- Quán Giới Phân Biệt
- HT. Thích Thiện Hoa
A. MỞ ĐỀ
Hầu hết người đời đều tin rằng,
mỗi người từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến chết và cả sau khi chết nữa,
đều có một linh hồn duy nhứt, bất biến làm chủ tất cả ý nghĩa, hành
động của mình. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thì tin như thế gọi là
"ngã chấp", nghĩa là tin có một ngã riêng biệt, tồn tại bất biến...Từ
cái ngã chấp ấy, mà sinh ra "ngã ái", nghĩa là thương yêu, chăm sóc,
gìn giữ cái ngã, bất chấp phải trái, hay dỡ; ngã mạn, nghĩa là ngạo mạn,
cho "cái ta" của mình là cao quý, tốt đẹp hơn bao nhiêu
"cái" khác, đối lập với tất cả những gì không phải là ta hay
trái ý với ta.
Do sự chấp ngã ấy mà cuộc sống
đáng lẽ phải rộng rãi vô biên, trường tồn bất diệt, lại bị ngăn cách
chia xẻ, giam hãm trong những cái vỏ cứng là "cái ta" riêng biệt;
và người đời, hay nói rộng hơn, tất cả chúng sinh đều phải sống, chết,
quay cuồng, điêu cứng, khổ đau vì cái ta riêng biệt mà họ tưởng là
thuần nhất, bất biến ấy.
Nhưng thật ra, có một cái
"Ta" như thế không? Nếu có, thì cái Ta ấy ở đâu? Trong sáu căn
hay trong sáu trần, hay trong sáu thức? Muốn hiểu rõ vấn đề này một
cách tường tận, chung ta phải quán Giới phân biệt là một trong Ngũ đình
tâm quán.
- B CHÁNH ĐỀ
- I ĐỊNH NGHĨA: QUÁN GIỚI PHÂN
BIỆT
Quán Giới phân biệt: Giới có
ý nghĩa là giới hạn, là phạm vi phân chia phần này với phần khác, bộ
phận này với bộ phận khác. Chẳng hạn như trong vật chất người ta phân
chia ra nhiều loại: loại màu sắc, loại âm thanh, loại mùi vị v.v...Hay
trong con người, các bộ phận tiếp xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai,
mũi, lưỡi...là những Giới riêng biệt.
Trong thế giới Ta Bà gồm những vật
hữu hình và vô hình này, mặc dù có thiên hình vạn trạng, nhưng theo triết
lý của đạo Phật, thì có thể chia ra làm mười tám giới (loại, phạm
vi). Vận dụng trí tuệ để quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới
một trong mười tám giới ấy, để xét xem thử có một cái ngã trường tồn
bất biến, duy nhất hay không, đó tức là quán Giới phân biệt.
II. PHÂN GIẢI MƯỜI
TÁM GIỚI
Mười tám giới có thể phân ra ba
loại lớn: Sáu căn, sáu trần và sáu thức.
1. Sáu căn Căn tức là chỗ nương
tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở, phát sinh. Sáu căn ở đây tức
là: nhă căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn.
a) Nhãn căn: tức là hai con mắt, bộ
phận để làm chỗ nương tựa cho sự nhận thấy của người được rõ
ràng, khi tiếp xúc với cảnh vật chung quanh.
b) Nhĩ căn: tức là hai lỗ tai, bộ
phận làm chỗ phát sinh cho sự nghe biết của người được rõ ràng, khi
tiếp xúc với tiếng động ở chung quanh.
c) Tỹ căn: tức là lỗ mũi, bộ phận
làm chỗ nương tựa cho sự ngửi biết được xác thực, khi tiếp xúc với
các mùi như thơm, thúi...ở chung quanh.
d) Thiệt căn: tức là cái lưỡi, bộ
phận làm chỗ nương tựa của sự nếm biết của người được rõ ràng
khi tiếp xúc với các chất như chua, mặn v.v...ở ngoại cảnh.
