- Quán Nhân Duyên
- HT. Thích Thiện Hoa
A. MỞ ĐỀ
Người đời, vì không hiểu dự vật
trong vũ trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra nhiều quan niệm sai lầm.
Có người nghĩ rằng vũ trụ do tự nhiên sanh. Có người lại nghĩ vũ trụ
do một vị thần toàn trí, tòan năng tạo ra v.v...
Theo Đạo Phật thì vũ trụ là vô
thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự mọi vật trong vũ
trụ không thể đứng riêng một mình mà có được; trái lại, phải nương
nhờ nhau mà thành. Nói một cách khác, từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ
vâth hữu hình cho đến vô hình, đều không ngoài nhân duyên mà có. Vì thế,
trong kinh Phật thường nói: "Chư pháp tùng duyên".
Sự hiện hữu của loài hữu hình,
hay nói riêng của loài người, cũng không ngoài công lệ ấy được.Muốn
hiểu rõ một cách tường tận cái guồng máy của sự sanh tử luân hồi của
kiếp trong bể khổ trần gian, chúng ta cần phải học lý "Thập nhị
nhân duyên". Sau khi hiểu rõ lý thập nhị nhân duyên, chúng ta lại còn
phải tìm hiêu phương pháp để dứt trừ cái vòng lẩn quẩn sanh tử luân
hồi nữa.
Muốn hiểu và dứt trừ cái vòng
sanh tử luân hồi, chúng ta phải học và thực hành pháp quán nhân duyên,
mà chúng tôi xin trình bày trong bài giảng này.
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. ĐỊNH NGHĨA
Sao gọi là "Nhân
duyên"? Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó là nhân,
trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa lam nhân sanh ra cây lúa.
Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật gì có tánh cách trợ gíup trực tiếp
hay gián tiếp cho vật khác được thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân
công...là trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân
duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ duyên cho tất
cả vật chung quanh nó.
Chữ "Nhân duyên" lại có
nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân" đó
"duyên" với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ
v.v...là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành ra cái nhà. Vì
các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho nhau, mà thành ra vật thế
này hay thế khác, nên trong kinh chép: "Chư pháp trùng trùng duyên khởi".
II. THÀNH PHẦN CỦA
NHÂN DUYÊN
Đoạn trên đã nói: "Các pháp
do nhân duyên hòa hợp sanh". Vậy những nhân duyên gì sanh ra loài hữu
tình". Vậy những nhân duyên sau đây:
1. Vô minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh
sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. thọ, 8. Ái, 9. thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão
tủ.
1. Vô minh có nhiều nghĩa và
nhiều loại:
a) Theo Đại Thừa giải thích:
"Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh" (Bất giác đệ nhất
nghĩa đế, vị chi vô minh).
b) Thông cả Đại Thừa và Tiểu Thừa
giải thích: "Hiểu biết các pháp không đúng như thật (hiểu sai lầm),
nên gọi là vô minh" (Bất như thật tri chư đế lý, vị chi vô minh);
như vô ngã mà chấp thật ngã, vô pháp mà chấp thật pháp v.v...
c) Ngoài ra, còn những nghĩa thông
thường như: vô minh là không sáng, tối tăm, mờ ám, si mê v.v...
Vô minh, lại có khi để chỉ các
phiền não như tham, sân, si. Xưa có người đến chùa hỏi:
Thế nào là vô minh?
Tổ sư trả lời:
Quê mùa dốt nát đến thế, cũng
đến chùa hỏi đạo lý !
Ông khách nổi giận, mặt mày đỏ
bừng...Tổ sư nói tiếp:
Vô minh là đó (chỉ cái sân), đó
là vô minh.
Vô minh có khi chỉ riêng cho Si tâm
sở. Như nói "độc hành vô minh" hay "tương ưng vô minh"
là đều chỉ riêng cho "si tâm sở": Khi nó khởi riêng một mình,
hoặc chung cũng với phiền não, tham, sân v.v...
