Mười
hai nhân duyên
Thích Tâm Hải
A- Dẫn nhập
Mười hai nhân duyên (Thập nhị
nhân duyên) là cách trình bày đặc biệt của giáo lý Duyên khởi
(Paticcasamuppada) (1). Giáo lý này do chính Bồ tát Tất Đạt Đa (Siddhartha)
thể chứng dưới cội bồ đề sau 49 ngày tư duy thiền định, từ đó
Ngài trở thành một bậc giác ngộ hoàn toàn.
Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi,
là một giáo lý rất đặc thù, là điểm xác định sự khác biệt giữa
Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là cốt lõi của nhân sinh quan Phật
giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả các kinh điển. Nhận thức
rõ về giáo lý Mười hai nhân duyên sẽ giúp người học Phật hiểu cặn
kẽ hơn về các vấn đề khác như nghiệp, luân hồi, tái sinh, nhân quả...
đồng thời gợi mở một hướng sống tích cực cho mỗi cá nhân trong hiện
tại.
- B- Nội dung
- I- Định nghĩa
- 1)- Thế nào là nhân
duyên?
Nhân là yếu tố quyết định,
điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt của một hiện hữu. Duyên là điều
kiện hỗ trợ, tác động làm cho nhân sinh khởi. Ví dụ: hạt lúa là nhân
của cây lúa; các yếu tố như đất, độ ẩm, ánh sáng mặt trời, người
gieo... là duyên để hạt lúa (nhân) nảy mầm phát triển thành cây lúa. Mối
quan hệ nhân - duyên thực ra phức tạp và vi tế hơn nhiều, đặc biệt là
trong thế giới tâm thức; và, nhân duyên nói cho đủ là nhân - duyên - quả.
"Nhân duyên" trong "Mười
hai nhân duyên" hàm ý nghĩa "nhân duyên khởi": sự nương tựa
vào nhau mà sinh khởi, sự tùy thuộc phát sinh, nói chính xác là "do
cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không
có mặt; do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt".
2)- Mười
hai nhân duyên là gì?
Trong kinh Tương Ưng Bộ II (Samyutta
Nikàya), Đức Phật đã thuyết minh về Mười hai nhân duyên (Duyên khởi)
như sau: "Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có
danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do
xúc, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh
sinh; do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh, hay toàn bộ khổ
uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi".
"Do đoạn diệt (2) tham ái, vô
minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức
diệt nên danh sắc diệt; ...; do sinh diệt nên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu,
não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như
vậy gọi là đoạn diệt" (tr.1-2).
Mười hai nhân duyên dược Đức Phật
định nghĩa gồm hai chiều hướng: chiều hướng sinh khởi (còn gọi là lưu
chuyển: do vô minh, hành sinh...) và chiều hướng đoạn diệt (còn gọi là
hoàn diệt: do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt...).
Khi Mười hai nhân duyên được thành lập (tập khởi), nghĩa là năm uẩn
(3) tập khởi, và đây là chiều hướng của khổ đau, luân hồi. Khi mười
hai mắc xích này bị phá vỡ (đoạn diệt) thì cấu trúc năm uẩn cũng tan
rã, và đây là con đường của an lạc, giải thoát. Năm uẩn chính là cấu
trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người tự nó
nói lên mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập khởi.
Theo cách trình bày trên, vô minh
được xem như là căn nguyên, nguồn cội, cốt lõi của mười hai nhân
duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm vô minh là nguyên nhân đầu tiên của
chuỗi liên kết đó. Bởi Đức Phật dạy, vô minh cũng do nhân duyên sinh,
là duyên khởi. Khi có nhân duyên (tích cực) thì vô minh cũng sẽ chuyển hóa
thành trí, tuệ; đây là ý nghĩa "vô minh diệt, minh sinh".
Cũng cần lưu ý một chút về số
mục (12 chi phần) của dạng thức Duyên khởi này. Định nghĩa được nêu
trên, trích từ kinh Trung Bộ II, là một cách trình bày tiêu biểu nhất, gồm
đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một số bản kinh khác, như kinh Đại Duyên
(Trường Bộ kinh III), kinh Đại Bổn Duyên (Trường A Hàm I)..., Đức Phật
trình bày chỉ gồm 5, 8, 10, 11 và đầy đủ nhất là 12 chi phần. Vấn đề
này được các nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân tích rất tỉ
mỉ, và tất cả đều thống nhất số mục 12 chi phần được xác định
qua nội dung thiền quán của Đức Phật dưới cội bồ đề. Đây là dạng
thức chính xác, đầy đủ và phù hợp nhất với tư duy của con người. Sự
sai khác về số mục các chi phần chỉ là thể hiện phương pháp giáo hóa
linh động của Đức Phật. Ngài tùy thuộc vào trình độ của người nghe
mà nói vắn tắt hoặc đầy đủ. Điều này sẽ được làm sáng tỏ ở
phần nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên.
