành động nhỏ nhặt. Vì những hành động nhỏ nhặt và bình thường đó
có thể đem lại những hậu quả rất lớn, tích cực hay tiêu cực, thiện
hay ác. "Một đốm lửa có thể đốt cháy cả cánh đồng", câu
nói này trong dân gian rất đáng suy ngẫm, nếu chúng ta muốn tiến bộ tâm
linh và đến gần đích giác ngộ và giải thoát tối hậu.
Thế gian là vô thường, biến đổi trong từng giây phút.
Ai có chú ý quan sát đều có thể cảm nhận tánh vô thường đó. Yếu tố
quyết định sự thay đổi chính là hành vi của từng cá nhân con người và
cộng đồng loài người. Và, nội dung chính của hành vi là cái dụng tâm
của chúng ta. Đạo Phật cho rằng không có kẻ thù nào hại mình hơn là
cái tâm nghĩ bậy làm hại mình. Cũng không có người nào giúp ích được
mình hơn là cái tâm của mình nghĩ thiện, nghĩ lành. Vì vậy mà kinh Phật
khuyên phải luôn chánh niệm tỉnh giác. Hai bài kệ 42 và 43 của kinh Pháp
Cú viết như sau:
"Kẻ thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà
Gây ác cho tự thân"
- "Điều mẹ cha, bà con
Không có thể làm được
Tâm hướng chánh làm được
Làm được còn tốt hơn"
- (Kinh Pháp Cú, bản dịch Th. Minh Châu, tr. 32-33)
Trong đạo Phật, Bồ Tát tiêu biểu cho những người phát
tâm rộng lớn, thường được gọi là vô lượng tâm. Sách Phật thường
nói tới Bốn tâm vô lượng là từ, bi, hỷ, xả. Kinh Từ Bi định nghĩa lòng
từ vô lượng như là lòng thương của người mẹ đối với đứa con một
của mình. Lòng bi vô lượng là lòng thông cảm sâu sắc với nỗi khổ của
tất cả mọi loài. Lòng hỷ vô lượng là lòng sẵn sàng chia sẻ niềm vui
với tất cả mọi loài. Và cuối cùng, lòng xả vô lượng là tâm của vị
Bồ Tát rộng lớn như hư không, như biển cả không còn bợn chút vị kỷ,
không còn vướng mắc dù là một chút hệ lụy thế tục, cho nên vị Bồ
Tát có thể dũng mãnh hy sinh để cứu độ tất cả chúng sanh ra khỏi biển
khổ.
Vì có dụng tâm lớn như vậy, cho nên việc làm của vị Bồ
Tát thật khó mà đánh giá được theo bậc thang giá trị bình thường. Công
đức của họ là vô lượng vô biên. Vì họ làm bất cứ công việc gì,
nhỏ cũng như lớn, với Bốn tâm vô lượng như vậy, cho nên công đức của
họ cũng là vô lượng.
Chúng ta có thể có một khái niệm về tâm vô lượng của
Bồ Tát, qua bốn lời nguyện:
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành"
Một truyền thống rất đẹp và cũng rất có ích về mặt
giáo dục nhân cách của Tăng chúng Phật giáo trong các chùa, tu viện là
làm bất cứ việc gì cũng đề cao ý nghĩa biểu trưng của việc đó đối
với sự nghiệp độ thoát chúng sanh, tẩy sạch mọi phiền nào, thành tựu
đạo giải thoát và giác ngộ vô thượng, cả những việc hàng ngày như
quét sân, bửa củi, phóng uế v.v..., họ cũng nghĩ tới sự nghiệp độ
sanh, nhiệm vụ giữ gìn tâm mình luôn luôn trong sạch, thanh tịnh v.v...
Thực ra, sự phân biệt giữa tâm thọ nghiệp và thân thọ
nghiệp rất là tương đối. Khi chúng ta nhìn một người ở nhà lầu, đi
ô-tô, có một địa vị xã hội cao thì chúng ta nói người ấy có một
thân thọ nghiệp sung sướng, để phân biệt với một loại cảm thọ
khác mà cũng người ấy đang chịu đựng. thí dụ, anh ta có một người vợ
ngoại tình, không chung thủy, có một đứa con trai lêu lổng, không chịu học
hành, một đứa con gái mất nết, bị bệnh AIDS v.v..., và chúng ta nói, anh
ta đang có một tâm thọ nghiệp khổ sở, vì những chuyện gia đình bất hạnh.
