- Phật giáo, triết
lý sống thời đại
- HT Thích Trí Quảng
Ngày nay, nói đến Phật giáo, người
ta thường xem như một tôn giáo nặng phần cúng bái, cầu nguyện. Thiết
nghĩ việc cúng lễ, cầu nguyện là điều đương nhiên không thể thiếu
đối với tôn giáo.
Tuy nhiên, thực chất của đạo Phật
đặt nặng vấn đề tu hành hơn; vì vậy cầu nguyện, lễ bái cũng là một
trong những phương pháp tu hành, không phải là cứu cánh. Thật vậy, Đức
Phật khẳng định Ngài đưa ra vô số phương tiện, thường được tiêu
biểu bằng con số 84.000 pháp tu, để giúp mọi người đạt đến cứu cánh
giác ngộ, giải thoát.
Pháp phương tiện Đức Phật chỉ
dạy nhiều như vậy, vì tùy hoàn cảnh, khả năng của từng người khác
nhau; tùy phong tục, tập quán, luật lệ thay đổi theo từng địa phương và
tùy thời điểm mà Ngài hướng dẫn pháp tương ưng thích hợp cho người
chấp nhận được.
Một cách khách quan, chúng ta thấy
rõ nhu cầu tín ngưỡng là đòi hỏi thiết yếu, không thể thiếu được
trong cuộc sống con người ở thời Đức Phật. Vì vậy, với trí tuệ của
bậc Chánh Biến Tri, Ngài chấp nhận thực tại khách quan ấy; nhưng thực
sự, Đức Phật ít nói đến việc cầu nguyện, mà thường đề cập đến
vấn đề tu tập để làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên
nhiên : đó là mục tiêu chính trong việc giáo hóa của Đức Phật.
Điều này thể hiện rõ nét trong hầu
hết các kinh điển, Đức Phật thường hướng dẫn người thực hiện 3
việc : làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và làm chủ thiên nhiên; nói
khác, Ngài khẳng định con người không lệ thuộc thần linh, nhưng buộc
thần linh phải phục vụ cho người.
Trước nhất, Đức Phật dạy rằng
mọi người đều có khả năng thành Phật, tức đạt đỉnh cao của tri thức
và việc làm siêu việt, nhưng chúng ta tự đánh mất khả năng cao quý ấy,
kinh gọi là đánh mất bản tâm. Tự mình đánh mất khả năng làm chủ bản
thân và tự van xin cầu nguyện, đem trao vận mạng cho thế lực thần quyền
quyết định giùm, mà không hề biết họ là ai. Từ đó, con người tưởng
tượng ra đủ các thứ thần có quyền năng chi phối cuộc sống họ, cần
phải cầu nguyện : từ thần sông, thần núi, thần cây..., thậm chí đến
thần vôi, thần bếp. Vì không thấy được khả năng vô tận của mình,
nên cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên bao la, sợ hãi thế lực siêu
nhiên đè bẹp, nên tự hạ thấp mình, cầu nguyện các thế lực khác. Và
thực tế cho thấy các thế lực đó chẳng giúp được gì cho con người,
nên không mấy người cầu nguyện được kết quả.
Phải chăng người cầu nguyện có
kết quả là nhờ họ biết kết hợp việc cầu nguyện với sự phát huy
khả năng mình. Trên tinh thần ấy, Phật giáo chủ trương có vấn đề tha
lực chi phối ta, nhưng bản thân ta cũng cần hướng về đối tượng để
tự phát huy khả năng. Điển hình như người tu pháp môn Tịnh độ,
nương vào Đức Phật Di Đà ở cảnh giới Tây phương. Phật A Di Đà tiêu
biểu cho vị đã thành đạt vô lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng công
đức; nói khác, Ngài có đầy đủ trí tuệ, sức khỏe và phương tiện.
Khi Đức Phật Thích Ca dạy chúng
ta tu nương với Phật Di Đà hay mười phương Phật, Ngài đều đưa ra những
đức tánh tốt của những vị đó, nhằm gợi ý cho chúng ta phát huy những
đức tánh ấy ở chính cuộc sống chúng ta. Nương Phật Di Đà tu cũng có
nghĩa là đánh thức khả năng hiểu biết, khả năng sống lâu, khả năng sử
dụng phương cách độ sanh, giúp người. Nhờ nương với vị sáng suốt,
tuổi thọ cao, nhiều phước đức như Phật Di Đà, từng bước mình cũng
khắc phục được mặt yếu và phát huy được bản thân.
Khi kết hợp tha lực với tự lực,
tạo được sức mạnh cho bản thân, lúc ấy, chủ động được cuộc sống,
nên không cần phải nhờ đến sự giúp đỡ bên ngoài nữa, và giảm thiểu
việc cầu nguyện để tự giải quyết. Quá trình tiến tu này đạt kết
quả nhờ khéo kết hợp cầu nguyện và tu hành. Trái lại, chỉ cầu nguyện
mà không tu, giao phó toàn bộ cho Phật làm giùm ta, chắc chắn không thể
được và cũng không phải là điều Phật muốn.
