- BÁT CHÁNH ĐẠO
- Cư-sĩ Chính-Trực
Trong cuộc đời đau khổ, trên thế
gian này, khi gặp những việc tai biến, những sự bất trắc, những chuyện
bất như ý, con người thường có khuynh hướng, cầu nguyện van xin, tổ tiên
ông bà, thánh thần thiên địa, ngọc hoàng thượng đế, Bồ Tát Phật Tổ,
từ bi gia hộ, thương xót cứu giúp, cho được bình yên, tai qua nạn khỏi.
Nhưng thực ra, chúng ta ai ai cũng hiểu rằng việc cầu nguyện chỉ có tác
dụng giúp cho con người được an tâm trong giây phút cầu nguyện đó
thôi. Có mấy ai cầu gì được nấy? Cầu xin không được đáp ứng, chẳng
lẽ thiên địa không bác ái, Bồ Tát không từ bi? Còn Đức Phật cứu độ
chúng sanh bằng cách nào, như thế nào?
Đạo Phật không chỉ dạy cầu
nguyện như là cứu kính. Theo quan niệm của Phật giáo, cầu nguyện được
xem như những lời chúc lành, những mong muốn thiết tha, với mục đích vị
tha bất vị kỷ, vì người không vì mình, một cách phát tâm đại từ bi.
Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho quốc thới dân an, chúng sanh an lạc.
Chúng ta làm được việc tốt gì, có được công đức hay phước báu
nào, cũng hồi hướng, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều trọn thành
Phật đạo. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho cha mẹ được mạnh khỏe
bình yên, sống lâu trăm tuổi. Song việc đó có được hay không, còn tùy
phước duyên của cha mẹ. Tuy nhiên, việc cầu nguyện như vậy cũng nói
lên được lòng hiếu thảo chân thành của chúng ta.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
- Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
- Thắp lên với Chánh Pháp.
Nghĩa là mọi người hãy tự mình
tích cực chuyển hóa thân tâm của mình, bằng cách cố gắng học hiểu
giáo lý của đạo Phật, đó là ngọn đuốc Chánh Pháp, soi đường chỉ lối,
giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau của cuộc đời, khi thực sự
đem áp dụng vào đời sống hằng ngày. Đó là cách duy nhất thập phương
tam thế chư Phật cứu độ chúng sanh. Người Phật Tử chân chánh cần
nên nhớ kỹ điều này.
* * *
Theo giáo lý của đạo Phật, con
người can đảm nhìn nhận sự thực là: cuộc đời khổ nhiều vui ít, nhưng
không tư tưởng tiêu cực, không bi quan yếm thế, không ngán ngẩm chán chường.
Trái lại, con người tích cực tìm phương cách để được giác ngộ và
giải thoát, không thụ động chấp nhận, không cầu nguyện van xin. Để giúp
chúng sanh được sống an vui, xả trừ triền phược, cắt đứt trói buộc,
dẹp tan phiền não, thoát ly đau khổ, trong tam tạng kinh điển, Đức Phật
thuyết minh "Bát Chánh Đạo".
Bát chánh đạo là phương pháp giản
dị, thích hợp với đời sống hằng ngày của chúng sanh, nhằm mục đích
cải thiện tâm lý, ngôn từ và hành động, giúp đỡ con người hiểu rõ
đâu là tà đạo, và sống theo chánh đạo. Bát chánh đạo giúp chúng sanh
hướng về, tiến đến một đời sống chí diệu cao siêu, hay ít ra cũng xây
dựng được đời sống an lạc và hạnh phúc. Vì vậy, bát chánh đạo còn
được gọi là bát thánh đạo.
Bát chánh đạo là con đường đưa
chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát, gồm tám điều chân chánh,
đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
* * *
1.- Chánh
Kiến
Trước hết, chúng ta nhận thức mọi
sự sự vật vật hiện hữu, tức là muôn pháp trên thế gian, khắp pháp
giới, đều do nhân duyên sinh, không trường tồn và sẽ biến diệt. Đó
là: "Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", hai chánh kiến quan
trọng mọi người cần thấu triệt.
A.- Thế nào là chánh kiến: Chánh
kiến là kiến thức chân chánh. Nghĩa là con người cần có sự hiểu biết
và sự nhận thức sáng suốt và hợp lý. Chánh kiến có ích lợi giúp con
người không sống trong mê lầm, điên đảo. Người có chánh kiến, thấy
như thế nào, thì nhận đúng như thế ấy, không thay đổi trắng đen, không
kỳ thị xấu tốt, không phê phán hay dở. Chánh kiến là sự hiểu biết
và nhận thức không bị tập quán, thành kiến, dục vọng hay tâm phân biệt,
ngăn che và làm sai lạc. Người có chánh kiến, hiểu biết tường tận, thế
nào là chánh tà, chơn ngụy, đại tiểu, thiên viên, nhưng luôn luôn sống
với tâm bình thường, tâm chính trực và tâm bất tùy phân biệt.
a) Lý nhân quả: Chúng ta ai ai cũng
biết: "Gieo nhân nào gặt quả nấy". Thí dụ như có hột cam gieo
xuống đất, gọi là "nhân", cộng thêm nước tưới, ánh sáng,
phân bón, công chăm sóc, gọi là "trợ duyên", chúng ta sẽ gặt
hái được "quả cam", sau một thời gian nào đó. Không thể nào
gieo hột cam ngọt lại gặt quả chanh chua được, hay ngược lại. Lý nhân
quả còn được gọi là lý nhân duyên.
* Không bao giờ có quả mà không
có nhân. Có mây mới có mưa, có lửa mới có khói, gieo gió mới gặt bão,
sinh sự thì sự sinh. Không thể nào tự nhiên có cái cây mọc lên, mà
không có hạt giống trong đất. Không thể có chuyện tự nhiên chúng tới
chửi mình, mà mình chẳng có làm gì hết, trong kiếp này hay những kiếp
trước! Đó là sự thực, là chân lý. Đó là lý nhân quả hay lý nhân
duyên. Nhận rõ quả báo của hành vi, ngôn từ và ý niệm của chính mình
như vậy, chúng ta sẽ không trách người, trách trời, trách đất gì hết,
chỉ biết trách mình, cho nên không còn phiền não và khổ đau nữa. Trái lại,
chúng ta tích cực sửa đổi tâm tánh, tu tâm dưỡng tánh, làm sao cho mỗi
ngày một tốt đẹp hơn, để cuộc đời được sáng sủa hơn, gia đình
được hạnh phúc hơn.