Chúng ta hãy đi sâu thêm một bước nữa và hỏi: Với một tâm trạng đau
khổ như vậy, con người này có cảm thấy sung sướng được ở nhà lầu,
đi ô-tô và có địa vị xã hội cao hay không? Chắc chắn là không. Chỉ
nhìn bộ mặt thiểu não của ông ngồi trên ô-tô thì biết ngay.
Trên thực tế, tâm dao động hay ức chế thì sẽ không có
cảm thọ gì hết. Đúng như Khổng Tử nói: "Tâm bất tại yên, thị
nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị" (Tâm mà
không hiện hữu, thì nhìn mà không thấy, nghe mà không biết, ăn mà không
biết mùi vị).
Nói tâm không hiện hữu cũng như nói "tâm nghĩ đâu đâu".
Chúng ta một lần nữa, trở về với một chân lý của đạo
Phật: Ở trong con người tâm là cái quyết định, cái làm chủ. Hãy tu tập
tâm để cho tâm bao giờ cũng trong sáng, thuần thiện, không nhỏ nhen vị kỷ,
mà có tình thương rộng rãi đối với mọi người, mọi loài. Tự khắc,
mọi nghiệp chúng ta tạo ra đều thiện lành, và chúng ta sẽ có một đời
này và đời sau hạnh phúc.
2)- Nghiệp của người sắp
chết: một vấn đề phức tạp
Trên đây đã trình bày thuyết nghiệp của Phật giáo trên
những nét đại cương. Một thuyết dễ được chấp nhận, vì nó công bằng,
và đề cao trách nhiệm của con người đối với cuộc sống, của bản thân
cũng như đối với cuộc sống xã hội. Cuộc sống đó hạnh phúc hay bất
hạnh không phải là do thần thánh xếp đặt, mà là do tự bản thân chúng
ta. Cuộc sống xã hội cũng vậy, nó do nỗ lực tập thể của cộng đồng
người trong xã hội đó quyết định, chứ không phải do thần thánh nào
an bài.
Tuy nhiên, trong thuyết nghiệp cũng có một vài vấn đề phức
tạp, cần làm sáng tỏ. Thí dụ, vấn đề nghiệp của người khi lâm
chung.
Theo thuyết nghiệp của đạo Phật, tâm trạng của người
sắp chết có ảnh hưởng rất lớn đến hướng tái sanh của người đó
ở kiếp sau. Nếu đó là tâm trạng thiện lành, vui vẻ, tỉnh táo thì có
thể đoan chắc người đó sẽ được tái sanh vào các cõi lành, cõi sung sướng,
tức là cõi người và cõi trời. Trái lại, nếu người đó bị hôn mê, vật
vã, la hét như là cảnh khổ đang hiện tiền, thì có thể đoan chắc người
đó sẽ tái sanh vào các cõi khổ, như địa ngục, quỷ đói và súc sanh.
Cuộc sống của chúng ta như thế nào, thì chúng ta sẽ có một cái chết
và một đời sống kiếp sau tương xứng với cuộc sống đó. Người sống
với lòng tốt, có đạo đức, với tâm hồn luôn trong sáng và bình thản,
thì sẽ được hưởng một cái chết tỉnh táo, nhẹ nhàng, như lá rụng
mùa Thu, và một đời sống kiếp sau an lạc, sung sướng. Đó là một quy
luật hết sức công bằng và hợp lý.
Vì vậy, cái được gọi là nghiệp gần chết (sách Hán gọi
là cận tử nghiệp) thực ra là kết quả hợp thành của tất cả các nghiệp
mà con người đó đã tạo ra trong cả một đời. Đây không phải là một
vấn đề lý thuyết, mà là một vấn đề rất thực tiễn. Mọi người sắp
chết đều nhớ lại, thấy lại mọi nghiệp thiện hay ác mà mình đã tạo
ra trong suốt cuộc đời, kể cả những ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực,
mà những nghiệp đó đã gây ra cho những người khác. Nếu đa số những
nghiệp đó là thiện, thì tâm trạng của người sắp chết sẽ an vui. Anh
ta sẽ chết một cách thanh thản, đời sống kiếp sau của anh ta sẽ được
sung sướng. Trái lại, nếu sống nghiệp ác nhiều hơn sống nghiệp thiện,
nhất là có những nghiệp ác lớn, nặng nề thì anh ta sẽ cảm thấy đau
khổ, hối hận, ray rứt trong tâm. Anh ta có một cái chết bức xúc, vật
vã, đời sống kiếp sau của anh ta sẽ bất hạnh. Thậm chí, anh ta có thể
bị mất thân phận làm người, sẽ phải đọa xuống những cõi sống cực
khổ hơn cõi người rất nhiều.