đ) Thân căn: tức là da bao bọc
thân người, bộ phận làm cho nhận biết được cảm giác, nóng, lạnh, cứng,
mềm của các vật chung quanh.
Năm căn nay là năm bộ phận thuộc
về thể chất nằm ở bên ngoài, dễ tiếp xúc với ngoại vật. Chúng có
hình tướng to tứ đại hợp thành, có thể thấy được, chỉ được, rờ
mó được. Duy thức học liệt chúng về nội căn sắc pháp. Nội can sắc
pháp này có thể phân tách ra làm hai phần: phù trần căn và tịnh sắc căn.
Phù trần căn là chỉ cho hình tướng thô phù hiện ra bên ngòai, như tròng
mắt, vành tai, lưỡi đỏ v.v...Còn tịnh sắc căn là chỉ cho phần ẩn phục
của năm căn, tức là phần ứng dụng, phần hoạt động, phần sống của
năm căn. Nói một cách rõ ràng đơn giản hơn, tức là những dân thần
kinh hệ của con người vậy. Phù trần thì thô thiển, tinh sắc lại tế
ẩn. Nếu hai phần này rời nhau, năm căn sẽ vô dụng.
e) Ý căn: tức là bộ phận để
cho sự phân biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy. Phần này rất tinh tế
thuộc về phần tinh thần. Cho nên không có hình sắc như năm căn trước.
2. Sáu trần. Trần, nghĩa đen là bụi.
Bụi thì nhơ nhớp luôn luôn dời đổi lăng xăng, tụ tán không chừng. Nghĩa
bóng, trần tức là chỉ cho phần vật chất, cảnh vật chung quanh con ngươi.
Sáu trần là: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và
pháp trần.
a) Thanh trần: là sáu sắc, đường
nét hình dáng, những gì mà mắt có thể thấy được.
b) Thanh trần: là tiếng do vật hữu
hình hay vô hình phát ra, nghĩa là những tiếng mà tai nghe được.
c) Hương trần: là mùi do vật hữu
hình hay vô hình bốc lên, tỏa ra, vật mà mùi ngửi được.
d) Vị trần: là chất trong vật hữu
tình hay vô tình, vậy mà lưỡi nếm được.
đ) Xúc trần: là những thứ mềm,
cứng, trơn, nhám...của vật hữu tình hay vô tình, những vật mà thân tiếp
xúc được.
e) Pháp trần: là những hình ảnh,
màu sắc, hương vị.. trừu tượng của năm trần lưu lại sau khi đã năm
căn duyên, chính là cảnh bị duyên của ý căn. Màu sắc tiếng tăm, hương
vị ở đây không phải là vật thật của ngoại cảnh mà chỉ là những
hình bóng, âm vang...của ngoại cảnh sau khi đã lọt qua năm giác quan, và
đang bị ý căn duyên.
Chúng ta có thể làm một thí dụ
tho thiển sau đây cho dễ hiểu:
Sắc trần dụ như cảnh vật bên
ngoài.
Nhãn trần dụ như cái máy quay
phim.
Pháp trần dụ như những hình ảnh
đã giữ được trong cuốn phim.
Ý căn dụ như người xem hình trong
cuốn phim chiếu lên. Có thể lam một thí dụ thứ hai sau đây:
Thanh trần dụ như các tiếng hát của
một ca sĩ.
Nhĩ căn dụ như cái máy ghi âm.
Pháp trần dụ như cuốn băng nhựa
đã ghi âm.
Ý căn dụ như người nghe tiếng do
cái máy phát ra.
3. Sáu thức. thức là sự phân biệt,
hiểu biết, phán đoán do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà phát sinh. Nó
thuộc về tâm pháp (vô hình). Sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức,
thiệt thức, thân thức và ý thức.
a) Nhãn thức: là sự phân biệt, hiểu
biết do nhãn căn tiếp xúc với sắc trần mà phát sinh.
b) Nhĩ thức là sự phân biệt hiểu
biết do nhĩ căn tiếp xúc với sắc trần phát sinh.
c) Tỹ thức là sự phân biệt hiểu
biết do tỹ căn tiếp xúc với hương trần mà phát sinh.
d) Thiệt thức là sự phân biệt do
thiệt căn tiếp xúc với vị trần mà pháp sinh.