* Việc này sinh ra do việc kia đã
sinh ra. Không có chuyện gì xảy ra, dù lớn hay nhỏ, dù quan trọng hay bình
thường, mà không do có chuyện khác xảy ra trước đó. Thí dụ như chúng
ta có cái bánh để ăn, nguyên do trước đó có bột, có đường và có
công thợ, dĩ nhiên cũng do chúng ta có tiền mua, hoặc có người đem cho.
Thí dụ như: Cơ thể phát phì, nguyên do ăn uống quá độ. Nghèo túng,
nguyên do làm biếng. Bệnh tật, nguyên do thiếu vệ sinh. Con cái không có
tình thương đậm đà, nguyên do cha mẹ không thường xuyên chăm sóc, gần
gũi. Thiên hạ thù ghét, nguyên do lời nói khó nghe. Vợ chồng lục đục,
nguyên do thiếu sự cảm thông, thiếu sự hiểu biết, thiếu sự hòa hợp.
Ngoài ra, còn biết bao nhiêu nguyên do khác nữa.
* Muôn sự muôn việc trên thế gian
này đều do nhân duyên sinh. Mọi sự mọi việc không do ông trời, không do
một đấng tạo hóa đầy quyền năng nào tạo ra cả. Có người cho rằng:
chính con người sinh ra thượng đế, bởi vì thượng đế chỉ là sản phẩm
do con người tưởng tượng mà thôi. Mỗi đạo giáo, mỗi dân tộc, mỗi
thời gian, có mỗi quan niệm khác nhau về thượng đế. Thượng đế, nếu
có thực, không thể để cho các người thế gian lợi dụng danh nghĩa và
phải là đấng chí công vô tư. Tại sao lại có những chuyện: trời thương
người này hơn người kia, cho người này sung sướng hơn người kia, người
này sinh ra khỏe mạnh, trong cảnh giàu sang, người kia sinh ra tật nguyền,
trong cảnh nghèo khó, dân tộc này giàu sang sung sướng, dân tộc khác
nghèo nàn khổ cực?
Theo giáo lý của đạo Phật, sở
dĩ người này khác người kia về phương diện này hay phương diện nọ, bởi
vì mỗi người tạo tác nghiệp nhân khác nhau, cho nên nhận nghiệp quả
khác nhau. Cũng như người làm bánh thì ăn bánh, người nấu chè thì ăn chè.
Chính mình làm mình hưởng. Chính mình làm mình chịu. Đó mới thực là
chí công vô tư vậy.
b) Lý vô thường: Chúng ta ai ai cũng
biết: "Có sinh ắt có diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật trên thế
gian này đều không tồn tại vĩnh viễn.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng".
Nghĩa là bất cứ vật nào có hình
tướng, nhìn thấy được bằng cặp mắt thường, lớn như quả núi, tòa
nhà, nhỏ như tấm thân chúng ta, như hạt cải, hạt cát, tất cả đều
hư vọng, đều trải qua bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị, diệt". Mọi
vật sinh ra, trụ thế một thời gian ngắn dài, rồi cũng biến dị và cuối
cùng cũng bị diệt mất! Thí dụ như: Cây bông hồng từ hạt giống trong
đất sinh ra, mọc lên, trổ hoa. Hoa hồng khoe hương sắc, ít ngày sau héo
úa, tàn lụi, trở thành phân bón cho bông hồng khác sau này. Cuộc đời cứ
như thế tiếp diễn không ngừng, đạo Phật gọi là "sự luân hồi",
cũng như bánh xe quay mãi, quay mãi vậy.
Hiểu được như vậy, khi của cải
vật chất, xe hơi đồ đạc bị mất mát hư hao, khi con cái lỡ tay đập bể
hay làm hư hại vật gì, dù quí giá đến đâu, thậm chí khi người thân
đến lúc qua đời, chúng ta sẽ không khổ đau nhiều. Hiểu được như vậy,
khi gặp một việc tai biến, một sự bất trắc, một chuyện bất như ý,
thậm chí tán gia bại sản, người thân biến thành kẻ thù, chúng ta cũng
sẽ không đau khổ nhiều. Chuyện gì rồi cũng sẽ qua, có gì tồn tại
mãi mãi đâu mà cố chấp, tranh đua hơn thua, cái mạng sống này còn không
giữ được nữa, huống là thứ gì khác trên đời này? Có ai sống mãi
không chết? Có ai trẻ mãi không già? Có ai khỏe mãi không đau? Đó là lý
vô thường.
Sách có câu: Bèo hợp rồi tan, trăng
tròn rồi khuyết. Cuộc đời cứ như thế xoay vần đổi thay, không bao giờ
dừng. Thường xuyên quán chiếu, tin sâu "Lý Nhân Quả" và "Lý
Vô Thường", cuộc đời của con người sẽ an lạc và hạnh phúc hơn.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật
có dạy:
- Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sinh.
- Nhân duyên ly tán hư vọng hữu diệt.
Nghĩa là: Muôn sự muôn vật trên
thế gian này do nhân duyên hình thành, tạm gọi là sinh. Muôn sự muôn vật
do nhân duyên tan rã, tạm gọi là diệt. Thí dụ như: Một chiếc xe mới
được hình thành do tất cả các bộ phận, các phụ tùng ráp lại, tạm gọi
là sinh. Đến khi xe hư, các phụ tùng, các bộ phận được tháo rời ra,
chiếc xe không còn nữa, tạm gọi là diệt. Thí dụ khác: Tấm thân tứ đại
của chúng ta cũng vậy, hình thành do đất, nước, gió, lửa, tạm gọi là
sinh. Sống đời một thời gian nào đó, khi hết nhân duyên, thì cát bụi
trở về với cát bụi, tạm gọi là chết. Tại sao vậy? Bởi vì khi đó,
chính là lúc chúng ta bắt đầu một kiếp khác. Bánh xe luân hồi đang chuyển
động đó vậy.
