- Quán Từ Bi
- HT. Thích Thiện Hoa
A. MỞ ĐỀ
Trong các nguyên nhân gây ra đau khổ
cho mình và cho người, tánh nóng giận là một nguyên nhân lớn, chẳng kém
gì lòng tham lam và tánmh ngu si. Từ vo thỉ đến nay sự xây dựng của
loài Ngài lớn lao vô kể; những sự phá hoại vì lòng giận dữ của họ,
cũng lớn lao vô cùng. Loài người xây rồi phá, phá rồi xây không ngừng,
chẳng khác gì những đứa trẻ xây nhà trên cát, xây xong rồi đạp đi,
để rồi xây lại. Và nguyên nhân của sự phá hoại ấy là lòng nóng giận.
Có những sự nóng giận nho nhỏ trong nhà giữa vợ chồng làm đổ vỡ chén
bát; có những sự nóng giận giữa anh em làm u đầu sưng trán; có những sự
nòng giận giữa bạn bè làm đoạn tuyệt đường đi lối về; có những sự
nóng giận giữa tình địch, hay đồng nghiệp kinh doanh cần phải thanh toán
bằng lưỡi dao, mũi súng hay lọ át xít; có những sự nóng giận lớn lao
hơn, giữa nước này với nước khác, màu da này với màu da nọ, chủ nghĩa
này với chủ nghĩa kia, mà kết liễu là những thấy ma nằm ngổn ngang
trên bãi chiến trường, những kẻ tật nguyền trong các bệnh viện, và những
chiếc khăn tang trên đầu các cô nhi quả phụ...
Tất cả những tai họa trên đều
do sân hận mà ra. Sân hận nằm sẵn trong lòng mỗi người, như những ngọn
lửa âm ỉ cháy, như những ngòi thuốc súng sẵn sàng bùng nổ bất luận
lúc nào. Lửa gặp lửa, thuốc súng gặp thuốc súng, không nói, chẳng ai cũng
biết tai hại do chúng gây ra lớn lao như thế nào !
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. ĐỊNH NGHĨA
Thông thường, người ta có quan
niệm sai lầm rằng: Từ bi là bi lụy, mềm yếu, than khóc, tiêu cực...Người
ta tưởng rằng hễ đã từ bi , thì ai muốn làm thế nào mình cũng chịu,
sống trong hoàn cảnh thế nào mình cũng theo, thiếu tinh thần tiến thủ...Tóm
lại, từ bi theo nghĩa thông thường là than khóc và nhu nhược.
Những thật ra, từ bi theo Đạo Phật
có nghĩa khác xa. Phật dạy: "Từ năng dữ nhứt thiết chúng sinh chi
lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ". Nghĩa là Từ cho
vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ cái khổ cho tất cả mọi loài. Diệt
khổ và cho vui đó là tất cả nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu
đời của người có lòng từ bi. Thế nên, từ bi không phải là thụ động,
là trốn đời hay nhu nhược. Cái khổ và cái vui nói ở đây không chỉ
là khổ và vui vật chất mà còn cả khổ và vui tinh thần.
Hết khổ và được vui tức là
khía cạnh của cuộc đời, nhưng không thể rời bỏ nhau được. Khi được
vui một phần nào, tức là đã bớt khổ một phần nào, ấy là trong Từ
có Bi; và trái lại, khi bớt khổ một phần nào, tức là đã được vui một
phần ấy như thế là trong Bi có Từ. Cũng như một đứa bé đang khổ sở
vì đi lạc đường, bỗng có ai chỉ đường cho nó, nó liền vui mừng và
hết khổ.
Vậy từ bi là một lòng thương rông
lớn vô biên, nó xui khiến người ta vận dụng tất cả khả năng, tâm tư,
phương tiện để làm cho mọi người, mọi vật thoát khỏi được vui.
II. SO SÁNH TỪ
BI VỚI BÁC ÁI
Bác ái là tình thương yêu rộng lớn.
