- Tam vô lậu học
(Giới-Định-Tuệ)
- Thích Từ Hòa và Thích Phước
Lượng
A/- Dẫn
nhập
Tam vô lậu học là môn học thù thắng
gồm có Giới-Định-Tuệ. Ba môn học này chỉ có trong giáo pháp của Đức
Phật.
Trong ý nghĩa chiết tự: lậu có
nghĩa là phiền não. Do vậy, Tam vô lậu học có ý nghĩa là ba môn học
giúp hành giả vượt khỏi sự trói buộc của mọi phiền não, hoàn toàn tự
tại. Lậu cũng có nghĩa là rơi rớt, nên Tam vô lậu học là phương tiện
giúp hành giả không còn rơi rớt trong ba cõi, tâm không còn bị ràng buộc
bởi mọi lậu hoặc.
Như vậy, Tam vô lậu học là ba
môn học đoạn trừ phiền não, chứng nhập quả vị giải thoát hoàn
toàn, không còn nằm trong sự kiềm tỏa của tam giới và không dừng lại
ở phước báo sanh thiên.
- B/- Nội dung
- I- Giới vô lậu học
1)- Định
nghĩa
Giới có những ý nghĩa như sau:
- Giới (Sila) tức là "phòng phi
chỉ ác", nghĩa là đề phòng điều trái quấy, dừng chỉ mọi điều
ác, cũng có nghĩa là "chỉ ác tác thiện" tức là ngưng làm điều
ác, làm mọi điều thiện, trên đây là chỉ về ý nghĩa tổng quát của
giới.
- Giới có nghĩa là điều phục, chế
ngự, tức Tỳ nại da (Vinaya). Chế ngự ở đây với những ý nghĩa chế
ngự bằng sự tỉnh giác, chế ngự bằng tri kiến, chế ngự bằng kham nhẫn,
chế ngự bằng tinh tấn... mục đích để đạt sự thanh tịnh ba nghiệp.
- Giới luật cũng có nghĩa là Biệt
giải thoát (Pratimoksa-s), cũng gọi là xứ xứ giải thoát hay tùy thuận giải
thoát. Biệt giải thoát tức là giữ giới phần nào thì được giải thoát
phần đó. Giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải
thoát ít. Còn tùy thuận giải thoát là tùy hành giả trì giới cách nào
thì hiệu quả theo đó mà thành tựu thuộc về hữu vi hay vô vi.
Pratimoksa-(s) cũng có nghĩa là trói buộc, giữ gìn, thúc liễm những hành
động của thân và khẩu không để tạo ác nghiệp.
Giới luật cũng đồng ý nghĩa luân
lý đạo đức, cách cư xử, nếp sống hướng thượng...
2)- Mục
đích hình thành giới bổn
Trong Tăng Chi Bộ kinh, 3B - trang 73,
Đức Phật dạy 10 mục đích hình thành giới bổn như sau:
- 1. Để Tăng chúng được cực thịnh
- 2. Để Tăng chúng được an ổn
- 3. Để chặn đứng các người khó điều phục
- 4. Để các vị Tỳ kheo tốt được sống an ổn
- 5. Để chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại
- 6. Để chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai
- 7. Để đem lại niềm tin thanh tịnh chính đáng
cho những người chưa tin
- 8. Để làm tăng trưởng niềm tin thanh tịnh chính
đáng cho những ai đã có lòng tin
- 9. Để cho chánh pháp được tồn tại
- 10. Để cho giới luật được chấp nhận
Với những điều kiện trên, chúng
ta thấy mục đích hình thành giới bổn cũng là để ngăn ngừa điều ác,
làm và tăng trưởng điều thiện. Như Luật tạng nói: "Giới là để
chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để được
hân hoan, hân hoan là để được hỷ, hỷ là để được khinh an, khinh an là
để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến,
chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để
được giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát
tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn".
3)- Phân
loại giới
a)- Giới theo quan điểm Đại thừa
(Mahayana) gồm ba loại:
* Nhiếp luật nghi giới: Là giới
có những giới điều cụ thể để thực hành theo các thứ bậc tu hành, gồm
có các giới của tại gia và xuất gia. Đó là Ngũ giới, Bát quan trai giới,
Thập thiện giới cho hàng Phật tử tại gia. Sa di và Sa di ni có 10 giới,
Thức xoa ma na ni thêm 6 học giới, Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới, Bồ
Tát (tại gia và xuất gia) có 10 giới trọng và 48 giới khinh.
