Bốn
Đại, Sáu Đại, Mười hai Xứ, và Mười tám Giới
Thích Tâm Thiện
A. Dẫn nhập
Các vấn đề liên quan đến con
người và sự hình thành con người, theo quan điểm của Phật giáo, thường
được bàn đến gồm: bốn Đại, sáu Đại, mười hai Xứ và mười tám
Giới. Trong quá trình tu tập, các vấn đề trên được Đức Phật phân
tích cụ thể, nhằm xây dựng cho người tu tập một cái nhìn chính xác về
bản chất của thân năm Uẩn và thế giới sự vật hiện tượng chung
quanh con người. Do đó, phân tích về các Uẩn (Skandha), Xứ (Ayatana) và Giới
(Dhàtu) chính là phân tích về sự hiện hữu của con người và thế giới.
Đấy cũng chính là thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo. Mục đích của
sự phân tích nội quán này là cái nhìn giúp người học đạo thấy
rõ sự thật vô ngã của các pháp.
- B. Nội dung
- I- Định nghĩa
1)- Bốn Đại: Bốn Đại
(Caturmahàdhàtu) là bốn yếu tố cơ bản hình thành nên thể chất (thân vật
lý) của con người, bao gồm: chất khoáng (Pathavi - đất), chất lỏng (Àpo
- nước), nhiệt độ (Tejo - sức nóng) và hơi khí (Vàyo - gió). Chúng ta thường
gọi một cách hình tượng về thân tứ đại là đất, nước, gió, lửa.
2)- Sáu Đại: Sáu Đại là
sáu yếu tố cơ bản hình thành nên con người toàn diện với ba thành tố
đặc thù là: thể chất vật lý (gồm bốn Đại) cộng với ý thức (thuộc
tâm lý) và không gian.
3)- Mười hai Xứ: Mười hai Xứ
là cơ sở giao tiếp giữa con người với thế giới thực tại khách quan,
bao gồm sáu nội xứ (thuộc về tự thân) và sáu ngoại xứ (thuộc về
ngoại cảnh). Sáu nội xứ là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Sáu
ngoại xứ là: hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, sự tiếp xúc và
các sự vật hiện tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
4)- Mười tám Giới: Mười tám
Giới là cơ sở giao tiếp toàn diện của con người với thế giới thực
tại khách quan, bao gồm: sáu nội xứ, sáu ngoại xứ và sáu tình thức của
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức).
II- Phân
tích bốn Đại qua thể chất vật lý của con người
Như được trình bày ở phần định
nghĩa, bốn Đại là nói tóm tắt về cơ thể con người. Bốn Đại này do
nhân duyên hợp thành, chúng không có gì là bền chắc. Con người từ khi
sinh ra được nuôi dưỡng bởi các loại thức ăn (thực tố) và dưỡng khí,
và tiếp tục sinh trưởng theo thời gian. Trong suốt quá trình sống của một
đời người, thân thể vật lý này không ngừng thay đổi qua các chu kỳ
sinh thành, tồn tại, biến đổi và phân hủy (chết). Cái mà chúng ta gọi
là sự chết (sự ngưng hoạt động và phân hủy hay thọ mạng chấm dứt),
thực chất chỉ là sự tan rã của bốn Đại).
Cơ thể của con người hình thành
là do sự hội tụ của bốn Đại. Trong bốn Đại, nếu tiếp tục phân
tích, chúng ta sẽ có thêm bốn nhóm vật chất như sau:
1. Yếu tố đất: gồm có: tóc,
lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá
lách, phổi, ruột, phân, mỡ, não, ghèn.
2. Yếu tố nước: gồm có: mật,
đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, nước mắt, nước miếng, nước mũi,
nước khớp xương, nước tiểu.
3. Yếu tố gió: gồm có: hơi thở
(sự hô hấp) và khí.
4. Yếu tố lửa: gồm có: nhiệt độ
hay sức nóng do sự vận hành của cơ thể phát ra.