Đối tượng nghe giáo lý Mười hai
nhân duyên là con người, vì nặng về tâm luyến ái và chấp thủ, nên Đức
Phật luôn nhấn mạnh đến các chi phần này, đặc biệt là trong chiều hướng,
con đường đoạn diệt - giải thoát. Khi ái (hay bất luận là chi phần
nào) sinh khởi, lập tức cấu trúc 12 nhân duyên hình thành; và ngược lại;
khi chi phần ái hay thủ (hoặc một chi phần bất kỳ) đoạn diệt, lập tức
chuỗi mắc xích 12 nhân duyên tan rã. Đây cũng là ý nghĩa, mà trong luận
Đại Tỳ Bà Sa ghi rằng, nói Duyên khởi có một chi phần cũng được,
hai, ba... cho đến 12 chi phần cũng được.
II- Ý nghĩa
của mười hai chi phần nhân duyên
1)- Vô minh (Avijjà): sự mê mờ,
cuồng si của tâm thức; hay nói cách khác là sự không hiểu biết như thật
về hiện hữu là duyên sinh, vô thường và không có một tự thể độc lập,
bất biến.
2)- Hành (Sankhàra): động lực,
ý chí hành động tạo tác (ý hành) của thân, miệng và ý.
3)- Thức (Vinnana): tri giác của
con người về thế giới thông qua các cơ quan chức năng như mắt (nhãn thức),
tai (nhĩ thức), mũi (tỷ thức), lưỡi (thiệt thức), thân (thân thức) và
ý (ý thức).
4)- Danh sắc (Nàma-rùpa): sắc
là phần vật lý và sinh lý, danh là phần tâm lý. Với con người, sắc là
cơ thể vật chất, các giác quan và chức năng của chúng; danh là các tâm
phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư.
5)- Lục nhập (Chabbithàna):
có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác giữa sáu căn (= 6 nội xứ: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối tượng của chúng là sáu trần (= 6
ngoại xứ: hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc chạm và ý tưởng
- pháp).
6)- Xúc (Phassa): sự gặp gỡ,
tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ thể) và trần (đối tượng). Nói
rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc giữa con người và thế giới thông qua
6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có thức phát sinh do mắt tiếp xúc với
hình thể (sắc trần), thì sự nhận biết đó mới gọi là nhãn thức... Vậy,
xúc là sự gặp gỡ, giao thoa giữa căn, trần và thức.
7)- Thọ (Vedanà): sự cảm thọ.
Nói khác đi là các phản ứng tâm lý phát sinh khi mắt tiếp xúc với hình
thể, tai tiếp xúc với âm thanh... ý tiếp xúc với ý tưởng (pháp).
Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ
chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung tính
(phi khổ phi lạc). Đây là chất liệu mà con người thường lấy để xây
dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khổ đau, bất hạnh. Thực
ra, chúng là do duyên sinh, luôn thay đổi, không hề có một tự tính cố định.
8)- ٩ (Tanhà): gọi đủ là ái dục
hay khát ái: sự vướng mắc, yêu thích, tham luyến; gồm có dục ái, sắc
ái và vô sắc ái.
9)- Thủ (Upadàna): gọi đủ là
chấp thủ: sự kẹt vào, bám víu, đeo chặt của tâm thức vào một đối
tượng.
10)- Hữu (Bhava): tiến trình tương
duyên để hình thành, gồm dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
11)- Sinh (Jati): sự ra đời, tạo
nên, xuất hiện. Sinh ở đây không phải là sự sinh ra em bé, mà là sự
thành tựu các bộ phận cấu thành (năm uẩn), thành tựu các xứ (các cơ
quan tri giác và chức năng của chúng).
12)- Lão-tử (Jaramrana): sự
suy nhược, tàn lụi, tuổi thọ lớn, tan rã, tiêu mất, tử vong. Với sinh
mạng con người, lão tử được biểu hiện dưới các hiện tượng: răng
long, tóc bạc, da nhăn, các cơ quan tri giác suy yếu và chết.