Vô minh lại phân ra hai loại: căn bản
vô minh và chi mạt vô minh. Như trong mười hai nhân duyên, cái "vô
minh" đầu là căn bản, vì nó là gốc sanh ra các vô minh sau; còn
"ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh. Trong tứ hoặc, thì kiến hoặc,
tư hoặc, trần sa hoặc là chi mạt vô minh; còn vô minh hoặc là căn bản vô
minh. Trong ngũ trụ địa, thì kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa
, sắc ái trụ địa và hữu ái trụ địa là chi mạt vô minh, còn vô minh
trụ địa là căn bản vô minh.
Nói chung lạu, tất cả phiền não,
hoặc thô, hoặc tế của Đại Thừa hay Tiểu Thừa, có tánh cách làm cho
chân tâm bị ẩn, gương trí tuệ lu mờ thì gọi là vô minh.
2. Hành là hành động ,
tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân, khẩu, ý, tạo tác ra
các nghiệp lành hay dữ nên gọi là "hành".
3. Thức là thần thức, chỉ
cho phần tinh thần. Do thân, khẩu, ý, ba nghiệp tạo tác những nghiệp
lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ
quả báo (thân) khổ hay vui ở đời sau.
4. Danh sắc là thân thể.
Trong thân thể người có hai phần:
a) Phần tinh thần (tâm) chỉ có
tên kêu gọi, chứ không có hình sắc nên gọi là "danh".
b) Phần thể chất cí hình sắc,
nên gọi là "sắc".
5. Lúc nhập, gọi nôm na là
sáu chỗ vào. Khi đã có thân thể rồi, cố nhiên phải có sáu căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu trần (sắc, thinh, hương, vị,
xúc và pháp) phản ảnh vào, nên gọi là "lục nhập".
6. Xúc là tiếp xúc. Trong sáu
căn, ngoài sáu trần thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau, như mắt tiếp xúc
với sắc, tai tiếp xúc với tiếng, mũi tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc
với vị, thân tiếp xúc với ấm lạnh, trơn nhám, ý tiếp xúc với pháp
trần.
7. Thọ là lãnh thọ. Khi sáu
căn tiếp xúc với sáu trần, rồi lãnh thọ những cảnh vui hay buồn, sướng
hay khổ, hay cảnh binh thường.
8. Ái là ưa muốn. Khi lành thọ
cảnh vui thì sinh lòng tham, muốn làm sao cho được, khi gặp cảnh khổ thì
sanh tâm sân hận, buồn rầu, muốn xa lìa, gặp cảnh binh thường thời si
mê. Đây là cái động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý, taoc tác các nghiệp.
9. Thủ là giữ lấy, tìm cầu;
nói rộng ra là các hành động tạo tác. Do gặp cảnh thuận thì tham cầu,
gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa lìa; mục đích là muốn tìm phương
này kế nọ để bảo thủ cho được bản ngã của mình. Do đó mà tạo ra
các nghiệp sanh tử.
10. Hữu là có. Vì đời này
đã có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời sau quyết định phải
"có" quả khổ hay vui mà mình phải thọ nhận.
11. Sanh. Là sanh ra. Do
"ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, cho nên qia
đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả báo.
12. Lão, tử. Là già, chết.
Đã có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và chết v.v...
Mười hai nhân duyên này liên quan mật
thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, vừa làm nhân cho quả sau, nối
tiếp không dứt trong thời gian và làm cho chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn
trong vòng sanh tử.
III. PHƯƠNG PHÁP
QUÁN
Phương pháp quán mười hai nhân
duyên có thể chia làm hai phần là: quán Lưu chuyển và quán Hoàn diệt.