Tác dụng của việc tổ chức
hộ niệm cho người sắp chết
Có người tin rằng nếu mời chư Tăng tụng kinh hộ niệm
cho người sắp chết, thì sẽ giúp cho người chết tái sanh vào cõi lành.
Niềm tin đó có đúng hay không?
Hộ niệm là tụng niệm để gia hộ hay hỗ trợ. Vai trò
quyết định vẫn là nghiệp của người đương sự, người sắp chết. Nếu
nghiệp của người sắp chết nặng như tảng đá, thì dù có đông đảo
chư Tăng hộ niệm, người đó cũng không thể tránh phải đọa vào các
cõi ác, cũng như tảng đá nặng không thể nổi lên được, mà phải
chìm. Trái lại, một người sống thiện, nghĩ thiện, nói và làm đều thiện
lành, thì dù có bao nhiêu kẻ thù lập đàn cầu đảo cho anh ta phải xuống
địa ngục, anh ta cũng vẫn được sanh vào cõi lành, cũng như một chiếc
ghe chứa đầy bơ sữa, dù ai muốn nhận chìm cũng không được.
Nói tóm lại, chúng ta phải chuẩn bị cái chết của chúng
ta, ngay khi chúng ta còn sống khỏe mạnh, còn đầy đủ tinh thần tỉnh táo.
Chúng ta chuẩn bị bằng cách ngày ngày tạo ra các nghiệp lành nơi ý nghĩ,
lời nói và việc làm, bằng cách tu tập tâm, khiến cho tâm bao giờ cũng
trong sáng, thuần thiện. Sống như vậy thì chết sẽ thanh thản, an vui, đời
sống kiếp sau sẽ hạnh phúc, sung sướng, không còn phải lo âu sợ hãi
gì nữa.
- 3)- Kết luận: Tầm quan trọng lớn lao
- của thuyết nghiệp đối với cá nhân
và xã hội
Thuyết nghiệp, nếu được giảng giải rõ, phân tích kỹ
và phổ biến rộng rãi thì sẽ có tác dụng to lớn cải thiện cuộc sống
đạo đức của cá nhân và xã hội.
Mỗi cá nhân đều có ý thức đầy đủ trách nhiệm của
mình đối với mỗi hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình. Mỗi cá nhân đều
lo lắng làm sao cho mỗi hành động của mình, mỗi lời nói và ý nghĩ của
mình đều thiện lành, có ích đối với bản thân, đối với người khác
và đối với toàn xã hội. Mỗi cá nhân đều có nhận thức sâu sắc gây
thiệt hại cho người, cho xã hội tức là gây thiệt hại cho bản thân
mình trước, và giúp đỡ người tức là giúp đỡ mình. Nhờ có nhận thức
đúng đắn về thuyết nghiệp, cho nên mọi người đều sống lạc quan, không
còn lo âu sợ hãi, cũng không cần mất tiền và mất thời giờ đi xem tướng,
xem bói, không nhờ thầy cúng sao hay là xem nhà, xem đất v.v... Chính phủ
không cần hô hào bài trừ mê tín dị đoan, mà mọi biểu hiện mê tín dị
đoan sẽ dần dần bị loại trừ ra khỏi xã hội, nếu thuyết nghiệp được
phổ biến rộng rãi.
Nhờ sống đạo đức và hay giúp đỡ mọi người, cho nên
tâm của người Phật tử hiểu thấu thuyết nghiệp bao giờ cũng yên vui,
thanh thản. Niềm vui sâu lắng đó hơn hẳn những niềm vui giả tạo do những
trò giải trí không lành mạnh đem lại, như cờ bạc, ma túy, rượu chè nhậu
nhẹt, quan hệ tình dục bừa bãi v.v... Do đó, nếu tất cả mọi người
trong xã hội đều sống như thế, thì các tệ nạn xã hội sẽ dần dần
bị loại trừ.
Sống khỏe mạnh, không bệnh tật là điều ai cũng muốn,
nhưng không phải ai cũng được khỏe mạnh, sống lâu. Có những người trông
bề ngoài khỏe mạnh, nhưng lại chết sớm. Lại có người tuy gầy yếu mà
không mang bệnh tật gì, lại sống rất thọ. Thuyết nghiệp dạy rằng,
lý do sâu xa khiến cho người ta sống mạnh khỏe, không bệnh tật và sống
thọ là do người ấy, trong một kiếp trước, biết tôn trọng sự sống của
người khác và của muôn loài, không gây thiệt hại cho sự sống của người
khác và muôn loài.