B.- Thế nào là tà kiến: Ngược lại,
tà kiến là sự hiểu biết và nhận thức sai lầm. Theo quan điểm của Phật
giáo, cho sự hiện hữu của tự thân và hoàn cảnh đều là tự nhiên,
không có quả báo cùng nhiều duyên khác tập hợp, đó là tà kiến và mê
tín. Chấp thượng đế tạo vật, phủ nhận nhân quả nghiệp báo, chủ trương
định mệnh, phủ nhận kết quả của hành nghiệp, đó là tà kiến và mê
tín. Quan niệm thương ghét khác biệt giữa người và người, giữa người
và vật, coi thú vật sinh ra để nuôi sống con người, đó là tà kiến và
mê tín.
Cố chấp thành kiến, quan niệm
phân biệt phải trái, đúng sai cố định, đi tới kết luận, người nào
không tin theo tín ngưỡng như mình, đều phải bị trừng trị nghiêm khắc,
phải bị đọa địa ngục đời đời, đó là tà kiến và mê tín. Chấp
theo thần thoại, đồng bóng bói toán, xem sao giải hạn, định hướng nhà
cửa, tin bướng tin càn, tin vô căn cứ, làm bể cái gương, điềm không
may mắn, đầu năm quét nhà, tài lộc ra cửa, mùng năm mười bốn hăm ba của
dân ta, con số 13 của dân tây, cho là xui xẻo, đó là tà kiến và mê tín.
Đốt vàng mã, tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, áo quần, hình nhơn bằng giấy,
cho người chết xài dưới âm phủ, đó là tà kiến và mê tín. Không may
đau bệnh, không khám bác sĩ, không đi bệnh viện, không muốn uống thuốc,
không chịu kiêng cữ, lại đi xem bói, thỉnh bùa chú giấy, đem về đốt
uống, nước tiên nước thánh, nước suối nước sông, chẳng hạp vệ
sinh, cũng đem về uống, đó là tà kiến và mê tín.
Nói chung, những điều gì phản
khoa học, trái với chân lý, không theo lý trí, chẳng thể xét suy, không thể
kiểm chứng, đều được gọi là tà kiến và mê tín. Tà kiến và mê tín
thường có nơi những người có lòng cố chấp nặng nề, chấp ngã và chấp
pháp, dù người bình dân, hay kẻ học thức, ở ngoài thế gian, cũng như
trong đạo. Đức Phật ra đời, thuyết pháp độ sinh, phá màn vô minh, dẹp
tan tà kiến, mê tín dị đoan, chỉ nhằm mục đích, khai thị chúng sanh, ngộ
nhập trí tuệ bát nhã, trong Kinh Pháp Hoa, gọi là Tri Kiến Phật, để được
giác ngộ và giải thoát.
2.-
Chánh Tư Duy
Sách có câu: "Bình an dưới thế
cho người thiện tâm". Người thiện tâm luôn luôn nghĩ tốt, nghĩ đúng,
nghĩ thiện, cho nên làm tốt, làm đúng, làm thiện, và nói tốt, nói đúng,
nói thiện. Người thiện tâm là người có tâm trí luôn luôn được bình
an, thảnh thơi, thư thái.
A.- Thế nào là chánh tư duy: Chánh
tư duy là sự suy nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người cần phải nghiệm xét,
nghĩ suy, quán chiếu một cách đúng đắn, hợp với chân lý, không trái với
lẽ phải, có lợi cho mình và cho người. Chúng ta thường xuyên suy nghĩ đến
"giới, định, tuệ" để tu tập giải thoát, suy nghĩ nguyên nhân
gây đau khổ cho chúng sanh, để giải thích và khuyến tu, suy nghĩ những hành
vi lỗi lầm, những lời nói sai trái và những tâm niệm xấu xa của chính
mình để sám hối và cải đổi. Tất cả những điều đó gọi là chánh
tư duy.
Chư Tổ có dạy: "Phản quan tự
kỷ bổn phận sự".
Nghĩa là quay lại chiêm nghiệm, suy
xét, quán sát tự tâm chính mình là phận sự của chúng ta. Chánh tư duy có
ích lợi giúp con người không sống trong đen tối, không phạm lỗi lầm do
mê tín dị đoan.
Ngày xưa, thời Đức Phật còn tại
thế, có một người con của vị quốc sư, tên là Ma Ha Ca Chiên Diên, đến
với Đức Phật xin được xuất gia tu hành. Đức Phật hỏi nguyên do nào
ông phát tâm như thế. Ông trả lời rằng: Bởi vì ông chiêm ngưỡng 32
tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Đức Phật. Đức Phật bèn nói: Như vậy,
sau này khi thân tướng Như Lai già yếu, ông không còn phát tâm nữa sao? Lần
thứ hai, ông lại đến xin được xuất gia. Đức Phật lại hỏi nguyên
do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông tôn trọng pháp âm vi diệu của Đức Phật.
Đức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi Như Lai không thuyết pháp, ông
không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ ba, ông lại đến xin được xuất
gia. Đức Phật cũng hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông kính phục
chư tăng tu hành nghiêm túc, cẩn mật. Đức Phật bèn nói: Như vậy, sau này
khi tình cờ thấy vị tăng nào tu hành không như ý ông, ông không còn phát
tâm nữa sao?
Ba lần xin được xuất gia đều không
toại nguyện, dù ông hết lòng tán thán tam bảo bên ngoài: Phật, Pháp, Tăng.
Lần sau cùng, ông đến với Đức Phật và bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn,
từ lâu con đã nghe Thế Tôn thuyết pháp, con đã suy nghĩ tường tận chín
chắn. Sau đó, đem áp dụng cho bản thân, áp dụng trong gia đình, con thấy
có ích lợi thiết thực, tâm được khinh an, gia đạo được yên vui. Cho
nên con phát tâm xuất gia để tu hành rốt ráo, cho đến giác ngộ và giải
thoát, để tự lợi và lợi tha. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn rủ lòng từ
bi hứa khả. Lần đó, Đức Phật chấp nhận. Sau này, Đại Đức Ma Ha Ca
Chiên Diên trở thành vị đệ tử nghị luận bậc nhứt trong tăng đoàn thời
Phật.