III- Sự vận
hành của mười hai nhân duyên
Thông qua ý nghĩa của các chi phần
mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi phần lục nhập, một lần nữa khẳng
định rằng, dạng thức duyên khởi này là giáo lý nói về con người, bởi
vì chỉ ở con người mới có đầy đủ 6 cơ quan tri giác. Do vậy, khi nói
về sự vận hành của mười hai nhân duyên cũng chính là nói về sự vận
hành của con người.
Vì không nhận biết hiện hữu (con
người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi, luôn biến dịch
và không có một tự thể thường hằng, nên con người ảo tưởng về một
tự ngã: đây là cái tôi và đây là cái của tôi (Vô minh). Chính ảo tưởng
và sự bất giác này quấy động tâm thức, làm sinh khởi lòng tham ái, chấp
thủ... Và đó là động cơ cho các hành động của thân, lời và ý
(Hành). Mỗi khi ý niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự
hiện hữu của Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận
thức và đối tượng nhận thức (Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và
thức gặp gỡ nhau (Lục nhập), thì Xúc sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt
ngay khi căn, trần và thức giao thoa nhau; cảm thọ sẽ tuôn chảy như một
dòng thác mà không một năng lượng nào có thể ngăn cản được, vì bản
chất của cảm thọ là thế. Thọ bao gồm những phản ứng tâm lý trước
đối tượng như là buồn, vui, yêu, ghét, trung tính... Cảm thọ dễ chịu
sẽ làm phát sinh luyến ái (Ái). Trong Ái đã bao hàm chấp thủ và nó được
biểu hiện dưới nhiều hình thức tương ứng với các cảnh giới của
tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh, và mỗi khi đã có Sinh, thì tiến trình
suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận hành như một hệ quả đương nhiên: nghĩa
là lão-tử, sầu, bi, khổ, ưu, não; hay khổ đau có mặt. Đó là sự vận
hành của mười hai nhân duyên theo chiều sinh khởi (lưu chuyển) - chiều vận
hành này có động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác đi, đây
là con đường của khổ đau, luân hồi được dẫn dắt và chi phối bởi
vô minh.
Trong phần thuyết minh về mười
hai nhân duyên, Đức Phật không chỉ nêu lên con đường tập khởi, như đã
phân tích ở trên, mà Ngài đã chỉ ra nguyên nhân tập khởi và con đường
đoạn tận (hoàn diệt). Mỗi khi đoạn diệt bất kỳ một chi phần nào
trong chuỗi 12 mắc xích (nhân duyên), thì lập tức nó tự tan rã. Tuy
nhiên, với con người, tham ái và chấp thủ là nặng nề nhất; nên đoạn
tận tham ái hoặc chấp thủ thì vòng xích mười hai nhân duyên không còn
lý do để hiện hữu. Đó là ý nghĩa của lời Phật dạy: "Ái diệt tức
Niết bàn".
Sự vận hành của mười hai nhân
duyên không chỉ đơn giản là tiến trình hình thành một sinh mạng (từ ý
niệm tối sơ về hiện hữu đến hơi thở cuối cùng), mà sự vận hành của
nó (chiều thành lập - lưu chuyển) nói lên căn nguyên có mặt của con người
(và cuộc đời); nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Bao
giờ tham ái, chấp thủ hoặc vô minh chưa được đoạn tận thì con người
vẫn bị chi phối bởi sự vận hành của mười hai nhân duyên - nghĩa là vẫn
luẩn quẩn trong luân hồi, khổ đau bất tận - khi mười hai nhân duyên đoạn
diệt, đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt.
IV- Một số
cách giải thích về mười hai nhân duyên
Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi,
là nguyên lý của mọi hiện hữu. Nó là sự thật nên không bị giới hạn
trong không gian và thời gian. Đức Phật khẳng định rằng: "Duyên sinh
là thực tính của mọi hiện hữu, sự thật này không thay đổi dù Như
Lai có xuất hiện hay không xuất hiện". Một hiện hữu dù nhỏ như hạt
nhân của nguyên tử đến to lớn như vũ trụ cũng không nằm ngoài nguyên
lý này. Với đặc tính đó, giáo lý Mười hai nhân duyên có thể dùng để
soi sáng nhiều vấn đề khác trong cuộc đời như luân hồi, nhân quả...
tùy thuộc theo góc độ quan sát của người giải thích. Ở đây chỉ giới
thiệu 4 cách giải thích phổ biến.