* Nhiếp thiện pháp giới: Có nghĩa
là người thực hành chuyên tâm thực hành những hành vi toàn thiện, coi đó
cũng là một hình thức thực hành giới.
* Nhiêu ích hữu tình giới: Nghĩa là
lấy tiêu chí hành động vì mục đích lợi lạc tha nhân và quần sanh làm
giới hạnh.
b)- Giới thế gian và xuất thế
gian:
* Giới thế gian: Là giới luật
đưa đến quả báo hữu lậu, tức chưa ra khỏi tam giới. Nghĩa là người
thực hành giới này chỉ hưởng phước nhân thiên, vẫn còn luân hồi
trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Ví dụ: 5 giới thuộc về
nhân thừa, hay các dạng giới cấm thủ của ngoại đạo.
* Giới xuất thế gian: Là giới
đưa hành giả đến quả vị vô lậu, tức được tự tại giải thoát khỏi
tam giới, không còn bị rơi rớt trong sanh tử. Ví dụ người thực hành giới
Tỳ kheo tinh chuyên và viên mãn, đó là nhân. Sẽ được hưởng quả vị A
La Hán (vô sanh), đó là quả. Thực hành giới vô lậu sẽ được hưởng
quả vô lậu. Đây mới chính là Giới vô lậu học.
c)- Giới theo ba bậc: Hạ, Trung và
Thượng:
* Giới bậc Hạ: Là giới thọ trì
do mưu cầu danh lợi, vì động lực tham ái, do vậy còn tái sinh.
* Giới bậc Trung: Giới thọ trì
vì còn ham quả báo được công đức, tức còn chấp tướng, chấp phước,
hay giữ giới để có lợi lạc giải thoát riêng mình, gọi là giới bậc
Trung.
* Giới bậc Thượng: Là thực hành
giới vì kỉnh giới, tin giới, vì mục đích lợi tha, không chấp ngã nhân
vì cầu với ý nghĩa Ba la mật, là giới bậc Thượng.
4)- Tính
chất - nền tảng của giới - lợi ích của sự giữ giới
a)- Tính chất: Giới bổn được đặt
trên căn bản để giữ thân tâm được thanh tịnh, dần dần triệt tiêu
những phiền não, tham, sân, si. Giới trong Phật pháp mang đậm tính nhân văn,
nhân bản, đó là tinh thần linh động trong sự phân biệt từng loại:
khinh, trọng, tánh tướng, hay trong mỗi trường hợp mà có cách ứng xử
trì giới phù hợp: khai, giá, trì, phạm. Vậy nên giới học trong Phật
pháp không mang tính giáo điều (dognia) cứng nhắc và cực đoan bế tắc
như một số tôn giáo khác. Tinh thần này phù hợp với quan điểm "tự
tại vô ngại" và "tùy duyên bất biến" hay "Phật pháp bất
định pháp" của Phật giáo.
b)- Nền tảng: Giới được đặt
trên nền tảng tự lợi và lợi tha, tự thanh tịnh bản thân, cũng là để
thanh tịnh quần thể sống, thanh tịnh quốc độ. Nếu bạn trì giới đúng
nghĩa thì cũng có nghĩa góp phần thánh hóa nếp sống của mọi người.
c)- Lợi ích của sự giữ giới:
"Giới luật chính là bậc thang đầu của đạo quả giác ngộ, là nền
tảng của thiền định, trí tuệ, là ngọc anh lạc để trang nghiêm pháp
thân, là thuyền bè để đưa người qua bể khổ sanh tử, là kho tàng vô lượng
công đức" (HT Thích Thiện Siêu).
- Giới như đèn sáng lớn
Soi sáng đêm tối tăm
Giới như gương báu sáng
Chiếu rõ tất cả pháp
- (Kinh Phạm Võng - Bồ Tát giới)
Người có giới đức sẽ hưởng
được 5 sự lợi ích như sau:
- 1. Người trì giới sẽ thừa hưởng gia tài pháp
bảo nhờ có tinh cần
- 2. Được tiếng tốt đồn xa
- 3. Không sợ hãi rụt rè khi đến trước hội chúng
đông đảo
- 4. Khi chết, tâm không rối loạn
- 5. Sau khi mệnh chung được sanh vào thiện thú,
thiên giới -- (Trung Bộ II)
Tuy nhiên, trong kinh Hạt muối (Tăng
Chi Bộ kinh I) và kinh Đại nghiệp phân biệt (Trung Bộ III), Đức Phật đã
nêu rõ sự trì giới và phạm giới với những hậu quả còn tùy thuộc
vào tâm ý hay những tác nghiệp (ác hay thiện) đã gây tạo ra trước đó.
