- Làm sao gặp Phật
- Cư-sĩ Chính-Trực
- Qua hình tướng tìm Phật
- Qua âm thanh tìm Phật
- Làm vậy là sai đường
- Làm sao gặp được Phật?
Trong mùa Phật Đản năm nay, nhân dịp
làm lễ kỷ niệm Đức Phật Thích Ca sinh ra trên thế gian này, để cứu
độ chúng sanh, hãy thử suy nghĩ: chúng ta đã từng gặp Phật chưa? Nếu
chưa, chúng ta làm sao gặp Phật? Có phải đợi sau khi chết rồi, vãng sanh
tây phương cực lạc, mới gặp được Phật chăng? Có phải chỉ có Phật
Tử mới gặp được Phật chăng?
Hoặc có phải chăng: tất cả chúng
ta có thể gặp Phật, ngay trên thế gian này, ngay trong cõi đời này, bất
luận người đó là Phật Tử, hay không là Phật Tử, bất luận người đó
tại gia hay xuất gia? Dường như ai ai cũng có các thắc mắc này, vậy
chúng ta hãy lần lượt cùng nhau tìm cách trả lời dựa theo giáo lý của
đạo Phật.
Hầu như mọi người Phật Tử đều
biết lịch sử Đức Phật Thích Ca: Ngài đản sinh ở vườn Lâm Tỳ Ni,
được gọi là Thái Tử Tất Đạt Đa, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu
Ma Gia, trị vì vương quốc Ca Tỳ La Vệ, thuộc nước Ấn Độ bây giờ.
Ngài lớn lên, cưới vợ, sinh con, cũng như bao nhiêu con người khác trên
thế gian. Rồi nhân những chuyến ra khỏi hoàng cung, nhận thấy các cảnh:
sanh, lão, bệnh, tử, của kiếp con người, cho nên Ngài quyết tâm xuất
gia tu hành, tìm đường giải thoát và thành đạo dưới cội bồ đề. Sau
đó, Ngài chuyển pháp luân, thuyết pháp cứu độ chúng sanh trong 50 năm, cuối
cùng nhập niết bàn ở vườn Ta La. Như vậy, Đức Phật Thích Ca đã nhập
niết bàn, chúng ta đi tìm Phật ở đâu, làm sao chúng ta gặp được Phật?
Thực ra, chúng ta chẳng cần đi tìm
Phật ở đâu xa, chẳng cần phải qua Ấn Độ, hay vào chùa mới gặp Phật.
Phật luôn luôn ở trong cuộc đời, ngay trên thế gian này, hiện hữu khắp
nơi, nhưng chúng ta không thấy, vì chúng ta chỉ nhìn đời bằng đôi mắt
thịt, mà quên xử dụng con mắt trí tuệ, để quan sát những gì tiềm ẩn
bên trong, hoặc ý nghĩa của những việc làm. Nơi các tôn tượng chư Phật,
con mắt trí tuệ được tượng trưng bởi viên ngọc quí ở giữa chặn
mày, luôn luôn chiếu sáng, mang ý nghĩa: tuệ đăng thường chiếu, tức là
ngọn đèn trí tuệ thường chiếu sáng, còn đôi mắt thịt, luôn luôn
khép lại, không duyên theo cảnh trần. Tuệ đăng thường chiếu nghĩa là
con người sống luôn luôn tỉnh thức, không bị mê mờ, không bị dục lạc
thế gian lôi cuốn, sống trong thế gian, nhưng không phiền lụy, cũng chẳng
khổ đau. Chúng ta có thể tìm thấy Phật qua sự sống trong tất cả mọi
loài chúng sanh. Sự sống đó bàng bạc trong khắp không gian và thời gian,
không hạn hẹp trong trăm năm của một kiếp con người.
* * *
Trong cuộc sống hằng ngày, khi tiếp
xúc giao thiệp với mọi người chung quanh, chúng ta thường nhìn người đời
bằng cặp mắt thịt, trong kinh sách gọi là nhục nhãn, cho nên chỉ nhìn
thấy được hình tướng bên ngoài của con người, phân biệt nam nữ, cao
thấp, đẹp xấu, già trẻ, lớn bé, giàu nghèo, mập ốm. Chính vì con người
có cái nhìn phân biệt như vậy, cho nên cảm thấy phiền não và khổ đau
nhiều hơn là an lạc và hạnh phúc. Tại sao vậy?
Bởi vì, khi có cái nhìn phân biệt
như vậy, con người chỉ thấy chung quanh toàn là chúng sanh, cho nên khởi
tâm thương ghét, làm cho cuộc sống đảo điên, tâm trí bất an. Chẳng hạn
như khi gặp người nào đẹp đẽ, hạp nhãn, hay gặp vật gì quí giá, hiếm
hoi, thì sanh lòng tham lam, ưa thích ngắm nhìn, muốn chiếm hữu làm của
riêng. Toại nguyện thì hả hê, thích thú, bằng không được như ý, thì
sanh tâm oán thù, ghét bỏ, bực dọc, tức tối. Chẳng hạn như gặp người
nghèo hèn, ít học, thì sanh tâm khinh khi, kỳ thị, rẻ rúng, còn gặp người
giàu sang, học thức, thì thèm muốn, ước mơ, nịnh bợ. Chẳng hạn như gặp
người mập ú thì cười, gặp người gầy ốm thì chê. Con người thường
có ước mơ muốn được bình yên, nhưng tâm trí cứ chạy theo cảnh trần
đời như vậy, lăng xăng lộn xộn cả ngày, suốt tháng, quanh năm, làm sao
cuộc sống bình yên, an vui cho được?
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Ly nhứt thiết thướng, thị danh thực tướng".