Lời tác bạch của Đại Đức Ma
Ha Ca Chiên Diên mang ý nghĩa sâu sắc trong nhà Phật: Ngài đã nghe Đức Phật
thuyết giảng giáo lý, đã suy nghĩ một cách chín chắn tường tận, mới
đem áp dụng vào đời sống của Ngài và của gia đình. Đó chính là ba bước
"văn, tư, tu" để phát triển trí tuệ bát nhã. Văn có nghĩa là
nghe, là học hỏi, là nghiên cứu. Tư có nghĩa là tư duy, là suy nghĩ chân
chánh. Tu có nghĩa là sửa đổi, là thực hành, là áp dụng. Còn được gọi
là "Tam Tuệ Học" trong Phật giáo. Ba lần đầu, Ngài hướng lòng
tôn kính đến tam bảo bên ngoài, nên chưa được chấp nhận.
Sau cùng, Ngài biết "phản quan
tự kỷ", hướng về "tam bảo tự tâm", biết đường hướng
tu hành, để phát sanh trí tuệ. Nghĩa là Phật Tử biết hướng về bản tánh
sáng suốt của tự tâm gọi là Phật, hướng về pháp môn vi diệu của tự
tâm gọi là Pháp, hướng về bản thể thanh tịnh của tự tâm gọi là Tăng.
Do đó Ngài được chấp nhận, bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ và
giải thoát, con người đến với đạo Phật bằng cửa trí tuệ, chứ
không phải bằng niềm tin như các tôn giáo khác.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như
Lai". Đó chính là chánh tư duy vậy.
B.- Thế nào là tư duy bất chánh:
Ngược lại, sự suy nghĩ ích kỷ, lợi mình hại người gọi là tư duy bất
chánh. Người nào suy nghĩ đến chuyện tà thuật để mê hoặc lòng người,
suy nghĩ đến những phương cách sâu độc để hại người hại vật, suy
nghĩ đến mưu cơ để trả thù báo oán, suy nghĩ đến tài sắc danh vọng,
đều gọi là tư duy bất chánh. Người nào luôn luôn suy nghĩ đến chuyện
lợi mình hại người như vậy, chắc chắn cuộc sống không bình an, luôn
luôn bất ổn, hại người nên sợ người hại, gạt người nên sợ người
gạt.
3.- Chánh
Ngữ
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có
dạy: "Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời nói
phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người".
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng
Chánh Pháp, có ích lợi làm cho tâm người nghe được an tịnh".
A.- Thế nào là chánh ngữ: Chánh ngữ
là lời nói chân chánh. Nghĩa là con người nên nói lời thật thà lương
thiện, công bình ngay thẳng, công minh chính trực, có ích lợi chánh đáng.
Chánh ngữ là lời nói thành thật và sáng suốt; lời nói ngay thẳng hợp
lý, hòa nhã, rõ ràng và giản dị; lời nói ích lợi, dung hòa, khuyến tấn
và duy nhất. Chánh ngữ là lời nói hợp Chánh Pháp, có ích lợi, đem lại
hòa bình, yên vui cho mọi người mọi nơi. Người giữ gìn chánh ngữ là
người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự
thực, không thiên vị, không xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he
hù dọa.
Cổ nhân có dạy: "Hãy uốn lưỡi
bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần thì khỏi nói
luôn. Lúc đó gọi là ngộ đạo, bởi vì: "Đạo bổn vô ngôn thuyết",
bởi vì: "Ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là đạo lý cao siêu, vốn
không thể nói, không có lời nào diễn đạt được. Khi còn nói lên được,
đó chỉ là phương tiện hướng dẫn mà thôi. Cho nên muốn kiến đạo, đừng
chấp lời nói, đừng chấp văn tự. Thí dụ như có người dùng ngón tay
để chỉ mặt trăng cho người khác thấy. Ngón tay chỉ là phương tiện. Mặt
trăng mới là mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng gọi là thấy
đạo, kiến đạo. Cho nên muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón tay thế
này thế nọ.
Tục ngữ có câu: "Lời nói
không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Trong xã hội
hay gia đình, nếu mọi người đều thực hành hai câu trên, xã hội sẽ an
vui, gia đình sẽ hạnh phúc. Vợ chồng con cái trên thuận dưới hòa, cộng
đồng trên kính dưới nhường, cuộc đời tươi đẹp biết là bao nhiêu.
Một lời nói nói ra làm cho người nghe hoan hỷ, nụ cười tươi tắn, tâm
trí khinh an, đó gọi là chánh ngữ vậy.
B.- Thế nào là tà ngữ: Ngược lại,
lời nói bất chánh hay tà ngữ là lời nói không chánh đáng, phi lý, tổn
hại đến đời sống cùng danh dự của người. Một lời nói ra có khi
làm người nghe phải xức dầu cù là, nhức óc nhói tim, có khi ngất xỉu
tắt thở luôn, đó là lời nói sâu độc, hiểm ác, đay nghiến, nguyền rủa,
nhiếc mắng, thô tục. Một lời nói ra có khi làm tan vỡ hạnh phúc gia đình
người khác, đó là lời nói đặt điều thêm bớt, thay trắng đổi đen,
nước lã khuấy nên hồ, lộng giả thành chơn, có nói không, không nói
có.
Một lời nói ra có khi làm người
khác mang họa vào thân, đó là lời nói vu khống cáo gian, vu oan giá họa
cho người. Một lời nói ra có khi làm người khác lầm lẫn, đó là lời
nói không đúng sự thực, không ngay thẳng, thiên vị, dua nịnh, xuyên tạc,
ngụy biện, trau chuốt, với mục đích thủ lợi. Một lời nói ra có khi
làm người khác xung đột oán thù, thưa gởi kiện tụng, đó là lời nói
dối trá, gây chia rẽ, đâm bị thóc thọc bị gạo, có di hại cho mọi người
và muôn vật. Những người có nhiều tự ái, thường khó lòng nhịn được
khi nghe những lời nói trái ý, không thuận theo ý mình, thường hay tranh cãi
bằng mồm hoặc bằng thư rơi.