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, cơ thể
con người gồm có 36 thứ bất tịnh và được chia thành ba nhóm.
1. Nhóm một: gồm có 12 thứ ngoài
thân: tóc, lông, móng, răng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước miếng, phân,
nước tiểu và mồ hôi.
2. Nhóm hai: gồm có 12 thứ trong
thân: da, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, lớp mỡ da, mỡ óc,
màng bọc gân, thịt.
3. Nhóm ba: gồm có 12 thứ nằm sâu
trong thân: gan, mật, ruột, dạ dày, lá lách, thận, tim, phổi, bàng quang, mề
phân, đàm đỏ và đàm trắng.
Mục đích của sự phân tích cụ
thể như trên là nhằm giúp chúng ta nhìn thấy rõ ràng, chính xác về thân
tướng bất tịnh của con người để hướng tâm đến trạng thái xả ly,
không chấp thủ (1).
III- Sáu Đại
và con người toàn diện
Như đã trình bày, sáu Đại gồm có
bốn Đại (như trên) cộng với không gian và ý thức. Do đó, con người
(theo sáu Đại) là con người hoàn chỉnh, bao gồm cả tâm lý và vật lý.
Riêng về phần tâm lý hay tâm thức nói chung, đã được nói đến trong
năm Uẩn. Theo đó, tâm thức của con người bao gồm các phần chính là: cảm
thọ, niệm tưởng, tư duy và ý thức (thọ, tưởng, hành, thức), nói chung
là cấu trúc và sự vận hành của tâm lý.
Do đó, sáu Đại thực ra chỉ là
cách nói tóm tắt của năm Uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Vì lẽ,
đối với con người, cơ cấu tâm lý chỉ có thể vận hành khi nó dựa
vào sinh thân, tức là thân thể vật lý. Nếu chỉ có tâm thức hiện hữu
mà không có thân hiện hữu, hoặc ngược lại, chỉ có thân hiện hữu mà
không có tâm thức hiện hữu, thì không thể gọi là con người.
Tương tự như thế đối với khái
niệm tâm thức. Ở đây, nên hiểu rằng, tâm không đơn giản chỉ là
tâm, mà trong tâm luôn luôn hàm chứa hoạt động của các cảm thọ, các
ảnh tượng của tri giác, các hình thức tư duy và các hoạt động của tâm
thức nói chung.
Nên nhớ rằng, mọi khái niệm
phân biệt trong tâm thức của chúng ta như: tài sản, nhà cửa, sông suối,
núi đồi v.v... cho đến các khái niệm như: tư duy, ý thức, tình cảm, lý
trí, tưởng tượng v.v..., tất cả đều là biểu hiện của tâm. Và đây
là lý do tại sao Đức Phật dạy "Nhất thiết duy tâm" (tất cả
đều là sự tạo tác của tâm).
Như thế, sáu Đại và năm Uẩn dù
khác nhau trên mặt ngôn ngữ, nhưng chúng giống nhau về mặt ý nghĩa. Tuy
nhiên sẽ rất giới hạn nếu chúng ta dừng lại ở đây. Do đó những gì
cần được khảo sát tiếp theo, chính là mười hai Xứ và mười tám Giới.
IV- Mười
hai Xứ và mười tám Giới
Để hiểu rõ cơ cấu của tâm thức,
cũng như sự vận hành của nó, chúng ta cần thiết tìm hiểu về 12 Xứ
và 18 Giới.
Mười hai Xứ, như đã trình bày,
là cơ sở giao tiếp cơ bản để hình thành những nhận thức, phân biệt
của con người. Đó là sự giao thoa, tương tác giữa sáu nội Xứ (hay còn
gọi là sáu căn - Ajjhattika-àyatana) với sáu ngoại Xứ (còn gọi là sáu trần
- Bàhyu-àyatana). Căn là thân thể, mạng căn, tức là thể chất vật lý của
con người. Trần là trần cảnh, hay còn gọi là thế giới sự vật hiện
tượng. Sáu căn thuộc về chủ thể, sáu trần thuộc về đối tượng. Do
chủ thể giao tiếp với đối tượng mà hình thành nên những nhận thức,
phân biệt, như sông, suối, núi, đồi, đàn ông, đàn bà, con chim, hòn đá,
giọt sương...