1)- Dạng
thức tổng quát
"Do cái này có mặt, cái kia có
mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này sinh, cái
kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt" (Tiểu Bộ kinh, tr.291). Dạng thức
này là cách trình bày khái quát, tóm tắt và đơn giản nhất do chính Đức
Phật nói. Nó được xem như là một nguyên lý cho mọi hiện hữu trong thế
giới hiện tượng. Nói chính xác hơn, nếu mười hai nhân duyên là dạng
thức duyên khởi riêng về con người, thì dạng thức tổng quát nói về bản
chất của thế giới hiện tượng, đặc biệt là thế giới không có tình
thức (khí thế giới).
2)- Ba đời
hai tầng nhân quả
Ba đời là quá khứ, hiện tại và
tương lai (vị lai). Theo cách giải thích này, vô minh và hành thuộc về
quá khứ; hiện tại gồm có các chi phần (từ thức đến hữu); sinh và
lão-tử thuộc về vị lai. Mặt khác, thức, danh, sắc, lục nhập được
xem là quả hiện tại của nhân quá khứ là vô minh và hành, đây là tầng
nhân quả thứ nhất. Các chi phần thọ, ái, thủ và hữu là nhân hiện tại
cho quả vị lai là sinh và lão-tử; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối
hợp giữa hai lớp nhân quả này với các duyên tạo nên một mối quan hệ
có vẻ chặt chẽ, tương tục của dòng chảy thời gian: quá khứ - hiện tại
- vị lai. Qua cách giải thích này, ý đồ dùng giáo lý Mười hai nhân
duyên để giải thích luân hồi đã thể hiện rõ. Tuy nhiên, cách phân chia
như trên sẽ dễ đưa đến một ngộ nhận, như là vô minh và hành chỉ
có ở quá khứ, 8 chi phần tiếp theo chỉ có ở hiện tại, sinh và lão tử
thì thuộc về tương lai (!). Thực ra, trong hiện tại (và ngay trong mỗi chi
phần) đã có mặt vô minh. Khi một chi phần hiện hữu thì lập tức có sự
hiện hữu của 11 chi phần còn lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt
thì mối liên kết 12 chi phần nhân duyên tự sụp đổ. Như đã phân tích,
mười hai nhân duyên là một dòng tương tục, chằng chịt, không hề lệ
thuộc vào thời gian (quá khứ, hiện tại hay tương lai). Cách giải thích
này vô tình làm thô thiển và đơn giản hóa giáo lý Mười hai nhân duyên
- một giáo lý vốn được xem là rất thâm áo và tinh tế.
3)- Nhân
quả đồng thời
Khi nói "Do vô minh, hành
sinh...", không nên hiểu là hành do vô minh sinh ra. Giữa vô minh và
hành... là mối quan hệ nhân quả tuyến tính, đơn phương; nghĩa là các
chi phần trong mười hai nhân duyên hiện hữu tùy thuộc vào yếu tố thời
gian (trước - sau). Cách giải thích này nói rằng, ngay trong một sát na (4)
đã có sự hiện hữu đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi ý niệm lệch lạc
về một cái tôi và cái của tôi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt chuỗi
nhân quả tương tục: ý chí tạo tác (hành), tri giác phân biệt và chấp
thủ (thức)... đến lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Mỗi một chi phần vừa
là quả vừa là nhân cho các chi phần khác, chúng nuôi dưỡng lẫn nhau.
4)- Sự
hiện hữu của một đời sống con người (mạng căn)
Một trong 3 yếu tố quyết định
để hình thành một thai nhi là có sự hiện hữu nghiệp thức đi đầu
thai. Nghiệp thức này là kết quả của vô minh và hành trong quá khứ. Giai
đoạn tượng thai chính là thời điểm danh sắc có mặt. Lục nhập là
giai đoạn thai nhi hình thành đầy đủ các căn. Giai đoạn trẻ bú mớm
là giai đoạn của xúc. Trẻ từ 3 - 5 tuổi là lúc thọ hình thành. Từ đây
trở về trước, theo lối giải thích này, là biểu hiện của nghiệp quá
khứ, trẻ chưa tác ý thiện ác để tạo nên nghiệp hiện tại. Khi trẻ
biết vui, buồn, ưa, ghét... là lúc ái, thủ, hữu hình thành và chính đây
mới là giai đoạn mà trẻ tạo nghiệp để đưa đến hình thành một
thân mạng mới ở tương lai (sinh, lão, tử).