đ) Thân thức là sự phân biệt, hiểu
biết do thân căn tiếp xúc với xúc trần mà phát sinh.
e) Ý thức là sự phân biệt, hiểu
biết, phê phán do ý căn tiếp xúc với pháp trần mà phát sinh.
Chúng ta có thể làm một thí dụ cụ
thể sau đây cho dễ nhận:
Sáu thức như một hội đồng giám
khảo của cuộc thi thì về văn nghệ, nữ công và gia chánh. Hội đồng này
gồm có sáu người: Một ông chủ tịch và anưm hội viên chuyên môn về năm
ngành:
Một người chuyên về màu sắc và
hình ảnh\
Một người chuyên về âm thanh
Một người chuyên về mùi hương
Một người chuyên về chất vị
Một người chuyên về xúc giác
Năm hội hiên này sau khi lấy khả
năng chuyên môn của mình ra phân tách, phê phán rồi, liền trình sự nhận
xét của mình lên ông chủ tịch, ông này thu góp tất cả những nhận xét
của năm hội viên, làm tông kết và tuyên bố kết quả của cuộn thi ấy.
Ông chủ tịch này chính là ý thức hay là thức thứ sáu.
III. PHƯƠNG PHÁP
QUÁN
Sau khi chúng ta đã biết được rõ
ràng phạm vi và công năng của mỗi giới trong mười tám giới rồi, đến
đây, chúng ta có thể bắt đầu tập phương pháp quán. Pháp quán này gồm
có hai phần: Quán sát sự liên hệ giữa căn, trần và thức; và quán sát
sự giả dối của căn, trần và thức.
1. Quán sát sự liên hệ giữa căn,
trần và thức. Vẫn biết căn là một nội sắc, nhưng chúng ta rất
quan hệ mật thiết. Căn là phần chủ động, có khả năng duyên được với
trần, còn trần là phần bị động "được duyên" với căn. Nhờ
có căn phù trần và tịnh sắc, nên con người mới có thể nhận biết
các cảnh vật chung quanh trong sự sống hằng ngày.
Nếu không có căn, dĩ nhiên không
có thức, thì con người không phải là con người. Họ không sáng tác, xây
dựng, cải cách, tiến hóa, và thế giới này phải là thế giới "chết",
mờ mịt không có ý nghĩa.
Nếu không có trần, con người
cũng không sống nổi. Ngoại cảnh là trường hoạt động của con người.
Nó dạy khôn dạy khéo cho con người trong cuộc sinh hoạt và làm cho con người
có ý thức về cuộc sống của mình.
Thức lại tác động vào căn và trần
làm cho cuộc sống càng thêm tiến bộ, sung túc thịnh vượng.
Ba thứ này ảnh hưởng lẫn nhau
như cây quẹt, chất điện và đốm lửa. Sự liên quan này chứng minh một
cách hùng hồn sự không độc lập của sắc pháp và tâm pháp, cả về phương
diện cá thể lần phương diện tổng thể.
Mười tám giới này, như đoạn đầu
đã nói, gồm cả thế giới và nhân sinh, cả vật vô tình và vật hưũ tình.
Một khi chúng đã không tự lập, thì trong vũ trụ này, không có một vật
gì, kể cả con người, cả cái ngã, do chúng cấu tạo ra lại có thể biệt
lập, thuần nhất được.