- II- Định vô lậu học
- 1)- Định nghĩa
Định (Samàdhi-p) cũng dịch là Tam
ma đề, hay chỉ, là chỉ cho trạng thái tâm ý chuyên chú tập trung vào một
đề mục, một đối tượng, một biểu thức nhất định ngõ hầu để tâm
không bị xao động, nhiễu loạn, phân tán do những tác động chủ quan và
khách quan.
- 2)- Phân loại
- a)- Định cận hành
và định an chỉ
- Định cận hành: Là định có
được do hành giả sử dụng các pháp quán sát và tưởng tư những đề mục:
sáu tưởng niệm, quán xác chết, quán sự an ổn, quán Tứ niệm xứ, quán
sự hình thành và phân tán của tứ đại.
- Định an chỉ: Là sự nhất tâm
đạt được liền sau định cận hành, do quán tưởng mà tâm ý được lắng
đọng, dừng nghỉ mọi vọng thức.
b)- Định
thế gian và định xuất thế gian
- Định thế gian: Là sự nhất tâm
có chiều hướng thiện nhưng không có được tác dụng liễu thoát sanh tử,
xuất ly tam giới, nghĩa là hành giả còn bế tắc trong lục đạo. Ví dụ
sự chuyên chú của những nhà khoa họạc vào một mục tiêu thí nghiệm,
đưa đến sự nhất tâm, tâm ý không bị chi phối bởi những ngoại
duyên, nhưng đó là định phát sinh có giới hạn, tự phát và không có
chí hướng. Người ta còn gọi đó là một thứ "phàm phu thiền".
Hay như hình thức tu định của một
số ngoại đạo hạn chế ở mức độ cầu phước báo sanh thiên, vì theo
quan niệm của họ, Phạm Thiên (Brahma) hay Thượng đế là đấng chí thượng.
Người ta còn gọi đây là "ngoại đạo thiền".
- Định xuất thế gian: Là định
thuộc về Thánh đạo, người đạt được định này tức đã thoát khỏi
sự kiềm tỏa của tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), được
giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử. Định xuất thế gian câu hữu đi
những quả vị vô sanh (A La Hán), Duyên Giác (Bích Chi Phật)... Đây mới
chính là Định vô lậu học.
Theo quan điểm Đại thừa, định
xuất thế gian còn được phân loại như sau:
- Tiểu thừa thiền: Chỉ cho
phương tiện tu định đưa đến kết quả Thanh Văn (A La Hán) do tu 16 pháp
quán, và Duyên Giác do tu pháp quán nhân duyên. Đây là pháp tu cho người có
chí cầu giải thoát, tâm thích trầm lặng yên tĩnh, tránh cảnh duyên... thường
thực hành các pháp Ngũ đình tâm quán, Tứ niệm xứ, Thập nhị nhân
duyên... để phá trừ kiến chấp, ngã chấp, cũng gọi là thiền đối trị.
Quả vị pháp tu này là các bậc Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A
La Hán, Bích Chi Phật an trú trong cảnh Niết bàn tịch tịnh.
- Đại thừa thiền: Thiền định câu
hữu với 51 bậc của Bồ Tát do tu quán nhị không (ngã không và pháp
không). Trong Bát Nhã Tâm kinh có đoạn: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành
thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất
thiết khổ ách... Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A nậu
đa la tam miệu tam Bồ đề".
Pháp tu này để cho những người có
căn cơ cao, thích hoạt động, có lòng từ bi thương xót chúng sanh, thường
lăn lộn trong cảnh đời, chung sống trong xã hội mà tâm hồn luôn luôn an
định: "cư trần bất nhiễm trần", có hạnh nguyện của Bồ Tát.