Như thế thì bác ái và từ bi đều có một tánh chất giống nhau ở chỗ
rộng hẹp, sâu cạn mà thôi. Có người cho rằng bác ái rộng hơn từ
bi.Cho như thế là vì chưa hiểu rõ hai chữ Từ bi. Như trên đã định
nghĩa: Từ là cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ mọi nỗi
khổ cho tất cả mọi loài. Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ chúng
sinh là để chỉ cho tất cả mọi sinh vật. Vậy Từ là cho vui tất cả mọi
sinh vật, chứ không phải riêng cho loài người. Tất cả mọi vật có sự
sống đều được chung hưởng tình thương ấy. Còn Bi là diệt trừ mọi
nỗi khổ cho chúng sinh. Chúng ta nên để ý là trong câu định nghĩa chữ Hán,
các kinh dùng chữ "bạt" nghĩa là nhổ tận gốc rễ. Vâng, nhổ tận
gốc rễ của cái khổ chứ không phải chỉ thoa dịu cái quả khổ trong hiện
tại, mà để mặc cho cái nhân gây ra khổ mãi về sau. Người có lòng Bi
là vừa thoa dịu vết thương đau khổ trong hiện tại và vừa chữa cho khỏi
nguyên nhân hay gây ra đau khổ, như người làm vườn, không phải chỉ
phác cho sạch cỏ trên mặt đất, mà còn đào sâu xuống dưới, nhổ cho hết
gốc rễ của cỏ nữa.
Như thế thì Từ bi, về phương diện
không gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn về phương diện thời gian, bao
gồm tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Còn bác ái thì chỉ chú
trọng nhiều về loài người mà ít để ý đến sinh vật; và chỉ lo cứu
khổ, cho vui trong hiện tại mà ít nghĩ đến cái quả trong tương lai.
Nói một cách khác, Từ bi là gồm
hết nghĩa bác ái ở trong ,còn bác ái htì chẳng trùm được lý Từ bi.
III. TỪ BI CỨU
KHỔ VÀ CHO VUI NHƯ THẾ NÀO?
Trong khi so sánh Từ bi với Bác ái,
chúng tôi đã nói, về phương diện không gian, Từ bi bao gồm tất cả mọi
loài. Thật thế, tình thường của Đạo Phật vô cùng rộng lớn. Phật dạy
không được sát sinh người mà cả muôn loài vật nữa. Người Phật tử
chân chính, triệt để tuân theo lời Phật dạy, không những không giết hại
sinh vật để ăn, mà cũng không giết hại sinh vật trong các cuộc săn bắn
hay câu cá để mua vui. Ngày xưa, các vị Tỳ kheo trước khi uống nước ao
hồ, phải dùng mọt cái lọc để lọc nước, như thế vừa hợp vệ sinh,
vưà tránh khỏi sát sinh những sanh vật nhỏ ở trong nước. Mỗi khi vào cầu,
những người tu hành phải gõ xuống đất ba tiếng, để cho những sinh vật
dưới cầu biết mà tránh trước. Những cử chỉ ấy mặc dù nhỏ nhặt,
những đã thể hiện được một cách chân thành lòng từ bi của người
Phật tử chân chính. Chính nhờ lòng từ bi ấy mà cuộc đời bớt tàn khốc,
chiến trường được thu hẹp, người và vật không còn sát hại nhau, mà
trái lại còn xem nhau như anh em.
Những nếu chỉ cho vui và diệt khổ
trong hiện tiền mà không nghĩ đến cho vui và diệt khổ trong tương lai thì
cũng chưa gọi là Từ bi.Bởi thế, cần phải gây nhân vui và diệt nhân khổ.
Nhân vui và nhân khổ ở đâu mà có? Trong kinh thường dạy: Khổ do nghiệp,
nghiệp do hoặc. Hoặc tức là phiền não. Phiền não đều ở trong tâm mỗi
chúng ta. Tâm nguồn gốc của mọi hành động, của mọi kết quả. Vậy thì
quả khổ hay vui chỉ do tâm cả. Tâm chúng sinh đầy dẫy phiền não tật xấu,
dung chứa vô số hạt giống cay chua, đắng độc. Dĩ nhiên, những mầm mống
ấy sẽ trổ ra những quả khổ gian lao. Bởi thế, Đạo Phật rất chú trọng
vấn đề tu tâm, dưỡng tánh cho chính mình và người.