Có những lời nói vô nghĩa, nhưng
cũng có thể làm cho người khác bực mình, tức giận, bất an. Chẳng hạn
như có người nói mình ngu như con bò mà bày đặt dạy đời. Lời nói đó
thực ra vô nghĩa lý, bởi vì mình không ngu, mình không phải là con bò, cho
nên không cần phải quan tâm đến những lời nói như vậy. Trong Pháp Tứ
Y, Đức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là chúng ta chỉ
nên quan tâm đến ý nghĩa, không nên chấp vào lời nói. Được như vậy,
chúng ta bớt nhiều phiền não trên thế gian này.
4.-
Chánh Nghiệp
Con người thường có ba nghiệp, đó
là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ở đây, chúng ta chỉ bàn về
thân nghiệp. Còn khẩu nghiệp thuộc phần chánh ngữ và ý nghiệp thuộc
phần chánh niệm.
A.- Thế nào là chánh nghiệp: Chánh
nghiệp là nghề nghiệp và hành động chân chánh. Nghĩa là con người nên
chọn nghề nghiệp chân chánh, hành động một cách ngay thật, có ích lợi
chánh đáng cho mình và cho người. Chánh nghiệp có ích lợi giúp con người
mang lại bình an, hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người xung quanh.
Người giữ gìn chánh nghiệp là người
dè dặt thân nghiệp, luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành động, cử
chỉ, cách cư xử của mình, để không làm thương tổn đến quyền lợi,
nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc và tánh mạng của mọi người.
Người giữ gìn chánh nghiệp là người hành động theo lẽ phải, biết tôn
trọng quyền sống và hạnh phúc của mọi người và muôn vật, tôn trọng
nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản của mọi người, không trác táng, tận
tâm với chức nghiệp, biết hy sinh để giải thoát khổ đau cho mọi người.
Người giữ gìn chánh nghiệp là người giữ gìn tam nghiệp được thanh tịnh.
Kinh sách có câu:
- Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
- Đồng Phật vãng tây phương.
Nghĩa là nếu biết giữ gìn tam
nghiệp luôn luôn được thanh tịnh, chúng ta cùng với chư Phật, hiện đời
sống trong cảnh giới niết bàn, tự tại giải thoát, không phiền não, chẳng
khổ đau, không sợ địa ngục, chẳng cầu niết bàn.
B.- Thế nào là tà nghiệp: Ngược
lại, tà nghiệp tức là hành vi hay động tác không chánh đáng, phi lý bất
lương, tổn hại mọi người. Ủó là các hành vi sát hại bạo tàn, giết
người hại vật coi như trò giải trí, thú vui tiêu khiển, vui thích trên sự
đau đớn của con người và của con thú, trộm cắp của cải, chiếm đoạt
tài sản, xúi giục kiện thưa, thưa kiện kiếm tiền, ăn chơi trụy lạc,
xa hoa trác táng, khuyến khích người khác xa hoa trác táng, thượng đội hạ
đạp, giẫm lên người khác để tiến thân, bất chấp thủ đoạn, đe dọa
mạng sống, sáng tác thư rơi, nặc danh khủng bố, tinh thần người khác.
5.-
Chánh Mạng
Có một vị thiền sư khi tuổi đã
cao, vẫn cứ ngày ngày làm lụng như mọi người khác, các đệ tử thấy
vậy bèn đem giấu các dụng cụ làm việc của thầy. Ngày đó, vị thiền
sư không làm việc được, nên chẳng chịu ăn uống, và dạy rằng: "Một
ngày không làm là một ngày không ăn".
A.- Thế nào là chánh mạng: Chánh mạng
là mạng sống chân chánh. Nghĩa là con người cần sinh sống một cách
chánh đáng, có đời sống lương thiện, ngay thật, trong sạch, không bạo
tàn, không hèn mạt. Chánh mạng có ích lợi giúp con người có cuộc sống
bình đẳng, tương kính, không bị rẻ khinh. Người giữ gìn chánh mạng
là người sống một cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình, lợi người, không
ăn bám ai, cũng chẳng ăn không ngồi rồi. Người theo đúng chánh mạng là
người sinh sống theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh phúc
của mọi người, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản, tận lực
làm việc, không tổn hại mọi người và muôn vật, sinh sống với tài năng
chân chánh, không giả dối lừa gạt mọi người, sinh sống thanh cao không
luồn cúi, không thượng đội hạ đạp, sinh sống theo chánh giáo, không
mê tín dị đoan.
B.- Thế nào là tà mạng: Ngược lại,
tà mạng là sinh sống bất lương, gian tham, không chánh đáng, phi lý, phạm
pháp, có tổn hại trực tiếp hay gián tiếp đến mọi người, làm tổn hại
chúng sanh, giết thú lột da, cưa ngà xẻ thịt, moi óc bẻ sừng, vặt lông
làm đồ trang sức, may áo may quần, cúng trăng cúng sao, tiên đoán vận mệnh,
xem quẻ bói xăm, coi tuổi tình duyên, tương lai gia đạo, ăn gian nói dối,
lường gạt mọi người, giao dịch gạt gẫm, sáng chế vũ khí, giết người
hại vật, chế đồ giả mạo. Quan niệm một ngày ăn cướp bằng ba năm làm,
sống theo lối nước đục thả câu, ngư ông hưởng lợi, đó là tà mạng.
6.-
Chánh Tinh Tấn
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:
"Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì khó. Ví như nước chảy
mãi, đá cũng phải mòn".
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức
Phật có dạy: "Người học đạo phải nên kiên tâm, trì chí, tinh tấn,
dũng mãnh, không sợ cảnh khổ trước mắt, phá diệt tà tâm, đạt thành
đạo quả".
A.- Thế nào là chánh tinh tấn:
Chánh tinh tấn là sự siêng năng chân chánh. Nghĩa là con người siêng năng
làm những việc có ích lợi cho mình và cho người. Chánh tinh tấn có ích
lợi giúp con người cải tạo thân tâm ngày một thanh tịnh, tốt đẹp
hơn, cuộc đời có ý nghĩa hơn. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ cũng
phản quan tự kỷ, quay lại xét mình, siêng năng chuyển hóa tâm trí, cải
đổi tánh tình.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức
Phật có dạy:
- Chư ác mạc tác.
- Chúng thiện phụng hành.
- Tự tịnh kỳ ý.
- Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là: Không bao giờ nên làm
các điều ác, các điều bất thiện, dù là nhỏ nhặt. Luôn luôn tinh tấn
làm tất cả các điều thiện, dù là điều thiện rất nhỏ. Tự thanh tịnh
tâm ý của chính mình. Đó là lời dạy của thập phương tam thế chư Phật.
Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ cũng siêng năng sám hối, trừ bỏ
những lỗi lầm tội ác đã sinh, siêng năng tu tập các pháp lành, ngăn ngừa
tội ác chưa sinh, siêng năng làm việc thiện để tạo thêm phước, phát
triển việc lành, siêng năng tu tâm dưỡng tánh, việc thiện chưa sinh làm
cho phát sinh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vậy, không hề đổi
thay, không chút chán chường.
Sách có câu: "Có công mài sắt
có ngày nên kim", nói lên sự kiên tâm bền chí, nhẫn nại phi thường,
trải qua thời gian năm tháng, không sờn lòng, không khuất phục, để đạt
cho bằng được mục đích cao cả của mình. Người tu theo hạnh tinh tấn
của Bồ Tát Đại Thế Chí, làm các việc thiện, cứu người giúp đời,
không biết mệt mỏi, không hề nản lòng, không màng tính toán, không chút
so đo, không chịu ngừng nghỉ, mặc dù đang gặp nghịch cảnh, đang mắc
khổ nạn, đang gặp oán thù, mặc dù có gặp người lấy oán báo ân, cũng
vẫn bình thản. Đó là chánh tinh tấn vậy.
B.- Thế nào là tinh tấn bất
chánh: Ngược lại, có rất nhiều người siêng năng làm những việc bất
chánh. Đó là những người chuyên sát nhơn hại vật, gian xảo trộm cắp.
Có những người siêng năng trong các việc dối trá hiểm độc, sáng tác
thư rơi, dua nịnh xuyên tạc, rượu chè cờ bạc, xa hoa phung phí, phỉ
báng mọi người. Cũng có những người siêng năng bới lông tìm vết, vạch
lá tìm sâu, soi mói đời tư, viết thư nặc danh, ngụy tạo chứng cớ,
thưa gởi kiện tụng, làm khổ chúng sanh.
7.-
Chánh Niệm
Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật có
dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động,
dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng
bồ đề".
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Không hạnh phúc nào có thể so sánh với sự yên tĩnh của tâm
trí".
A.- Thế nào là chánh niệm: Chánh
niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người có những ý niệm
chánh đáng, những đạo lý giác ngộ và giải thoát. Chánh niệm có ích lợi
giúp con người sống trong an ổn, yên vui, không tạp niệm, ngày ăn ngon, tối
ngủ yên. Người giữ gìn chánh niệm là người dè dặt với ý nghiệp,
luôn luôn nhớ nghĩ tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân đất nước,
ân mọi người, nhớ nghĩ lỗi lầm để sửa đổi. Người giữ gìn chánh
niệm là người sống trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc. Để giúp giữ
gìn chánh niệm, Đức Phật có dạy bốn phương pháp tập trung tư tưởng
như sau: quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán
pháp vô ngã. Các pháp quán tưởng này trong kinh sách gọi là "Tứ niệm
xứ". Tứ nghĩa là bốn. Niệm nghĩa là thường nhớ nghĩ. Xứ nghĩa là
nơi chốn.
a) Quán thân bất tịnh: Nghĩa là
quán tưởng thân mình là tập hợp những thứ bất tịnh, không trong sạch,
nhơ nhớp, được bọc ngoài bởi lớp da cũng chẳng mấy gì sạch sẽ cho
lắm. Khi mạnh khỏe thì còn tạm tạm. Khi ốm đau, tai nạn, bệnh hoạn,
già nua, thân mình nhơ nhớp, máu mủ tanh hôi, ghẻ chốc gớm ghiếc, da dẻ
nhăn nhúm, đến lúc tắt thở, sình chương hôi thúi, không ai chịu nổi!
Món ăn dù ngon, đưa vô miệng rồi, lỡ rớt ra ngoài, không dám ăn lại!
b) Quán thọ thị khổ: Nghĩa là
quán tưởng sự cảm thọ, thọ nhận là khổ. Do tâm tham lam, con người thọ
nhận đủ thứ vật chất của cải để vinh thân phì gia, không cần biết
của thọ nhận chính hay tà, bo bo giữ gìn, đến lúc chết, sinh lòng tiếc
của, nhắm mắt không yên. Do tâm sân hận, con người thọ nhận đủ thứ
lời nói khó nghe, dù vô nghĩa, để bực dọc, tức tối, bất an, sinh lòng
thù oán. Do tâm si mê, con người thọ nhận những tư tưởng mười năm báo
thù không muộn, do điều gì bất như ý, chạm chút tự ái, cũng hăm he
thưa kiện, nhứt định trả thù, để rồi gây ra biết bao nhiêu đau khổ
cho người, dù thân hay thù. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì khổ nhiều,
chấp nhiều thì mệt nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ thì thư thái.
Chuyện rất đơn giản, thực hành không dễ dàng, nhưng không phải bất khả.
c) Quán tâm vô thường: Nghĩa là
quán tưởng cái tâm nhỏ hẹp của mình luôn luôn thay đổi, mới nghĩ thế
này liền nghĩ thế khác, lúc thương yêu đắm đuối lúc thù hận ngập
tràn, lúc thân lúc thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc hiền
thiện lúc gian tà. Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần bên
ngoài, kinh sách gọi là tâm phan duyên. Cảnh trần bên ngoài thuận ý, vừa
tai thì vui thích. Cảnh trần bên ngoài nghịch ý, chói tai thì tức tối. Nếu
chỉ chạy theo sự sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, con người
tạo tác không biết bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân
trong sinh tử không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!
Trong kinh sách có câu: "Đối cảnh
vô tâm mạc vấn thiền". Nghĩa là khi nào tâm của chúng ta không còn
dính với cảnh trần nữa, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng trầm của
đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng chê, vượt qua được
sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm của chúng ta sẽ được khinh an,
tự tại, niết bàn và thiền định rồi đó vậy.
d) Quán pháp vô ngã: Nghĩa là quán
tưởng các pháp trên thế gian này đều không có bản thể nhứt định, gọi
là vô ngã. Các pháp, là tất cả sự sự vật vật trên cuộc đời, không
có cái gì cố định. Tất cả chỉ là một dòng chuyển biến không ngừng.
Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi cũng đổi thay, rồi cũng qua
mau. Đừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp của thế gian. Chẳng hạn
như có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", hoặc: "sau
cơn mưa trời lại sáng".
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
- Chư pháp tùng nhân duyên sanh.
- Chư pháp tùng nhân duyên diệt.
Nghĩa là muôn sự muôn vật trên đời
tùy theo nhân duyên mà sanh ra, cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không
có cái gì, vật gì có thực tướng, không có cái gì, vật gì tồn tại vĩnh
viễn. Người ta chửi mình do mình gây nghiệp bất thiện cảm với người.
Người ta chửi mãi mỏi miệng thì cũng ngưng thôi, tức giận làm chi cho mệt!
Đừng đưa cái bản ngã của mình, tức là cái tôi, cái ta, tây phương gọi
là "EGO", ra hứng những ngọn lửa của thế gian, thì mình đâu có
bị đốt cháy, đâu có bị nhiệt não, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị
ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ngọn lửa không thể đốt hư không
được, sẽ tự dập tắt thôi. Vô ngã đơn giản là như vậy đó!
B.- Thế nào là tà niệm, tạp niệm,
vọng niệm: Ngược lại, tà niệm là những ý niệm không chánh đáng, vọng
niệm là những ý niệm hư dối, tạp niệm là những ý niệm lung tung linh
tinh lang tang. Những người luôn luôn nhớ nghĩ lỗi người để phê bình
chỉ trích, nhớ nghĩ oán thù để phục hận trả thù, nhớ nghĩ ngũ dục:
tiền tài, nhan sắc, danh vọng, ẩm thực, thùy miên, luôn nhớ nghĩ đến
những thành tích xấu xa, gian giảo, để tự hào tự đắc, đó gọi là
tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm.
Chư Tổ có dạy:
- "Nội cần khắc niệm chi công.
- Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là: Bên trong, chúng ta cố gắng,
khắc phục tâm niệm, lăng xăng lộn xộn, giữ gìn chánh niệm, chăn giữ
ý nghiệp, đó mới thực là: công phu tu tập, đúng theo Chánh Pháp. Bên
ngoài, chúng ta cố gắng, giữ gìn chánh ngữ, canh chừng khẩu nghiệp,
không thích tranh cãi, không thèm hơn thua, đó là đức độ, người tu theo
Phật. Cho dù có bị phỉ báng, có gặp nghịch cảnh, cũng vẫn bình tĩnh
thản nhiên, ngoài mặt cũng như trong lòng, không khởi lên bất cứ tâm niệm
gì cả.
8.-
Chánh Định
Muốn được cuộc sống an lạc và
hạnh phúc, chúng ta phải khắc phục tâm ý của chính mình. Khắc phục
tâm ý và an trụ tâm ý là mục đích chính yếu của người tu theo đạo
Phật. Chế ngự được, khắc phục được tâm viên ý mã, tức là tâm như
con vượn, ý như con ngựa nhảy nhót lung tung, chúng ta mới đạt được chánh
định, đó là cảnh giới niết bàn, an nhiên tự tại, không khổ đau, chẳng
phiền não.
A.- Thế nào là chánh định: Chánh
định là sự thiền định chân chánh. Nghĩa là con người tập trung tư tưởng
vào một vấn đề chánh đáng, đúng với chân lý, hợp với lẽ phải. Người
đạt được chánh định là người bình tĩnh, thản nhiên trước bát phong
của cuộc đời. Chánh định có ích lợi giúp con người phát triển trí
tuệ, mau tiến đến giác ngộ và giải thoát. Tâm trí của con người thường
xuyên lăng xăng lộn xộn, nhớ nghĩ lung tung, linh tinh lang tang, không có dừng
nghỉ, từ đông sang tây, từ cổ chí kim, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ,
từ thế giới năm châu đến phụ nữ nhi đồng, từ quốc gia đại sự đến
hang cùng ngõ hẹp, hết chuyện gia đình đến chuyện hàng xóm, chuyện xưa
chuyện nay, thương ghét tốt xấu, thị phi phải quấy. Tất cả những chuyện
như vậy làm cho tâm của chúng ta luôn luôn loạn động. Tâm loạn động
thì trí bất an. Ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên.
Để giúp con người đạt được
chánh định, Đức Phật dạy các pháp quán tưởng, trong kinh sách gọi là
"Ngũ đình tâm quán", gồm năm pháp dừng tâm và trụ tâm, như sau
đây:
a) Quán sổ tức: Nghĩa là quán tưởng
bằng cách đếm hơi thở ra hơi thở vào, để đối trị tâm loạn động.
Đến khi thuần thục, chỉ cần theo dõi hơi thở, không cần đếm số như
lúc mới bắt đầu, đó gọi là tùy tức quán. Sách có câu: "Thở vào
tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười".
b) Quán bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng
thân mình là một tập hợp những thứ bất tịnh, không có gì đáng quan
trọng, khi chết thân mình chỉ còn là một cái thây ma không ai dám đến gần,
kể cả những người thân thiết nhất trên đời, để đối trị tâm tham
dục.
c) Quán từ bi: Nghĩa là quán tưởng
mọi người đều bình đẳng, đều có Phật Tánh như nhau, đều đáng thương
như nhau, thương người như thể thương thân, để diệt trừ tâm sân hận,
thù hằn, oán hờn, ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ. Không thể chỉ vì một
chút tự ái nhỏ nhặt, một chút mặt mũi, danh dự nào đó, có thể tạo
nghiệp oán thù, kiện tụng thưa gởi. Cổ nhân có dạy: "Chuyện gì
mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người khác",
cho dù với mục đích trả thù, trừng trị kẻ khác, vì bất cứ lý do
gì!
d) Quán nhân duyên: Nghĩa là quán tưởng
tất cả muôn pháp đều do nhân duyên sinh ra, cho nên giả hợp, không bền
vững, không tồn tại vĩnh viễn, để đoạn trừ si mê, chấp ngã và chấp
pháp. Muốn thực hành pháp quán này, cần thấu triệt và tin sâu "Lý
Nhân Quả" hay "Lý Nhân Duyên".
e) Quán giới phân biệt: Nghĩa là
quán tưởng lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức, tất cả
đều giả tạm, không thực. Lục căn, là sáu cơ quan của thân, đó là: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với lục trần, là sáu cảnh trên trần
đời, bao gồm: sắc tướng, âm thinh, mùi hương, mùi vị, cảm xúc, ký ức.