V- Một số
hệ luận từ giáo lý Mười hai nhân duyên
1)- Con người (và cuộc đời) là
hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên không hề có một tự
ngã độc lập và thường hằng. Con người chính là chủ nhân của cuộc
đời mình, bởi giáo lý Mười hai nhân duyên cho thấy sự thật:
"Không thể tìm ra một đấng sáng tạo, một Brahman, hay một vị nào
khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống; chỉ có những hiện tượng
diễn tiến, tùy thuộc vào những điều kiện" (5).
2)- Con người và cuộc đời là vô
ngã, không có một tự tính thường hằng (vô thường), nên bên trong mỗi
người luôn tiềm ẩn một khả năng giác ngộ, và cuộc đời luôn có cơ
hội để xây dựng trở nên tốt đẹp.
3)- Khi một chi phần trong mười hai
nhân duyên vận hành, nghĩa là 11 chi phần còn lại cũng vận hành. Điều này
nói lên sự dung thông giữa cái "một" và cái "tất cả",
vượt ra ngoài khái niệm không gian, thời gian, từ đó có thể khẳng định
có sự hiện hữu của các loại thần thông.
C- Kết luận
1)- Mười hai nhân duyên là giáo lý
về con người và nói cho đối tượng nghe là con người. Vì con người bị
vướng nặng vào vô minh, ái và chấp thủ nên Đức Phật đặc biệt nhấn
mạnh đến các chi phần này khi hướng dẫn con người tu tập vì mục đích
giải thoát, giác ngộ.
2)- Mười hai nhân duyên, hay Duyên
khởi, không phải là một giáo lý dùng để đối trị chấp ngã hay nhằm
giải thích thế giới; mà đây là sự thật và là một pháp tu tập vì giải
thoát thiết thực cho con người. Do vậy, giáo lý này là căn bản của chánh
kiến (thứ nhất trong Bát chánh đạo). Nói khác đi, chánh kiến là cái
nhìn toàn diện, như thật về các pháp là do duyên sinh.
3)- Vô ngã hay giải thoát, Niết
bàn không phải là một trạng thái trống trơn, mà là sự trống rỗng ý
niệm về một tự ngã thường hằng. Nói cách khác, đó là trạng thái
không có mặt vô minh, tham ái và chấp thủ.
4)- Mọi giá trị trong cuộc đời
đều mang tính tương đối, bởi cuộc sống là duyên sinh, luôn trôi chảy
và không thể nắm bắt.
5)- Hiện hữu hay cuộc sống là hiện
hữu của các mối tương quan đa phương giữa con người với con người,
giữa con người với môi trường xã hội, môi trường tự nhiên... Khi một
cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, và
ngược lại. Mỗi người phải có trách nhiệm với cộng đồng, bởi xây
dựng cộng đồng chính là đang bảo vệ cá nhân mình.
6)- Mười hai nhân duyên, hay giáo
lý Duyên khởi nói chung, là một giáo lý vô cùng tinh tế và khó hiểu, bởi
con người vốn đã quen với nếp tư duy hữu ngã từ vô thỉ. Muốn có một
nhận thức đúng về giáo lý này, đòi hỏi phải có sự quán sát và tư
duy thường xuyên về nó. Suy tư và thực tập giáo lý Mười hai nhân duyên
(theo chiều đoạn diệt), chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến cho hành
giả một cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện
tại. Bởi như lời Phật dạy: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai
thấy Pháp là thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại
tối hậu, vượt ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới ngã tính - bị giới
hạn bởi vô minh, tham ái và chấp thủ này./.
-oOo-
Chú thích
(1) Còn gọi là Duyên sinh, Y tha khởi:
sự nương tựa vào các yếu tố khác mà sinh khởi, hình thành, hiện hữu;
tùy thuộc phát sinh.
(2) Diệt trừ, xả bỏ, chuyển hóa
(Pàli: uccheda).
(3) Hình thể (sắc), cảm thọ (thọ),
ấn tượng của tri giác (tưởng), ý chí tạo tác (hành) và tri giác hiện
hữu (thức).
(4) Khoảng thời gian rất ngắn giữa
hai biến cố, nhỏ hơn rất nhiều so với đơn vị thời gian là giây
(Pàli: khana).
(5) Thanh tịnh đạo luận
(Visuddhimagga).
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/060-12nhanduyen.htm