1. Quán lưu
chuyển
Là quán sát trạng thái sanh khởi
và luân lưu của mười hai nhân duyên. Sự quán sát này có ba loại:
a) Quán sát, trạng thái sanh khởi
của mười hai nhân duyên trong quá khứ xa xôi, từ vô thỉ. Từ vô thỉ,
vì vô minh vọng động, làm cho bản tâm thanh tịnh phản uẩn khuất, như mây
áng nên trăng mờ (vô minh), do đó, các vọng động từ từ sanh khởi (hành),
thành ra có tâm (thức) và cảnh, đủ cả thế giới và chúng sinh (danh sắc);
trong thân chúng sinh có sáu căn là chỗ của sáu trần thường pảhn ảnh vào
(lục nhập), rồi căn, trần thường tiếp xúc (xúc) nhau sanh ra cảm thọ
(thọ), nhân thọ sanh ra ưa (ái), vì ưa mới giữ (thủ); do đó mà có (hữu)
sanh (sanh) và già, chêý (lão, tử).
Đây là nói về trạng thái của mười
hai nhân duyên từ vô thỉ, do vô minh vọng động, tạo tác mà có thế giới
và chúng sinh, rồi cứ như thế, tiếp tục sanh khởi cho đến ngày nay, và
mãi mãi về sau v.v...
b) Quán sát trạng thái lưu chuyển
của mười hai nhân duyên trong ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Đây
là quán sát sự xoay vần của mười hai nhân duyên trong thời gian từ quá
khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến vị lai. Mười hai nhân duyên cũng
như sợi dây chuyền có mười hai vòng, vòng này móc vào vòng kia, vòng kia
móc vào vòng nọ, nối tiếp nhau không có mối manh, và liên quan cả ba đời:
quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng trong quá khứ vô minh và hành (căn bản
vô minh) làm nhân, sinh ra quả hiện tại (thân đời này) là "thức,
danh sắc, lục nhập, xúc, thọ"; quả hiện tại (thân đời này) trở
lại tạo nhân (trong hiện tại) là "ái, thủ, hữu" (chi mạt vô
minh); nhân hiện tại lại sẽ thành quả vị lai(thân đời sau) là
"sanh, lão, tử). Nói tóm lại, do mê hoặc (vô minh) nên tạo nghiệp
(hành), vì tạo nghiệp nên chịu quả khổ, nhân chịu quả khổ, rồi lại
mê hoặc tạo nghiệp v.v...nhân sanh quả, quả lại sanh nhân, nối tiếp
trong ba đời, quanh quẩn trong sáu đường sanh tử luân hồi, như cái bánh
xe lăn tròn trên sợi dây. Chỉ có khác là bánh xe thật thì chỉ có một
cái và biến đổi rất chậm chạp; còn bánh xe mười hai nhân duyên thì vừa
chạy tới mà vừa biến đổi, luôn luôn hoại và thành, thành và hoại...liên
tiếp trong ba đời; quá khứ, hiện tại và tương lai.
c) Quán sát sự sanh khởi và lưu
chuyển của mười hai nhân duyên trong một niệm của hiện tại. Nếu lấy
một khoảng thời gian ngắn trong hiện tại để quán sát, hành giả cũng có
thể thấy được sự sanh khởi và lưu chuyển của mười hai nhân duyên,
chứ không cần phải quán sát ba đời. Nhưnh khi đối cảnh, không rõ các
pháp đều là lưu chuyển (vô minh) mà khởi vọng niệm (hành) phân biệt
(thức) các cảnh vật (sắc); rồi trần cảnh lại phản ảnh vào căn (lục
nhập), căn lại tiếp xúc (xúc) với trần, sanh ra lãnh thọ (thọ), nhân thọ
sanh ra ưa muốn (ái), tím cầu (thủ), do đó tạo ra các nghiệp (hữu) rồi
theo nghiệp thọ quả báo (sanh, lão, tử).
Phân tách ba pháp quán trên, hành giả
sẽ rút ra những nhận xét sau đây:
Trong mười hai nhân duyên, có hai
nhóm làm nhơn và hai nhóm làm quả: Một nhóm nhân quá khứ (gồm có vô
minh và hành) và một nhóm nhân hiện tại (gồm có sanh, lão, hữu).