Pháp tu thiền định Đại thừa là
dùng trí Bát nhã quán chiếu các pháp ngũ uẩn giai không (ngã, nhân, chúng
sanh, thọ mệnh), dứt được vô minh hoặc chướng và trần sa hoặc chướng,
phổ độ chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Phương pháp tu thiền định này là
y cứ vào kinh Kim Cương, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... mà
quán Tứ cú kệ, Nhất tâm tam quán, Lục độ, Thập độ..., không chấp nhị
biên, không thiên vô hữu.
Hành thiền pháp Đại thừa là định
trong cảnh động, lấy cảnh trần lao để làm môi trường tu hành và hóa
độ chúng sanh. Chỗ giải thoát của hàng Đại thừa thiền là Vô trụ xứ
Niết bàn, lên đến Thập địa Bồ Tát thì phá được một phần vô minh,
chứng được một phần pháp thân, cho đến khi viên mãn thành bậc Diệu
giác tức là Phật.
- Tối thượng thừa thiền: Là
pháp thiền định dành cho các bậc thượng căn, thượng trí, khỏi dùng phương
tiện, giáo ngoại biệt truyền, không dùng văn tự dài dòng mà là "trực
chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật" (chỉ thẳng nơi tâm người, kiến
tánh thành Phật).
Người đại trí không cần giảng
dạy nhiều, chỉ cần nói qua một câu, một bài kệ hay một cử chỉ,
hành động là khai thị được tánh giác của họ, làm tỏ ngộ tức khắc
bao nhiêu nghiệp hoặc, phiền não chấp trước lâu đời. Nay chỉ trong một
sát na là tiêu tan hết, tâm quang sáng suốt, định tánh hiển bày, cũng
như khi mây tan gió tạnh thì mặt trời chiếu sáng giữa hư không.
- III.- Tuệ vô lậu học
- 1)- Định nghĩa
Tuệ vô lậu học là môn học làm
phát sinh trí tuệ vô lậu. Tuệ là nói gọn của hai từ trí và tuệ.
Theo Từ điển Phật học (Phân viện
Nghiên cứu PH - Hà Nội) định nghĩa: Trí là đối với đạo lý hết thảy
sự vật có khả năng đoán định phải trái, chánh tà... mà chọn lấy hay
từ bỏ mặt này hay mặt khác thì gọi là trí. Quán lý Tứ đế hay Thập
nhị nhân duyên đều là trí. Tuệ là cái tác dụng phân biệt sự lý, quyết
đoán nghi ngờ, thông đạt sự lý... Thông đạt sự tướng hữu vi thì gọi
là trí. Thông đạt không tướng vô vi thì gọi là tuệ. Hay định nghĩa
chung về trí tuệ là: quyết đoán là trí, tuyển chọn là tuệ. Biết rõ Tục
đế là trí, biết rõ Chân đế là tuệ.
Theo Đại cương câu xá luận (HT
Thích Thiện Siêu) xác định: "Đặc sắc của trí là tính quyết định,
đặc sắc của tuệ là tính phân biệt rõ ràng sự lý các pháp". Như
vậy, tuy có những nhận định khác nhau về trí và tuệ, nhưng ta nhận thấy
rằng có một sự đồng nhất về mặt ý nghĩa. Trí có tác dụng của tuệ,
tuệ bao hàm tác dụng của trí. Do vậy, gộp chung trí và tuệ lại mà gọi
chung là trí tuệ. Nhưng có một quan điểm chung nhất đó là: Thông đạt sự
tướng hữu vi, hay chỉ biết rõ Tục đế gọi là trí. Thông đạt không tướng
vô vi hay biết rõ Chân đế gọi là Tuệ. Và đây chính là Tuệ vô lậu
(Anàsravam).
Theo định nghĩa của ngài
Buddhaghosa thì: "Trí tuệ có đặc tính thấu nhập vào các pháp. Trí tuệ
có phận sự phá tan bóng tối của ảo tưởng bao phủ tự tính của các
pháp - biểu hiện của nó là không bị mê mờ bởi vì thiền định là
nguyên nhân trực tiếp của nó" (Tinh hoa và sự phát triển của đạo
Phật, dịch giả Chơn Pháp - Nguyễn Hữu Hiệu - Tu thư ĐH Vạn Hạnh,
Saigon, 1970). Như vậy, dù nhìn góc độ nào đi nữa thì trí tuệ (vô lậu)
vẫn là chất liệu tinh anh cao tột nhất để quyết đoán và chọn lựa đối
với mọi sự, mọi vật.