Chúng ta có sáu căn và sáu trần.
Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; sáu trần là: sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp.
- Sắc: gồm có màu sắc, hình thể,
vật thể, hiện tượng, sự vật. Sắc còn được chia thành hai phần đó
là: biểu sắc (hình tượng, sự vật...), vô biểu sắc (năng lượng vô
hình..., năng lượng tâm thức [mental energy] cũng được xem là một loại sắc).
- Thanh: gồm tiếng nói, tiếng động,
âm thanh, âm nhạc...
- Hương: hương khí, hương thơm...
- Vị: mùi vị như chua, chát, cay,
ngọt, mặn, đắng, the, lờ lợ...
- Xúc: sự giao thoa giữa căn và trần,
giữa vật này với vật khác...
- Pháp: tất cả thế giới sự vật
hiện tượng tâm lý và vật lý nói chung..
Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần,
thì liền phát sinh những nhận thức, phân biệt. Do đó, có sáu loại phân
biệt của thức (sự nhận biết) gồm: sự thấy biết của mắt, sự nghe
biết của tai, sự ngửi biết của mũi, sự nếm biết của lưỡi, sự tri
giác của toàn thân và sự hiểu biết của ý thức.
Như thế, từ sáu căn tiếp xúc với
sáu trần để hình thành sáu thức (Vijnàna) và cộng chung lại là mười tám
Giới. Đây là tiến trình nhận thức luận về thế giới quan và nhân sinh
quan Phật giáo (2).
V- Mối quan
hệ giữa 12 Nhân duyên, 5 Uẩn, 4 Đại và 6 Đại, 12 Xứ và 18 Giới
Trong giáo lý về 12 Nhân duyên có
đề cập đến chi phần Lục nhập, và trong giáo lý 5 Uẩn có đề cập đến
hai chi phần: vật lý (sắc) và tâm lý (thọ, tưởng, hành, thức); trong 4
Đại và 6 Đại cũng đề cập đến hai chi phần: vật lý và tâm lý; đặc
biệt trong 12 Xứ và 18 Giới lại nhấn mạnh đến sự giao thoa, tiếp xúc
giữa sáu căn và sáu trần. Sự giao thoa và tiếp xúc này chính là chi phần
Xúc (Phassa) - đứng hàng thứ sáu trong giáo lý 12 Nhân duyên. Như thế, chúng
ta có một bảng tương đương như sau:
- (Lục nhập = 5 Uẩn + Xúc) # 6 Đại + (4 Đại) =
12 Xứ + (18 Giới)
- 5 Uẩn = Xúc + 12 Xứ # (18 Giới = Xúc + 6 Đại)
Từ những chi tiết này cho thấy rằng,
cái thế giới sự vật hiện tượng với muôn ngàn khác biệt mà chúng ta
nhận biết thì không gì khác / ngoài sự phân biệt của tri giác. Và yếu
tố hình thành nên tri giác của con người chính là sự tiếp xúc giữa
các căn thân và trần cảnh, hay nói khác hơn là giữa chủ thể nhận thức
(ví dụ - con mắt) và đối tượng được nhận thức (ví dụ - đám mây).