Về phía quả, thì có một nhóm quả
hiện tại (gồm có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) và một nhóm quả
vị lai (gồm có sanh, lão tử).
"Vô⠭inh, hành" là căn bản
vô minh, "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh. Có thể nói "vô
minh, hành" là cái biệt hiệu của "ái, thủ, hữu", còn
"thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ" là cái dị danh của
"sanh, lão, tử". Nói như thế là vì, nếu ta đổi qua tráo lại, sẽ
thấy rõ: trong "ái, thủ, hữu", có "vô minh và hành", còn
trong "sanh, lão, tử" có "thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ".
Vô minh thuộc về "hoặc";
hành thuộc về "nghiệp"; thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ,
thuộc về "khổ"; ái thuộc về "hoặc"; thủ, hữu thuộc
về "nghiệp"; sanh, lão, tử thuộc về "khổ".
HOẶC
KHỔ NGHIỆP
Xem bản đồ:
12 nhơn duyên liên quan 3 đời
nhơn quả
1. NHƠN (quá khứ)
1. Vô minh (hoặc)
2. Hành (nghiệp
Căn bản vô minh (có ái thủ, hữu)
2. QUẢ (hiện tại)
1. Thức
2. Danh sắc
3. Lục nhập
4. Xúc
5. Thọ
(khổ) Thân hiện tại
3. NHƠN (quá khứ)
1. A驠(hoặc)
2. Thủ (nghiệp)
3. Hữu
Chi mạt vô minh (có vô minh, hành)
2. QUẢ (vị lai)
1. Sanh
2. Lão, tử (khổ)
Thân vị lai
2. Quán hoàn
diệt
Là quán sát sự tiêu diệt của mười
hai nhân duyên. Có hai cách quán:
a) Diệt vô minh gốc rễ (căn
bản vô minh). Trong phần quán sát trên, hành giả đã thấy rõ: do vô minh
mà có hành, do hành mà có thức v.v...Vậy thì bây giờ, nếu ta diệt vô
minh, thì hành sẽ bị diệt, hành bị diệt thì thức cũng không có
v.v...Hay nói một cách khác: do "mê hoặc" nên tạo "nghiệp",
do tạo nghiệp nên mới chịu quả "khổ". Vậy muốn hết khổ, lẽ
tất nhiên là phải diệt nghiệp, muốn dứt nghiệp trước phải trừ vô
minh.
Trừ căn bản vô minh có hai cách:
Đối với các bậc Đại Thừa Bồ
Tát, vì thấy rõ thể tánh chân tâm do vô minh vọng động mà có thế giới
chúng sinh, ngã và pháp, nên các Ngài dùng trí Bát nhã phá trừ "sinh tướng
vô minh", để trở lại với bản thể chân tâm. Khi đã ngộ được chân
tâm rồi, thì tất cả sanh tử luân hồi đều hết. Như trong Bát nhã Tâm
kinh có chép: "Ngài Quán tự tại Bồ Tát khi đi sâu vào trí Bát nhx
Ba la mật đa rồi, thì thấy tất cả năm uẩn đều không, nên khỏi các
điều khổ ách...". Hay như trong kinh Lăng Nghiêm có chép: "Đối với
người tỏ ngộ được chơn tâm, thì mười phương thế giới đều tiêu hết".
Đối với người không thể phá trừ
ngay được căn bản vô minh để trực ngộ chân tâm, thì phải lần hồi
trải qua vô số kiếp tu hành, khi đến địa vị Đẳng giác, dùng trí Kim
cang phá trừ được "sanh tướng vô minh", mới chứng quả Diệu
giác (Phật ).
b) Diệt vô minh ngành ngọn
(chi mạt vô minh). Đối với hàng phàm phu và Tiểu Thừa, căn cơ thấp hẹp,
thì không thể trực tiếp phá trừ vô minh gốc rễ như hai bậc trên, mà
chỉ có thể phá trừ vô minh ngành ngọn là "ái, thủ, hữu". Khi
ngành ngọ đã bị chặt rồi, thì gốc rễ dần dần bị tiêu diệt, như bụi
tre mà bị xắn hết cả măng, thì sẽ phải tàn rụi.