Muốn cứu khổ cho thật tình, chẳng
những lo cứu khổ quả, mà còn pahỉ trừ nhơn khổ cho sớm. Thế mới đúng
như định nghĩa đã nói ở trên về chữ BI (Bạt nhứt thiết chúng sinh
chi khổ). Chẳng hạn, muốn một người nào khỏi bị cái khổ tù đày,
lao lý, bắt bớ, hành hạ, ta phải dạy họ đừng tham lam, trộm cướp và
cần thiết phải biết bố thí, qúy trọng của cải của người. Muốn cho
người nào khỏi khổ vì sự chia rẻ, sát hại, thù hằn, ta phải dạy cho
họ đừng sân mà cần phải biết nhu hòa, nhẫn nhục. Muốn cho người nào
khỏi khổ vì sự ngu si cám dỗ, bóc lột, khinh hèn, ta phải dạy cho họ
được sáng suốt, giác ngộ cảnh đời. Khi họ hiểu rồi, tất nhiên
không bảo họ tránh khỏi, họ vẫn tránh.
Muốn cho sự nghiệp lợi tha này
được hoàn toàn, người tu hạnh Từ bi,còn có bổn phận phải chỉ bảo
cho người chung quanh những phương pháp tu hành cho có hiệu quả, như niệm
Phật, tham thiền chẳng hạn, để cho tâm địa của họ được tăng trưởng
công đức lành.
IV. PHƯƠNG PHÁP
QUÁN TỪ BI
Trong các đoạn trên, chúng ta đã
phân tách ý nghĩa và tác dụng của từ bi.Chúng ta đã thấy được giá trị
tốt đẹp và lớn lao của từ bi. Đến đây chúng ta hãy đề cập đến vấn
đề: "làm thế nào để huấn tập được lòng từ bi".
Một trong những phương pháp hiệu
nghiệm để huấn tập được lòng từ bi là "quán từ bi". Quán Từ
bi có ba từng bậc thấp cao, tùy theo căn cơ của ba hạng tu hành:
1. Chúng sinh duyên từ. Pháp
quán này thường dành cho hạng tu Tiểu Thừa thực hành.
Chúng sinh duyên từ, nghĩa là lòng
từ bi do quán sát cảnh khổ của chúng sinh mà phát khởi.
Chúng sinh tức là muốn nói đến
những hạn còn đang say mê, chìm đắm trong bể khổ sanh tử, còn đang trói
mình trong vòng phiền não nhiễm ô. Chẳng hạn như loài địa ngục bị hành
phạt đủ điều, ngạ quỷ bị đói rách bứt bách, súc sanh bị cảnh dao
thớt hành hình, A tu la đấu tranh, chém giết. Đến như chúng sinh ở cõi tời
tuy vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng hiện, luân hồi, đọa lạc
như thường. Mà vẫn hơn hết là loài người, cũng chịu không biết bao
nhiêu là cảnh khổ, từ vật chất đến tinh thần, từ cá nhân đến đoàn
thể. Nhất là đối luật vô thường: sanh, già, bịnh, chết, chưa ai thoát
khỏi được. Đã không thoát được mà lại còn vô tình đi gây chuốc
thêm lấy khổ, lắm khi cứ quên mất cái tuổi già, mối ngày mỗi chồng
chất, thật đáng thương hại !
Vậy, đứng trước những cảnh khổ
của chúng sinh, người Phật tử phải làm như thế nào? Phải phát lòng từ
bi !Nhưng làm sao cho lòng từ bi ấy được phát?
Đức Phật có dạy chúng ta phải
quán sát tất cả chúng sinh trong lục đạo, mười phương đều như bà con
thân thuộc.
Đây là phương pháp đầu tiên để
hòa hợp với mọi chúng sinh. Dùng cảm tình mà tập quán Từ bi. Trước
kia, chúng ta có thói quen là cái gì ngoài "ta" thì ít khi quan tâm đến.