2. Quán sát sự giả dối của căn,
trần và thức. Phần trên, chúng ta thấy cái ngã không thể do tổng hợp
của căn, trần và thức mà có được một cách thuần nhứt. Đến đây,
chúng ta sẽ đi sâu vào một tầng nữa, quán sát xem cái ngã có thể có
trong một phần nào của căn, trần và thức năng?
a) Sáu căn là ngã chăng? Trước
tiên, chúng ta hãy xét bản chất của sáu căn là gì? Chính là một khối xương
da máu thịt, hợp lại có trật tự, có tổ chức, chứ không gì khác. Mà
đã là thịt da, xương máu thì không có gì là bền bỉ, thuần nhất. Từ
"khi trắng răng đến thuở bạc đầu", thử xem con người đã mấy
lần thay đổi. Và sau một trăm năm, thử hỏi thể xác ấy sẽ còn lại
gì, ngoài "nắm cỏ khâu xanh rì"?
Giả sử có một cái ngã ở sáu căn,
thì htử hỏi:
Nếu cái ngã ở nơi mắt, thì năm
căn kia không phải là ngã. Nếu cái ngã ở nơi tai, thì năm căn kia không
phải là ngã. Lần lượt xét cả sáu căn, chúng ta không thể nói được cái
ngã ở một phần nào trong sáu căn.
Nếu cho rằng sáu căn đều là
ngã, thì thành ra con người có đến sáu cái ngã. Nói thế chắc không ai
công nhận được.
Còn nếu bảo rằng: Do sáu căn hòa
hợp mà có cái ngã, thì với trái với định nghĩa về cái ngã, là thuận
nhất, bất biến. vả lại khi đã cho rằng cái ngã do nhièu thứ hợp lại,
thì cũng phải công nhận luôn là cái ngã ấy là không thật, là giả hợp.
Do đó, Duy thức học bảo
"nhân vô ngã".
b) Sáu trần là ngã căn? Trần
với căn không khác gì mấy. Căn đã không tự tại trong cuộc sinh tồn,
thì trần làm sao đứng vững, còn hoài.
Giả sử, "ngã" nằm trong sắc,
thì trên thế giới này phải không có sự đổi trắng, thay đen. Như hoa nở
rồi tàn, hết ngày rồi đêm, bãi bể biến thành vườn dâu, cuộc đổi
thay đã bày rành rành ra trước mắt.
Vậy "ngã" nằm trong thanh
chăng? Cũng không có lý. Thanh không bao giờ tự nhiên mà có. Nếu có không
do vật hữu tình phát ra, thì cũng do sự va chạm của những vật vô tình
mà có. Như thế, thanh rõ ràng là một pháp hữu vi, có tạo tác. Mà đã
là hữu vi, thì thế nào cũng vô thường. Vả lại, vật sinh ra nó là sắc
kia đã là vô ngã, vô thường, thì nó không thể nào thường, là ngã được.
Cho đến hương, vị, xúc, pháp cũng
đều là vô thường, vô ngã như sắc, thanh cả. Chúng chỉ như làn gió thoảng
qua, như màn sương phảng phất, đã vô hình lại bất định, nên sự vô
ngã của chúng lại càng rõ rệt hơn sắc, thanh nhiều.
c) Sáu thức là ngã căn? Như
đoạn trên đã nói, thức là sự nhận biết do căn và trần đối nhau mà
có. Điều ấy đã chứng minh rằng thức không thật có. Nói một cách
đơn giản thì thức là do căn và trần đối nhau mà thành, nhưng nếu chia
chẽ một cách rốt ráo theo duy thức học, thì thức sỡ dĩ có được còn
là nhờ nhiều nhâ duyên khác nữa. Chẳng hạn như nhãn thức, sanh khởi
được là nhờ chín duyên sau đây:
Không: là khoảng trống không, cách
biệt giữa căn và cảnh vật.
Minh: là ánh sáng soi chiếu bởi mặt
trời, trăng, sao, hay đèn đóm.
Căn: là chỗ nương tựa của thức.
Cảnh: là các sự vật mà căn duyên
được.
Tác ý: là sự mong muốn được thấy.
Phân biệt y: là chỗ nương để phân
biệt, tức là ý thức, hay thức thứ sáu.
Nhiễm tịnh y: là thức thứ bảy
hay là tiềm thức.
Căn bản y: là thức thứ tám.
Chủng tử: bản năng sẽ được phát
sinh.