Diệt trừ vô minh ngành ngọn cũng
gồm hai phương diện.
Quán lý: Là dùng lý lẽ để
nhận thấy rằng các pháp chỉ do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, chứ không
có thật (không hữu); bởi không có thật, nên không nên tìm cầu chấp thủ
(không thủ). Đã không chấp thủ, thì cũng không tham muốn (không ái). Nghĩa
là bắt đầu quán "hữu", rồi đến "thủ", rồi cuối cùng
là "ái". Nếu ba cái nhân này không có, thì cái quả "sanh,
lão, tử" cũng chẳng có.
Quán sự: Là y theo sự tướng
mà quán sát rồi thực hành. Hành giả bắt đầu quán "ái" trước,
rồi đến "thủ" và "hữu". Kinh chép: "Hữu ái sinh
ưu, hữu ái sinh úy, vô sở ái nhạo hà ưu hà úy?". nghãi là: Bởi có
tham muốn thì có lo sợ gì? Vì khi đối cảnh, sanh tâm tham muốn (ái), nên
mới tạo tác ra các nghiệp (thủ), do đó phải chịu sanh tử luân hồi (hữu).
Bấy giờ, nếu đối cảnh không tham ưa (không ái), thì chẳng tìm cầu chấp
thủ ( không thủ), vì không chấp thủ nên chẳng có sanh tử luân hồi
(không hữu). Cũng như trong kinh Lăng nghiêm Phật dạy: "..Chỉ khi
các ông đối cảnh, không khởi vọng niệm phân biệt, thì tham, sân, si chẳng
khởi; tham, sân, si kh khởi thì sát, đạo, dâm, vọng không sanh...".
Tóm lại, mê hoặc hết (ái) thì
nghiệp chẳng có (thủ), nghiệp không thì khổ chẳng còn (hữu).
Trong bốn cách trừ vô minh, chỉ
có pháp "quán sự" này dễ dàng và thiết thật nhất, lại hợp với
căn cơ của người tu hành hiện tại.
IV. HIỆU QUẢ CỦA
PHÁP MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
Hành giả sau khi thành tựu pháp
quán mười hai nhân duyên này, thì sẽ trừ được tâm si mê là nguyên
nhân chính của khổ đau và luân hồi của chúng sinh. Đức Phật thường bảo:
"Sự khổ ở tam đồ chưa hẳn là khổ, chỉ có người thiếu trí
huệ mới là khổ thôi". Xem thế thì đủ biết trừ được tâm si
mê và làm cho trí huệ được phát chiếu là một điều quan trọng bậc nhất
của kẻ tu hành.
Hơn nữa, hành giả còn nhờ pháp
quán mười hai nhân duyên này mà sẽ chứng được quả Duyên giác. Khi Phật
chưa giáng sinh, cũng có nhiều vị tu hành nhờ quán sát sự sanh hóa của vũ
trụ mà được ngộ đạo. Những vị ấy người ta thường gọi là Độc
giả, nghĩa là tự nghiên cứu một mình mà được giác ngộ. Đến khi Phật
giáng sinh, chỉ dạy pháp quán nhân duyên nhièu người y theo pháp qúan này
tu hành mà được giác ngộ, nên gọi là "Duyên giác" (nghĩa là những
vị giác ngộ nhờ quán mười hai nhân duyên).
Chỗ giải thoát của quả vị
Duyên gíac và A La Hán đều giống nhau, nhưng về trí huệ và thần thông
thì quả Duyên giác cao hơn quả A La Hán.
Sau đây là một thí dụ về sự
thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên của hai vị đại Đệ tử của
đức Phật Thích Ca , là Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên, lượt
thuật theo kinh Nhân quả:
Ở thành Vương xá, có hai người Bà
la môn rấy thông minh trí huệ, một người tên là Xá Lợi Phất và một
người tên là Mục Kiền Liên. Hia người đều tu theo ngoại đạo, có
trên một trăm Đệ tử , và có hứa hẹn với nhau rằng, nếu ai nghe được
pháp mầu trước, thì phải chỉ dạy lại cho người kia.