Giờ đây, quán từ bi tức là chúng ta đã phá bỏ cái vỏ ích kỷ hẹp
hòi ấy mà giác ngộ và nhận định rằng:
Thế giới của loài người chúng
ta đang ở đây, tỷ như một cái nhà lớn, nơi sum họp và đoàn kết của
dại gìa đình. Vẫn biết rằng nhân loại khác nhau về màu da, chủng tộc;
những cái khác đó chẳng qua là khác về bề ngoài, chứ đã là người thì
ai ai cũng có một thân hình xương thịt như nhau cũng đồng sợ khổ ưa
vui, biết xấu biết tốt v.v...Vì thế đối với người lớn tuổi, ta phải
kính trọng như ông bà cha mẹ; người ngang hàng hay tuổi xấp xỉ, xem như
anh chị em ruột thị; người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái cháu chắt...
Rộng ra một tầng nữa, đối với
chúng sing trong năm loại, chúng ta hãy xem như những thành phần của đại
gia đình là chú, bác, cô, dì...Vẫn biết rằng về hình thức, loài người
khác với loài khác, và nhiều khi ta không gặp mặt nữa, nhưng xét cho
cùng, đã là chúng sinh, thì tất nhiên đồng chung một nguồn sống, và đã
có sống thì tất nhiên đều ham sống sợ chết, đều biết cảm nỗi vui
sướng và khổ đau. Gần với chúng ta nhất mà chúng ta có thể thấy, gặp
và nhờ cậy được là loài súc sinh. Tuy chúng không biết nói như chúng
ta, nhưng nếu chúng ta đối đãi tử tế, chúng cũng biết thương mến và
trung thành với ta. Tuy không có học thức, chúng vẫn biết nghe lời ta và
giúp đỡ ta trong nhièu công việc nặng nề. Chẳng qua vì nghiệp nặng,
nên đời này chúng làm súc vật, nhưng biết đâu đời trước, chúng
không phải là anh em của ta? Và sau này, biết đâu chúng lại không sẽ là
bà con quyến thuộc của ta?
Phương pháp tu tập của Tiểu Thừa
này tuy chưa phá được ngã chấp, những cũng đã mở rộng được phạm
vi hẹp hòi của cái ngã mnhỏ và thể nhập vào cái ngã to hơn là đại
gia đình; rồi từ cái ngã to tình cảm ấy, sẽ chuyển dần sang giai đoạn
lý trí cao siêu hơn, bằng phép quán "Pháp duyên từ" sau đây.
2. Pháp duyên từ. Pháp duyên
từ là lòng từ bi do duyên "Pháp tánh" mà phát khởi. Đây là pháp
quán dành cho các bậc Trung thừa.
Hành giả trong khi tu pháp môn này,
quán sát thấy tất cả chúng sinh, cùng mình đều đồng một "pháp giới
tánh", nên chúng sinh đau khổ là mình đau khổ; vì vậy hành giả khởi
lòng từ bi cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sinh. Đến địa vị này,
các Ngài không còn phân biệt là nam hay nữ, không còn quan niệm mình khác
với người, không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc, chỉ thấy mình
cùng người đồng một "pháp giới tánh" mà thôi. Bồ Tát đã nhận
chúng sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ, không cần biết
đó là ai, và khi làm, không chấp mình đã làm. Chúng sinh có khổ thì Bồ
Tát có Bi. Sự thông cảm tự nhiên ấy như tình thiêng liêng giữa mẹ và
con, hễ có cảm là có ứng, như tánh sốt sắng của vị y sĩ có lương tâm
nhà nghề, hễ thấy bịnh thì liền trị. Với ý nghĩa này, trong kinh Trung
A Hàm có tỷ dụ: Trước một nạn nhân bị trúng tên độc ấy ra lập tức.
Ông không cần phải hỏi người ấy tên gì, ở đâu, con ai, cũng không cần
coi cây tên ấy làm bằng gì, ai bắn v.v...
Sự cứu khổ cho chúng sinh, đối với
các vị Bồ Tát đã chứng được "pháp duyên từ" này cũng như thế,
chỉ nhằm mục đích làm sao cho kẻ khác hết khổ được vui mà thôi.