2)- Nội
dung của tuệ học
Nội dung của tuệ học chính là
toàn bộ giáo lý mà Đức Phật đã thuyết giảng trong 45 năm, được tập
trung trong giáo lý Tứ đế và lý Duyên khởi. Nó bao gồm đủ cả giới học
và định học. Do vậy, đối tượng của tuệ học là giới học và định
học, hay giáo lý Tứ đế và Nhân duyên sinh.
Trong phẩm Chuyển pháp luân thứ 2
của kinh Tương Ưng V, nội dung của Tuệ học là sự thấu rõ tường tận
về 4 chân lý bao gồm:
- - Thế nào là khổ
- - Nguồn gốc của khổ
- - Sự diệt tận các khổ
- - Các phương pháp để diệt tận khổ
Cốt lõi thứ hai nội dung của Tuệ
học chính là sự hiểu rõ về giáo lý Nhân duyên hay Duyên khởi. Trong kinh
Phật Tự Thuyết thuộc kinh Tiểu Bộ số 1, nội dung của giáo lý Duyên khởi
là: "Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này không có mặt, cái
kia không có mặt. Do cái này sinh, cái kia sinh. Do cái này diệt, cái kia diệt".
Như vậy, hiểu rõ hay có trí tuệ về lý Duyên khởi chính là trực nhận
rằng các pháp hiện hữu trên thế gian này đều do nhiều yếu tố, nhờ
nhiều nhân duyên mà có mặt và cũng do nhân duyên mà đoạn diệt. Hiểu rằng
vì bản chất của các pháp là như vậy, cho nên các pháp là vô thường, là
vô ngã, nằm ngoài sự sáng tạo của đấng "tối cao".
Từ hai nội dung cốt lõi trên,
chúng ta có thể kết luận: trí tuệ vô lậu khác hẳn trí tuệ hay trí thức
thế gian. Trí tuệ thế gian là nhờ sự học tập hay kinh nghiệm cuộc sống
mà có được. Còn trí tuệ vô lậu là thành quả có được nhờ vào công
năng tu tập và thể nghiệm bản thân. Trí tuệ thế gian chỉ là yếu tố
trợ duyên để có thể làm tăng trưởng trí tuệ vô lậu, chứ nó không
thể giải thoát hoàn toàn được. Trí tuệ vô lậu là con đường đưa đến
cuộc sống an lạc hạnh phúc, giải thoát ngay trong hiện tại và tương
lai. Trí tuệ vô lậu nhìn đúng sự thật nhân sinh và vũ trụ; nó không
bao giờ xem xét sự vật bằng cảm quan, bằng suy lường, bằng cảm nhận;
mà nó nhìn vào sự vật, hiện tượng nhờ vào sự thể nghiệm thiền tập
và đi vào chánh định, chánh kiến. Do vậy, chỉ có hành thiền mới đưa
đến trí tuệ vô lậu.
3)- Phân
loại trí tuệ
a) Đứng về mặt phân biệt thì
trí tuệ có hai loại: tuệ hữu lậu và tuệ vô lậu, hay còn gọi là tuệ
thế gian và xuất thế gian. Tuệ hữu lậu là tuệ có quan hệ mật thiết
với phiền não thế gian và không có khả năng dứt trừ phiền não ấy. Đó
là thứ trí tuệ phổ thông, còn gọi là thế tục trí (Jnànam-laukikam;
Knowledge of the world). Trí tuệ này chỉ có công năng hiểu biết các pháp
trên mặt hiện tượng. Trí tuệ này còn câu hữu với tham, sân, si, mạn,
phiền não... Do vậy chưa có công năng đoạn trừ chấp thủ.
Trí vô lậu là trí thanh tịnh, có
công năng cắt đứt mối quan hệ với phiền não. Sự hiểu biết các pháp
nằm ngoài phạm trù đối đãi và chấp thủ, đưa đến giải thoát và giải
thoát tri kiến, chứng vô lậu Niết bàn.
b) Đứng về mặt tính chất thì
trí tuệ được chia làm hai loại là căn bản trí và hậu đắc trí.
* Căn bản trí hay còn gọi là
chánh trí, vô phân biệt trí. Trí này là căn bản sinh ra nhất thiết công
đức, là giác tánh viên minh mà mỗi chúng sanh vốn đã có sẵn. Đó là bản
thể của tâm vốn là trong lặng, sáng suốt, nhưng vì bị vọng niệm, phiền
não che lấp, cho nên những đức tính sáng suốt trong lặng ấy không hiển
lộ ra được.