Để có một ý niệm rõ ràng hơn về
nhãn thức, chúng tôi xin giảng giải chín duyên trên ra như sau:
Khi mắt ta thấy một vật gì, nó
phải ở cách vật ấy gần hay xa (không ), khi thấy là ban ngày, hay ban đêm
có trăng, sao, hoặc pha đèn (minh). Sự thấy ây dĩ nhiên là phải từ con mắt
mà có (căn) và đồng thời, lúc đó phải có vật gì mới thành sự thấy
(cảnh). trước lúc thấy, ta đã có ý muốn ngó rồi (tác ý). Tác ý đây
lại do ý thức đã khởi động trước (phân biệt y). ý thức lại phải nương
thức thứ bảy, vì là căn của nó (nhiễm tịnh y). Thức thứ bảy lại
luôn luôn và chấp thức thứ tám là ngã (căn bản y). Thức này lại là nơi
dung chứa các thức chủng tử. Chủng tử là cái nhơn chánh để có ra sự
vật.
Xét từ trong đến ngoài, từ duyên
đầu đến duyên chót, nhãn thức đã không có mảy may gì là chơn thật cả.
Các thứ kia như nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức cũng như vậy cả; nhưng
ít duyên hơn, như nhĩ thức thì chỉ có tám duyên (vì không có Minh: nghe
không cần có ánh sáng). Còn tỹ, thiệt và thân thức, thì chỉ bảy duyên
(vì không cần có Minh và Không). Ý thức thì chỉ có năm duyênm, là: căn,
cảnh, tác ý, căn bản y, chủng tử.
Xem thế thì đủ rõ sáu thức đều
là không thật, nghĩa là cũng vô ngã như sáu căn và sáu trần.
Tóm lại, từ căn thân cho đến thế
giới, gồm trong mười tám giới, đều không thật có, không thật ngã.
Hành tướng do nhân duyên hòa hợp thì có, những thật thể thì hoàn toàn
không.
IV. HIỆU QUẢ CỦA
PHÁP QUÁN GIỚI PHÂN BIỆT
Pháp quán giới phân biệt có công
năng phá tan cái ngã không còn manh giáp. Cái ngã đã bị tấn công đủ mọi
mặt, từ ngoài vào cho đến tận sào huyệt, và cuối cùng, bị phân tán,
chia xẻ, phanh phui cho đến mảy mún. Từ trước đến nay, cái ngã chấp sỡ
dĩ hoành hành được là nhờ núp vào bóng tối của si mê. Từ nay phán
quán giới phân biệt như là một ngọn đèn pha chiếu sáng cả vòm trời u
tối làm cho cái hình bóng giả dối là cái ngã cũng tan biến như,ấy khói.
Ngã chấp đã không còn, thì ngã ái, nãg mạn cũng không biết nương tựa
vào đâu để tồn tại. Nói một cách khác, phiền não, ác nghiệp, khổ
đau, do ngã chấp mà sanh. Nay ngã chấp đã bị diệt, thì phiền não khổ
đau cũng sẽ hết. Phiền não, khổ hết thì an vui, tự tại tức thời hiện
ra. Đó là cái kết quả chắc chắn thật đầu tiên của pháp quán giới
phân biệt.
Rồi từ sự an vui, tự tại tương
đối ấy, hành giả sẽ cố gắng tiến dần trên đường đạo. Càng tiến,
hành giả càng sáng suốt thêm, càng nhận rõ thêm chân lý. Hành giả sẽ dần
dần chứng được các quả vị Tu đà hoàn, Tu đà hàm, A na hàm, A La Hán.
Nhưng hành giả cũng không dừng lại ở các quả vị ấy. Hành giả không
cố chấp ở quả vị đã chứng được của mình, do đó sẽ giải thoát
được tam giới, làm bực Thanh văn, Duyên giác.