Ngày nay, chúng ta nương theo Đức
Phật A Di Đà tu, suy nghĩ về vô lượng thọ của Ngài, tức vấn đề sức
khỏe, tại sao Ngài sống đạm bạc mà lại khỏe mạnh, trường thọ. Từ
đó, chúng ta tu, làm chủ bản thân hay làm thế nào để xây dựng cuộc sống
mình không bị khổ sở vì bịnh tật thể xác lẫn tinh thần hành hạ.
Kinh nghiệm cho thấy ốm đau sanh ra
vì sống không hợp lý, như người tu khổ hạnh ép xác, không đủ dinh dưỡng,
tất phải bịnh. Ngược lại, các vị Thiền sư sống rất đơn giản
nhưng lại rất khỏe, tuổi thọ cao. Quan sát thấy rõ các Ngài thường sống
ở môi trường không khí trong lành, yên tĩnh, lượng thực thực phẩm đủ
dinh dưỡng dùng cho cơ thể và sống không tổn hại cho các loài, không
tranh chấp tính toán vơ vét lợi cho mình. Phương cách sống như vậy hoàn
toàn phù hợp với tinh thần khoa học ngày nay. Thật vậy, qua các kiểm
nghiệm khoa học cho biết không khí ô nhiễm, ăn uống quá độ, ăn nhiều
thứ độc tố, cùng với đủ thứ stress vì lo toan, thủ lợi cho cá nhân một
cách quá tham lam, mù quáng, cộng với vô số tiếng động đinh tai nhức
óc, hoặc chạy theo biết bao bận rộn không cần thiết trong cuộc sống...,
tất cả đã tác hại rất nhiều cho sức khỏe, gây ra đủ thứ bịnh tật,
làm giảm tuổi thọ con người.
Vì vậy, trên bước đường tu theo
Phật giáo, làm chủ lấy mình, tự lành mạnh hóa thân tâm, cố làm sao bớt
lệ thuộc vật chất, ăn mặc, giảm tiêu hao năng lượng, tránh gây ồn
náo, bớt tác hại ô nhiễm môi sinh, hạn chế tranh giành hơn thua, đừng
quá tham lam ích kỷ. Thực hiện được phần nào những điều ấy, tinh thần
chúng ta chắc chắn có được phần nào sảng khoái, cơ thể tươi vui, khỏe
mạnh.
Bước thứ hai của người tu phát
tâm Đại thừa, giáo hóa chúng sanh, thường nghĩ chúng ta không thể nào sống
một mình và không thể tốt với xã hội không tốt. Chúng ta ý thức sự
tác hại lớn lao của ô nhiễm môi sinh, không dám làm gì tổn hại, nhưng
người khác không nhận thức như vậy hoặc quá tham lam cứ gây ô nhiễm,
tất nhiên cuộc sống ta cũng bị vạ lây. Hoặc chúng ta đạo đức trong một
xã hội tuột dốc, sa đọa, nhiều tệ nạn nhiễu nhương, thì cũng khó
lòng an ổn.
Vì vậy, Bồ Tát hành đạo không
tìm chỗ trong lành, yên tĩnh, an nhàn như giai đoạn một, mà tiến một bước
xa hơn nhằm tịnh hóa xã hội và thiên nhiên, tức con người và thế giới
con người. Bấy giờ, Bồ Tát lo giải quyết việc cho người, làm sao giúp
họ hiểu được gây ô nhiễm tác hại cho sự sống của họ, của tất cả
mọi người, mọi vật trên hành tinh này. Bồ Tát đã lo xong phần tự
giác và đến giai đoạn giác tha, dùng vô số phương tiện để nâng hiểu
biết của người, khiến họ ý thức được tốt xấu, lợi hại, điều
đáng làm và điều không nên làm.
Trên tinh thần ấy, bước thứ hai,
Bồ Tát đã thực hiện công việc giáo dục người, vì theo Phật dạy, tất
cả thành bại đều do con người quyết định. Hướng dẫn cho người đồng
tình với mình trong việc bảo vệ thiên nhiên, làm cho xã hội lành mạnh,
đó chính là xây dựng Tịnh độ ở Ta bà.
Với ý thức như vậy, Bồ Tát dấn
thân không biết mệt mỏi, giúp người an lành là giúp mình an lành, cứu
người thoát khổ là cứu mình khỏi khổ. Mang tinh thần giáo dục rộng lớn
vô cùng ấy mà Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cho biết tất cả chúng sanh thành
Phật, thì Ngài mới thành, hoặc Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện nếu còn
chúng sanh trong địa ngục thì Ngài không thành Phật.
Tóm lại, Phật giáo hướng dẫn
triết lý sống hiểu biết đúng đắn, lành mạnh, đạo đức cho riêng bản
thân mỗi người, được hàng Thanh Văn tu tập, ứng dụng ở giai đoạn một.
Sau khi đạt được thành quả tốt đẹp ở bước đường tự giác xong,
Thanh Văn tiến tu Bồ Tát đạo, giáo dưỡng cho người hướng thiện, xây
dựng xã hội tốt đẹp, thế giới hòa bình, an lạc. Triết lý sống tròn
đủ chân thiện mỹ của Phật giáo đã trường tồn hơn 25 thế kỷ và cũng
sẽ là mô hình lý tưởng hiện đại và trong tương lai cho nhân loại nương
theo để kiến tạo ngôi nhà chung xanh sạch, đầy cảm thông, hiểu biết,
đầy tình thương, hạnh phúc, ấm no./.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/053-trietly.htm