* Hậu đắc trí hay còn gọi là tục
trí, như lượng trí. Là trí tuệ có được nhờ công phu tu tập Giới-Định-Tuệ
mà có được. Có thể hiểu hậu đắc trí là một quá trình thanh lọc
tâm khỏi các triền phược, phiền não... để trở về căn bản trí. Trong
hậu đắc trí đã có mầm mống của căn bản trí. Nơi tâm thể của
chúng ta đã có căn bản trí, sở dĩ chúng ta chưa nhận diện được nó do
vì mê chấp vọng cầu... dấy khởi che lấp. Như gã cùng tử có viên minh
châu trong tay áo mà không nhận biết. Cho nên chúng ta cần phải tu tập để
có hậu đắc trí, và nhờ vào hậu đắc trí như là một phương tiện để
thể nhập căn bản trí vốn có của mình.
c) Trên phương diện tu tập thì
trí tuệ có ba loại: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Đây là các cấp độ
trí tuệ thứ tự từ thấp lên cao và làm căn bản liên hệ cho nhau.
* Văn tuệ: Là phương pháp tu tập
trí tuệ nhờ vào sự nghe hoặc trực tiếp nghiên cứu, tụng đọc giáo
lý mà lãnh hội ý nghĩa, phát sanh trí tuệ.
* Tư tuệ: Là trí tuệ có được
nhờ vào quá trình tư duy, xét đoán, trầm tư về những lời dạy của Đức
Phật mà khai sáng thêm trí tuệ. Đây là giai đoạn tiếp theo văn tuệ, tư
duy những gì đã được nghe, được đọc... Đó là tư duy về giáo lý Tứ
đế, Thập nhị nhân duyên... liên hệ đến con người và sự vật.
* Tu tuệ: Khi đã có văn tuệ, tư
tuệ thì đem áp dụng trí tuệ đó vào cuộc sống mà tu tập và hành trì
thông qua thiền định, để thể nghiệm và thể nhập sự thật của các
pháp. Chính nhờ tu tuệ mà có được chánh trí, chứng ngộ Niết bàn tối
thượng. Chính trí tuệ này là trí tuệ thâm nhập thực tại vô ngã của
các pháp mà Đức Phật có được ngay đêm thành đạo.
4- Lợi
ích của trí tuệ
Lợi ích của trí tuệ không thể
nghĩ bàn đối với cuộc sống hiện tại và tương lai. Chính vì thế mà
Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp). Muốn xây dựng
một cuộc sống hạnh phúc, an lạc trọn vẹn cho tự thân và cho tha nhân,
muốn hiểu được chính mình và hiểu được người thì phải có trí tuệ
để quán chiếu; muốn bước lên bờ giác ngộ giải thoát, trí tuệ vô lậu
là yếu tố quyết định. Tu tập về trí tuệ vô lậu sẽ đạt được
nhiều lợi ích. Tuy thế, tóm tắt lại thì có những lợi ích thiết thực
thể hiện rõ qua các điểm sau:
* Trí tuệ tẩy
trừ phiền não
Phiền não là ngọn lửa luôn luôn
ngủ ngầm và bốc cháy trong con người chúng ta bất cứ lúc nào. Nó có
công năng thiêu đốt mọi hạnh lành, mọi công đức mà chúng ta đã tạo.
Tu tập là nhằm từng bước đoạn trừ phiền não (tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến...). Vậy thì lấy gì để đoạn trừ phiền não? Ấy là trí
tuệ. Trí tuệ ấy chất chứa lòng từ, bi, hỷ, xả, chánh định và chánh
kiến. Phật giáo chỉ sử dụng một lưỡi gươm - gươm trí tuệ, và chỉ
công nhận một kẻ thù - vô minh (Avijjà). Đây là một minh chứng hiện thực
và sống động, chứ không phải là lời nói suông. Và đạo Phật đặt sự
hiểu biết bằng thực nghiệm lên trên hiểu qua sách vở và suy nghĩ. Phật
giáo xây dựng cuộc sống an lạc, hạnh phúc bằng trí tuệ chứ không phải
bằng đức tin. Đức tin đối với Phật giáo chỉ là một phương tiện
bước đầu trong tiến trình đi đến giác ngộ. Cốt tủy của đạo Phật
là vậy.