Mặc dù trên nền trời xanh bao la
không giới tuyến chỉ có một đám mây, nhưng đứng ở góc độ này thì
đám mây trông giống cô gái; đứng ở góc độ khác thì đám mây trông giống
con cọp v.v..., cứ như thế mà đám mây được xuất hiện với nhiều hình
thức khác nhau, tùy theo điểm nhìn và chủ thể nhìn. Nên lưu ý rằng, trước
mắt chúng ta chỉ có một đối tượng, nhưng do mỗi người có một duyên
phận khác nhau và trình độ nhận thức khác nhau, và do đó, đối tượng
bị nhìn cũng được tri nhận và đánh giá khác nhau. Đấy chính là thế
giới sai biệt đa thù của nhận thức. Và sự sai biệt đó hoàn toàn tùy
thuộc vào yếu tố Xúc (tiếp xúc) ở mỗi con người khác nhau.
Có một điều tối quan trọng cần
lưu ý rằng, để có một nhận thức, bao giờ cũng phải có một chủ thể
nhận thức và một đối tượng được nhận thức xuất hiện trong tương
quan. Và như thế, suy cho cùng, cái mà chúng ta gọi là thế giới quan, hay
nhân sinh quan, hay vũ trụ quan đó, thực ra không gì khác hơn là sự sinh khởi
ý niệm của Thức trong tiến trình giao tiếp giữa căn và trần. Và điều
này, trong kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: "Cái đa tính của đối tượng
sinh khởi từ sự nối kết giữa tập khí và phân biệt; nó sinh ra từ
tâm, nhưng người ta lại thấy nó hiện hữu bên ngoài; cái đa tính ấy
[ta gọi] (3) là Duy tâm".
"(Và) thế giới bên ngoài là
không có, nên cái đa tính của các đối tượng là cái được thấy từ Tâm;
thân thể, tài sản, nhà cửa..., những thứ ấy ta gọi là Duy tâm
(4)".
Từ những trưng dẫn trên, chúng ta
biết rằng, tri giác của con người rất giới hạn, và mọi sự đo lường
phân biệt, nhận thức của con người đối với thế giới cũng rất giới
hạn. Giới hạn ở chỗ sự hiểu biết của chúng ta là do cái thấy từ một
tâm thức còn vô minh, thấy bằng tri giác phân biệt của tự ngã chứ
không phải là thấy từ một tâm thức toàn tri (giác ngộ). Do đó, cái mà
chúng ta cho là thường thì bản chất của nó là vô thường, như dòng
sông không ngừng trôi chảy. Bản chất của ý thức phân biệt và vô minh
là như thế. Nó luôn luôn biến động, vô thường.
Con người khổ đau chỉ vì lầm chấp
vào ý thức phân biệt của mình, cho rằng cái này là tôi, cái này là của
tôi, cái này là tự ngã của tôi, rồi cố gượng sống và bám víu vào những
suy nghĩ như thế nên chìm đắm trong sinh tử trầm luân, vậy thôi.
C. Kết luận
Nói tóm lại, giáo lý về các Đại,
Uẩn, Xứ, Giới là những phần giáo lý rất cơ bản và quan trọng, giúp
chúng ta có một cái nhìn chính xác về cuộc sống vô thường, khổ và vô
ngã. Bao lâu con người chưa biết Uẩn, Xứ, Giới là gì, thì vẫn không thể
biết được thế nào là con đường thoát ly sinh tử. Các Uẩn, Xứ, Giới
là đề mục của pháp hiện quán - thiền định, do vậy, con đường tu tập
bao giờ cũng được khởi đầu từ các Uẩn, Xứ, Giới; đấy chính là tu
tập Chánh tri kiến./.
Chú thích
(1) Học viên xem thêm các kinh
có đề cập đến bốn Đại và sáu Đại như: kinh Phân biệt sáu giới
(M.140) = kinh Phân biệt lục giới (Trung A Hàm 42+7 - kinh Đại Câu Hy La).
(2) Xem Tìm hiểu nhân sinh quan Phật
giáo, Thích Tâm Thiện, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1998.
(3) Để trong ngoặc [ ] là phụ chú
của tác giả
(4) Lăng Già Đại thừa kinh, bản dịch
của Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1998, tr.305.
-oOo-
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/063-bondai.htm