Sự tiếp xúc đó gây nên những cảm giác, những ấn tượng, gọi là lục
thức. Trong kinh sách, lục căn, lục thức và lục trần gọi chung là thập
bát giới, giới phân biệt.
Thí dụ như mắt trông thấy sắc
là viên kim cương, bèn sinh lòng ham thích. Sự ham thích đó chỉ giả tạm,
không nên theo. Bây giờ thấy thích, về sau có thể không còn thích nữa.
Nhưng nếu theo nó, thì chúng ta phải lo tranh giành, lo kiếm tiền, làm việc
quần quật, đầu tắt mặt tối, từ sáng sớm đến khuya lơ, để mua sắm
cho bằng được, cho nên cực khổ tấm thân, mệt nhọc trí óc. Thí dụ như
tai nghe thấy tiếng khen thì khoái chí, thích ý, tối ngủ không được, cứ
nhớ tới hoài. Nếu tai nghe thấy tiếng chê tiếng chửi, thì đâm ra bực
dọc tức tối, càng khó ngủ hơn, cho nên tấm thân cực khổ trăm bề.
Trong kinh sách, có bài kệ như sau:
- Mắt trông thấy sắc rồi thôi, (không dính, thôi
được thì tốt)
- Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không. (không mắc,
lơ được thì hay)
- Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng, (bình thản, tâm
được khinh an)
- Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân. (giải
thoát, khỏi phiền não và khổ đau)
B. - Thế nào là tà định hay tà
thiền: Ngược lại, tà định hay tà thiền là sự bình tĩnh trong việc làm
tổn hại đến mọi người, lạnh lùng tàn nhẫn khi thấy người khốn khổ
đớn đau, không chút xót thương, không hề tình cảm. Những người tu tập
thiền định để luyện trường sanh bất tử, thiền định để dối gạt
người, đều không phải là chánh định.
* * *
Tóm lại, bát chánh đạo là pháp
môn rất thiết yếu, rất thực tế, rất thông dụng cho bất cứ ai, không
cứ phải là Phật Tử, trên thế gian này, muốn xây dựng một cuộc sống
có ý nghĩa, muốn sống trong an lạc và hạnh phúc. Bát chánh đạo giúp con
người cải thiện tự thân. Con người do mê mờ nên hành vi bất chánh,
ngôn ngữ đảo điên, ý niệm tà vạy, chạy theo dục vọng, sống theo tà
đạo, làm việc bất lương. Trái lại, nếu con người biết tu theo bát
chánh đạo thì sẽ chuyển hóa được những sự bất chánh nói trên, kiến
tạo được một đời sống chân chánh, ích lợi, an lạc và hạnh phúc.
Bát chánh đạo giúp con người cải
tạo hoàn cảnh. Hoàn cảnh là phản ánh của tự tâm. Tự tâm bình thản
thì hoàn cảnh an vui. Tự tâm rối loạn thì hoàn cảnh bất an. Trong kinh
sách, tự tâm gọi là chánh báo, hoàn cảnh gọi là y báo. Chánh báo thế
nào thì y báo thế ấy. Người có tâm lương thiện thì sống trong cảnh hiền
lành. Người có tâm gian ác thì luôn luôn sống trong cảnh âu lo căng thẳng,
thấp thỏm phập phồng.
Trên thế gian này, sở dĩ có những
hoàn cảnh khổ đau, bởi vì con người không biết sống theo bát chánh đạo.
Nếu mọi người đều biết sống theo bát chánh đạo, không cần phải thờ
Phật, thì thế gian này chính là thiên đàng, là cực lạc. Đừng đứng núi
này trông qua núi nọ. Như vậy chỉ khổ thân và khổ tâm mà thôi. Tùy
theo chỗ ở thường an lạc.
Sách có câu:
- Tâm buồn cảnh được vui sao
- Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
Chư Tổ có dạy:
- Tu mà không học là tu mù.
- Học mà không tu là đãy sách.
Nghĩa là người phát tâm thực
hành việc tu sửa thân tâm mình, mà không chịu học giáo lý, không tìm hiểu
Chánh Pháp, ai nói gì cũng nghe, ai bảo gì cũng tin, đúng là mù quáng. Còn
người chỉ biết lo nghiên cứu, học rộng hiểu nhiều, không lo tu tâm dưỡng
tánh, không chịu quán sát tự tâm, chỉ lo phê bình chỉ trích người khác,
đúng là cái tủ, cái đãy, hay cái bị đựng sách mà thôi, chẳng ích lợi
gì cả. Thí dụ như có người suốt ngày đếm tiền ở nhà băng của chủ,
có người suốt ngày chăn trâu ngoài đồng cho chủ, chiều về đến nhà,
tiền không có, trâu cũng không!
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật
có dạy:
Tuy có học rộng hiểu nhiều mà
không tu hành, cũng đồng như người không học hiểu.
Chẳng khác nào người nói ăn mà
không ăn, trọn không thể nào no được.
Theo quan điểm của Phật giáo,
không cần phải thờ phượng Đức Phật Thích Ca, hay bất cứ vị Phật
nào, vị Bồ Tát nào, chỉ cần sống đúng theo tinh thần bát chánh đạo,
bất cứ người nào cũng đều được an lạc và hạnh phúc, cao hơn nữa,
đều được giác ngộ và giải thoát. Bằng như ngược lại, lập bàn thờ
Phật tại gia, đi chùa lễ lạy, mà không sống đúng theo tinh thần bát
chánh đạo, dù là Phật tử tại gia hay xuất gia, cũng chẳng có ích lợi
gì! Đó mới thực là chí công vô tư, mới thực là chánh đạo vậy. Ϡ
- Cư-sĩ Chính-Trực (Toronto-Canada)
- 302 - 2 DORADO COURT, TORONTO, ONTARIO, M3M 2E8, CANADA
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/072-batchanhdao.htm