Nếu hành giả cố gắng tu thêm, đến
khi không còn chấp trước các pháp mình tu, mà chỉ coi đó như là ngón tay
chỉ mặt trăng, như liều thuốc trị bệnh, chỉ cần trong lúc đau, nếu cố
gắng tu được như thế, thì hành giả sẽ đến bực "Vô trí, vô đắc",
tức là chứng được đạo quả vô thượng Bồ đề.
C. KẾT LUẬN
Chúng ta đã thấy rõ công năng, diệu
dụng và hiệu quả tốt đẹp của pháp giới phân biệt. Những thấy được
,mặc dù dã là quý, mà làm được mới thật là quý hơn. Trong trên, chúng
tôi đã hai ba lần nhấn mạnh ở những chữ "nếu cố gắng..."Thật
thế, nếu không cố gắng thì đâu sẽ hoàn đó, và cái ngã, mặc dù giả
dối, vẫn còn tồn tại mãnh liệt và tác oai, tác quái như thường. Cái
chấp ngã được tạo dựng và củng cố từ muôn ngàn kiếp, mối khi một
ít, những lâu ngày trở thành rắn chắc, như những vỏ nghêu, vỏ ốc
bám vào mõm đá. Ngày nay chúng ta được may mắn đức Bổn sư chỉ bày
pháp quán giới phân biệt, để cho chúng ta thấy được cái giả tướng của
nó. Những đâu phải chỉ quán năm bảy lần, hay vài ba chục lần là
thành tựu? Cái ngã được bồi đắp lâu đời lâu kiếp, thì công phu tu
luyện để phá trừ nó cũng cần phải nhiều thời gian. Lý trí có thể chấp
nhận dễ dàng không có thật ngã, nhưng tình cảm đâu có chấp nhận dễ
dàng như thế? từ trước đến nay ta đang tin tưởng quí chuộng, cưng dưỡng
cái ngã, bỗng hôm nay có người bảo rằng nó không có, nó không thật,
thì thế nào tình cảm cũng nổi dậy phản dối, bịt tai không muốn nghe,
bịt mắt không muốn thấy. Ta phải cần nhiều kiên nhẫn lắm, may ra mới
thuyết phục được tình cảm. Những trận giặc chiến đấu với cái
ngã, đến giai đoạn này, đâu phải đã chấm dứt ! Cái ngã chưa đầu hàng
mà lui vào sào huyệt sâu kín nhất, vào "mật khu" nguy hiểm nhất
là tiềm thức hay nói theo danh từ Duy thức học là thức thứ bảy. Sự chấp
ngã ở đây có một hình thức toàn diện, vô cùng bén nhậy, như trong mật
khu của mỗi người dân, từ trẻ đến già, từ đàn ông, đàn bà đến
con nít, là một chiến sĩ; và khoảng đất, mỗi lùm cây mỗi cành lá là
một cạm bẫy làm trở ngại rất lớn cho sự chiến đấu chống cái ngã.
Sự chấp ngã của tiền thức hay vô thức diễn ra trong mỗi cử chỉ mỗi
hành động, trong thức cũng như trong khi ngủ, trong khi lành mạnh cũng như
trong khi mê sảng, trong khi sống cũng như trong khi chết (theo thần0thức và
đi đầu thai). Lực lượng của địch (chấp ngã) mạnh mẽ và hùng hậu
như thế đấy. Chúng ta cần phải hiểu rõ trước khi chiến đấu. Biết mình,
biết người, trăm trận trăm thắng.
Chúng ta không bao giờ được phép
khinh địch. Phải chuẩn bị đầy đủ trước khi chiến đấu. Và trong khi
chiến đấu phải quyết tâm và kiên nhẫn. Với hai điều kiện căn bản
ấy, chắc chắn hành giả sẽ thành công trong cuộc chiến đấu, dẹp tan cái
ngã tên giặc nguy hiểm nhất trong mỗi chúng ta, và cầm đầu các tên giặc
khác là: tham, sân, si. Trừ được tên đầu đảng này là hành giả đã
hoàn toàn thành công trong trận giặc chống phiền não, khổ đau và bắt đầu
bước lên đài giải thoát.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/069-tth-phanbiet.htm