3. Vô duyên từ. Trong phạm vi
bài này, chúng ta chỉ nên học qua hai hạng từ bi trên mà thôi, là: Lòng từ
bi do duyên mình với chúng sinh khổ sở mà phát ra, hay do duyên mình và
chúng sinh đống một thể tánh mà phát khởi. Còn loại từ bi thứ ba tức
là "Vô duyên từ" là một loại cao siêu đặc biệt của Đại Thừa,
chúng ta chưa đủ căn cơ, trình độ tu tập. Tuy nhiên, để có một ý niệm
đầy đủ về lòng từ bi , chúng ta cũng nên biết qua về loại này.
Vô duyên từ, là lòng từ bi không
có tâm năng duyên và cảnh bị duyên, không còn dụng công, không còn quan
sát, đối đãi giữa mình với người, mình và vật như hai thứ từ bi
trước. Lòng từ bi này xứng theo thể tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la,
trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu
khắp cả gần xa, không phân biệt thấp cao, không chú ý một nơi nào, chiếu
soi tất cả một cách vô tư và không dụng công.
V. LỢI ÍCH CỦA
PHÁP QUÁN TỪ BI
Có người lo rằng nếu ai cũng từ
bi thì sẽ trở thành nhu nhược, dân tộc sẽ yếu hèn, và sự tham tàn
bóc lột sẽ lừng lẫy v.v...
Lo như thế là quá lo xa mà thành ra
không thực tế. Từ xưa đến nay, loài người không phải khổ sở vì quá
từ bi , xã hội không phải yếu hèn, đảo điên vì tình tương quá rộng
lớn. Trái lại, sự đau khổ của cá nhân cũng như của đoàn thể, một
phần rất lớn là do lòng người còn độc ác. Một nhậ xét không ai có
thể chối cãi được là một xã hội càng văn minh thì lòng ác độc càng
bớt, tình thương càng tăng thêm, hay ngược lại, tình thương càng tăng,
hay ác độc càng giảm, thì xã hội càng văn minh, hạnh phúc. Hãy khoan lo sợ
từ bi làm cho con người mềm yếu, mà chỉ nên lo sợ, nếu sự thù hằn,
độc ác không giảm, thì loài người chắc chắn sẽ bị tiêu diệt.
Khái lược theo kinh Tăng Nhất A Hàm
thì quán Từ bi sẽ được những lợi ích như sau:
- a) Khi thức hay ngủ đều được an vui
- b) Hiện tại được nhiều người thương
- c) Sống trong đời không bị tai nạn trộm cướp
Nhưng thực hành pháp quán từ bi ,
không phải chỉ để cho chúng ta cầu những quả báo lợi ích riêng cho
mình, và có bấy nhiêu đó. Mục đích chúng ta tu là cốt làm sao chúng ta
và mọi chúng sinh trong lục đạo đeù khỏi khổ được vui. Lẽ tất nhiên,
trong khi tu chúng ta sẽ:
- Trừ được lòng sân hận độc ác
- Dẹp được ngã chấp hẹp hòi
- Đoàn kết được với mọi người
- Đời sống cá nhân và đoàn thể nhờ thế được
vui vẻ, có ý nghĩa.
C. KẾT LUẬN
Từ bi là một phương thuốc trị tâm
sân hận. Sân hận là đầu mối sát hại ghê ghớm, là cái chìa khóa của
tất cả kho tội lỗi. trừ được nó tức là trừ được chết chóc, và
dập tắt được cái ngòi biến loạn. Bao nhiêu súng đạn và nhất là bom
nguyên tử sẽ trở thành vô dụng. Trong nhân loại, không còn ai là cừu địch
không còn có giai cấp bóc lột, đấu tranh. Ai cũng là người đáng thương,
đáng giúp đỡ. Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có một
sự liên lạc, đoàn kết mật thiết. Con người sẽ vô cùng sung sướng
khi thấy xung quanh mình đều là bà con quyến thuộc, bốn biển đều là
anh em và cùng chan hòa trong Phật tánh.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/067-tth-tubi.htm