Trong kinh Di Giáo, Đức Phật dạy:
"Này các Tỳ kheo, nếu người có trí tuệ thì không có tham trước,
thường tự tỉnh giác, không để sanh ra tội lỗi. Thế là trong pháp của
ta có thể được sự giải thoát... Người có trí tuệ chân thật, ấy là
chiếc thuyền chắc vượt qua biển già, bệnh, chết; cũng là ngọn đèn
chiếu sáng cảnh tối tăm mờ ám; là món thuốc hay trị các thứ bệnh;
là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Thế nên các ông phải dùng
tuệ: văn, tư, tu mà tự làm cho thêm phần lợi ích. Nếu người có trí tuệ
chiếu soi, dù cho nhục nhãn thì cũng là người thấy được rõ ràng".
* Nếm được
vị ngọt Thánh quả và đáng được cúng dường
Chúng ta biết rằng tuệ được phát
sanh là nhờ tu tập thiền định. Vị ngọt của Thánh quả là vị ngọt
trong trạng thái thành tựu thiền định của các bậc Thánh. Trong lúc an
trú tâm vào định cũng như xuất định, thì bậc Thánh giả cảm nhận
được niềm hỷ lạc vô biên sâu lắng trong tâm thức, không thể diễn tả
được trọn vẹn bằng ngôn từ. Vị ngọt thiền lạc ấy vượt ra ngoài
nhận thức của phàm phu, vị ngọt ấy đậm nhạt khác nhau tùy vào công hạnh
thành tựu của từng Thánh quả. Cũng như vị vua thưởng thức sự hoan lạc
của bậc đế vương, chư Thiên thưởng thức Thiên lạc, còn các bậc
Thánh thì thưởng thức Thánh lạc siêu thế. Thánh lạc này đạt được
nhờ vào tâm tác ý duy nhất vào Niết bàn. Và chỉ có hành giả nào thực
sự thành tựu trí tuệ trong tu tập thì mới cảm nhận được trạng thái
ấy mà thôi. Người có được trí tuệ vô lậu như các bậc Thánh quả
và chư Phật thì xứng đáng được sự cúng dường của chư Thiên và
loài người. Vì đã thành tựu mọi công hạnh xuất thế, là ruộng phước
của thế gian, là nơi quy ngưỡng của chúng sanh gieo trồng mọi công đức
trong cuộc đời.
* Thẩm thấu
được sự vật và thể nhập chân lý
Lợi ích rốt ráo của tuệ là
giúp cho hành giả nhìn thấy rõ nhân sinh và vũ trụ đúng như thật với bản
chất của chúng; đó là thấy được duyên sinh tính, vô thường tính và
vô ngã tính qua giáo lý Tứ đế và Duyên khởi. Do thấy được như vậy nên
hành giả tự tin nơi mình khả năng chuyển mê khai ngộ. Trí tuệ mở cửa
đi đến tự do (tự tại), xa lìa khổ đau do chấp thủ, không thấy có
"ta" và "tự ngã của ta". Từ đó mà thể nhập chân lý,
đó là chân như, là tuệ giác của tự tâm, của bản lai diện mục, là Phật
tính hằng chuyển.
C/- Kết
luận
Giới-Định-Tuệ là ba môn học căn
bản nhất trong hệ thống giáo dục Phật giáo. Bởi vì toàn bộ giáo lý
Phật giáo không nằm ngoài phạm vi Giới-Định-Tuệ. Do vậy, nói học Phật
là học Giới-Định-Tuệ, tu Phật là tu Giới-Định-Tuệ./.
Chú thích
(1) Lậu hoặc: Là một tên gọi
khác của phiền não. Chỉ cho cái tâm mê chấp, cái tâm bị phiền não chi
phối.
(2) Thượng phần kiết sử: Gồm có
hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cữ, vô minh.
(3) Vô sở hữu xứ định: Là thiền
định sinh vào cõi Vô sở hữu xứ (Vô sở hữu xứ là xứ thứ ba trong bốn
xứ thuộc cảnh giới Vô sắc).
(4) Phi phi tưởng xứ định: Là thiền
định sinh vào cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ (Phi tưởng phi phi tưởng xứ
là tầng trời thứ tư trong cõi Vô sắc).
-oOo-
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/051-tamhoc.htm