Sống ở đời, ai cũng muốn được giàu có, dư dật. Có
người làm ăn vất vả suốt ngày vẫn không đủ ăn, trái lại có người
không làm việc gì nhiều, nhưng lại không thiếu thốn một thứ gì. Thuyết
nghiệp dạy rằng người bây giờ nghèo, là do ở đời sống trước, anh
ta keo kiệt, không biết bố thí giúp đỡ người khác. Còn người sống ngày
nay giàu có, dư dật là vì ở đời sống trước, anh ta có tấm lòng tốt
thương người, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ người khác về tiền của
và cơm ăn, áo mặc. Trong một xã hội mà ai ai cũng hiểu rõ thuyết nghiệp,
họ luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Sống ở đời không ai muốn mình làm người xấu xí, mà
đều muốn làm người có dung sắc đẹp đẽ, nhất là chị em phụ nữ.
Muốn có sắc đẹp và trẻ lâu, chị em thường đi mỹ viện và tập thể
dục thẩm mỹ. Thế nhưng, điều khó khăn là có người sinh ra là đã rất
đẹp rồi, chỉ cần sửa sang thêm là có thể thành một tuyệt sắc giai
nhân. Trái lại, có người sinh ra đã có một thân hình mất cân đối, mặt
bủng da chì, và khuôn mặt xấu xí, răng vẩu, mắt xếch. Thuyết nghiệp dạy
rằng muốn có dung sắc đẹp, thì đừng có giận dữ, phải biết nhẫn nhục,
và sống hiền lành, có từ tâm.
Ở đời, ai cũng muốn có nhiều bạn bè tốt để giúp đỡ
mình, đều muốn được có nhiều người tin mình, quý trọng mình. Và cũng
có những người được như vậy thật. Họ đi đâu, làm gì cũng được
nhiều người mến chuộng ; nói gì, làm gì cũng được nhiều người tin
theo. Trái lại, cũng không ít người sống cô đơn, không bạn bè, làm gì
cũng không được người khác giúp đỡ, nói gì cũng không ai tin theo. Đó
là do một người từ đời trước cũng như đời này, biết sống trung thực,
không dối trá, sống đoàn kết với mọi người, không bao giờ gây chia rẽ.
Còn người kia thì trái lại, trong đời sống trước và cả đời này cũng
vậy, sống không trung thực, hay nói dối, lại hay gây chia rẽ v.v...
Như chúng ta thấy, nếu thuyết nghiệp của đạo Phật được
giảng giải rõ ràng và phổ biến rộng rãi trong xã hội, thì xã hội này
sẽ tốt đẹp biết bao! Từng mỗi con người sẽ có cuộc sống tốt đẹp
biết bao!
-oOo-
Phụ lục: Mười nghiệp
ác và mười nghiệp thiện
Đạo Phật phân biệt có ba nghiệp ác về thân là: 1- Sát
sanh ; 2- Lấy của không cho ; 3- Tà dâm hay là quan hệ tình dục không chính
đáng.
Ba nghiệp trên, nếu không làm, mà trái lại biết tôn trọng
sự sống của muôn loài, hay bố thí và giúp đỡ người khác, sống cuộc
sống tình cảm chân chính, trong sáng, không xâm phạm hạnh phúc gia đình
người khác ; nếu sống được như vậy tức là đã có ba nghiệp thiện về
thân.
Sách Phật phân biệt có bốn nghiệp ác về lời nói, tức
là:
1- Nói dối ; 2- Nói lời ác ; 3- Nói lời chia rẽ ; 4- Nói lời
vô nghĩa, nói không đúng thời, đúng chỗ.
Bốn điều ác trên mà không làm, trái lại đã không nói dối
mà nói lời chân thật, đã không nói ác mà nói lời dịu hiền, đã không
nói chia rẽ mà nói lời đoàn kết, đã không nói lời vô nghĩa mà nói
toàn những lời có giá trị, đúng thời và đúng chỗ, thì đó là bốn
nghiệp thiện về lời nói.
Cuối cùng, đạo Phật phân biệt có ba nghiệp ác về ý
nghĩ là: 1- Tham lam ; 2- Sân giận ; 3- Tà kiến.
Nếu ngược lại, đã không tham lại hay bố thí và giúp đỡ
người khác, đã không giận dữ lại còn biết lấy ơn báo oán, đã không
có và tuyên truyền những tà kiến, như không tin có luật nhân quả, không
tin là có các bậc Thánh đã giác ngộ và giải thoát v.v..., đã không có
tà kiến lại còn thường xuyên giảng giải, tuyên truyền về luật nhân
quả - nghiệp báo, khuyến khích mọi người bỏ ác, làm thiện, đó là mười
thiện nghiệp.
-oOo-