Một hôm, ông Xá Lợi Phất đi đường,
được nghe mọt vị Đệ tử của Phật là Tỳ kheo A Xá Bà Kỳ, giảng giải
về đạo lý nhân duyên và tóm tắt lại trong một bài kệ như sau: "Cội
gốc của tất cả pháp là nhân duyên sinh, không ai làm chủ, nếu ai hiểu
được pháp này, thì chứng được đạo chân thật"
Khi nghe xong, ông Xá Lợi Phất liền
xa lìa trần cấu, chứng được đạo qủ thanh tịnh.
Lức trở về, ông Xá Lợi Phất giảng
nói lại cho ông Mục Kiền Liên nghe. Ông này nghe xong, cũng chứng được
đạo quả. Hai ông này liền đem 200 Đệ tử của mình, đến xin Phật cho
xuất gia làm Đệ tử.
C. KẾT LUẬN
Để độc giả có một ý niệm
chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm tắt những yếu điểm
sau đây:
A. Tất cả sự vật không một vật
nào riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải nương tựa vào nhau mới
thành vật này hay vật khác. Đó là lý nhân duyên sanh, hay trùng trùng
duyên khởi. Riêng về loài hữu tình như kiếp người chẳng hạn, thì do mười
hai nhân duyên nương nhau mà thành một chuỗi sanh tử dài vô hạn, nối tiếp
từ quá khứ đến hiện tại và vị lai. Tùy theo cái tác dụng của nó mà
mười hai nhân duyên ấy có thể chia làm ba nhóm là: hoặc (mê mờ), nghiệp
(tạo tác) và khổ (kết qủa).
B. Muốn dứt trừ chuỗi sanh tử
dài trong biển khổ đau của cõi tục, phải quán mười hai nhân duyên.
Pháp quán này có hai phần là quán lưu chuyển và quán hoàn diệt:
1. Quán lưu chuyển. là quán hiện
tượng sanh khởi và tiến triển của mười hai nhân duyên từ vô minh,
hành, thức..đến lão, tử. trong khi quán lưu chuyển hành giả có thể chỉ
quán sát sự sanh khởi và tiến triển của mười hai nhân duyên trong quá
khứ, trong hiện tại hay cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
2. Quán hoàn diệt. Là quán
theo phương pháp làm cho mười hai nhân duyên phải tiêu diệt. Có hai pháp
quán hoàn diệt:
a) Một pháp dành cho những bậc đại
căn trí, như hạng Đại Thừa Bồ Tát, đó là pháp "diệt căn bản vô
minh".
b) Một pháp dành cho những người
căn cơ thấp thỏi như chúng ta, đó là pháp "diệt chi mạt vô
minh".
Pháp quán sau đây lại chia ra làm
hai là quán lý và quán sự:
Quán lý: là quán các pháp không thật
có (hữu) nên không chấp thủ (thủ); bởi không chấp thủ nên không tham
ái (ái).
Quán sự: là áp dụng cái lý đã
quán ở trên trong hoàn cảnh thực tại: Hành giả phải cô gắng thực hiện
sao cho kho đối cảnh không khởi tâm tham ái (ái), nhờ không tham ái mới
không tạo ác tìm cầu (thủ); do không tìm cầu nên không có (hữu) thọ quả
sanh tử về sau.
Hành giả thành tựu được pháp
quán mười hai nhân duyên này thì sẽ dứt trừ được vô minh, thoát khỏi
sanh tử và chứng được quả vị Duyên giác.
Cầu mong cho quí vị độc gỉa thấu
hiêu được chân giá trị của pháp quán này và tinh tấn tu hành để đạt
được quả vị qúy báu nói trên.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/068-tth-nhanduyen.htm