Nghĩa là: Khi nào lìa bỏ được tất
cả các hình tướng bên ngoài, không chấp vào nhân dáng thế này thế
khác, chúng ta mới có thể nhận ra thực tướng của tất cả mọi người.
Thực tướng đó là gì? Thực tướng đó chính là con người chân thật của
tất cả mọi người trên thế gian này. Con người chân thật đó đồng nhất,
không khác, không phân biệt nam nữ, già trẻ, lớn bé, màu da, sắc tộc,
quốc gia, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa, giai cấp, xuất xứ, kiến thức, học
lực, bằng cấp.
Mọi người đều có thực tướng
đồng như nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho
nên hình tướng bên ngoài có khác.
Chẳng hạn như: Người tham gian thì
cặp mắt láo liên, đảo điên, đảo qua, đảo lại. Người sân hận thì
cặp mắt trợn trừng, tóe lửa, dữ dằn. Người si mê thì cặp mắt lờ
đờ, khờ khạo.
Tu theo đạo Phật, không phải chỉ
có, cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện, cầu an cầu siêu, cầu được
bình an, cầu sang cực lạc, cầu đủ thứ chuyện, cầu cho sung sướng, biểu
diễn hình tướng, không còn gì khác! Không phải như vậy!
Tu theo đạo Phật là phải thúc liễm
thân tâm, chuyên cần chăn trâu, con trâu tâm ý, đừng để chạy rong, ngông
cuồng phá phách, giẫm đạp ruộng người, húc đàng đông xông đàng tây,
từng giây từng phút.
Tu theo đạo Phật là phải tìm ra
con người chân thật, hay giác ngộ thực tướng của chính mình. Thực tướng
đó bất sanh bất diệt. Ngộ được thực tướng thì thoát ly sanh tử
luân hồi, theo đúng lời dạy của tam thế thập phương chư Phật. Còn con
người bằng xương bằng thịt, trong kinh sách gọi là tấm thân tứ đại,
chỉ tồn tại hơn kém trăm năm là nhiều!
Trong khi bình thường, hai người tánh
tình giống nhau, hòa đồng, nhã nhặn, vui vẻ, lịch sự, không khác. Khi
có biến cố xảy đến, người biết tu tâm dưỡng tánh, giữ gìn được
sự bình tĩnh thản nhiên, không khởi tâm tham lam, không khởi tâm sân hận,
không khởi tâm si mê. Nếu người nào hoàn toàn giữ gìn được bản tâm
thanh tịnh, trong mọi hoàn cảnh trên thế gian, trước những bát phong của
cuộc đời, dù được hay mất, dù khen hay chê, dù vinh hay nhục, dù sướng
hay khổ, tâm tánh vẫn luôn luôn bình tĩnh thản nhiên, luôn luôn mỉm nụ
cười an nhiên tự tại, người đó chính là một vị Phật.
Một vị Phật không phải từ trên
trời giáng xuống, không phải từ lòng đất chui lên. Một vị Phật tùng
địa dũng xuất, như trong Kinh Pháp Hoa dạy, nghĩa là từ nơi tâm địa của
mỗi con người chuyển hóa mà thành, chuyển hóa từ xấu xa thành tốt đẹp,
chuyển hóa từ tâm tham sân si ô nhiểm, trở về bản tâm vốn thanh tịnh.
Một vị Phật thành đạo từ nơi con người biết tu tâm dưỡng tánh, đi
đúng Chánh Đạo, hành đúng Chánh Pháp. Người nào chưa đạt được hoàn
toàn như vậy, chính là những người đang trên bước đường tu tập, công
phu được bao nhiêu, người đó được an lạc và hạnh phúc bấy nhiêu. Chứ
không phải van xin cầu nguyện mà đặng đâu!
Theo truyền thuyết, khi Thái Tử Tất
Đạt Đa đản sanh, có hai vị long vương đến phun nước tắm cho ngài. Một
vị phun dòng nước nóng. Một vị phun dòng nước lạnh. Điều này có ý
nghĩa thâm sâu như sau: cũng như Thái Tử Tất Đạt Đa, người nào trên thế
gian này, chịu đựng nổi sức mạnh của hai dòng nước, kham nhẫn nổi sức
nóng lạnh, tượng trưng cho những áp lực thường xuyên và sự đối nghịch
của cuộc đời, chẳng hạn như: thịnh suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc,
nói chung là bát phong, thì người đó chính là một vị Phật trong tương
lai.
Còn đại đa số người đời, khi
có biến cố xảy ra, tâm tham lam liền khởi lên, không thể dừng được,
luôn luôn nghĩ đến những việc tranh giành quyền lực, lợi mình hại người,
xúi người hại nhau, bất chấp thủ đoạn, thưa gửi kiện tụng, sang đoạt
tài sản, chiếm hữu bản quyền, giựt hụi quịt nợ. Nếu mục tiêu là bạc
triệu đô la, con người càng đối xử với nhau ghê rợn hơn, khủng khiếp
hơn, chẳng còn kể quan hệ cha con, chồng vợ, bè bạn, thầy trò, anh em,
thân bằng quyến thuộc gì hết, mạng sống của con người, của chính bản
thân bị coi rẻ như bèo! Đồng bào, đồng bạn, đồng chí, đồng đội,
đồng đạo, đồng hương, đồng nghiệp, đồng ngũ, chẳng có giá trị
gì cả, chẳng có nghĩa lý gì cả. Chỉ có đồng tiền là trên hết, là vạn
năng, có đủ năng lực xô đẩy, sai khiến con người vào vòng tội lỗi hết
sức dễ dàng. Cửa thiên đàng khép lại, cửa địa ngục mở rộng kể từ
đây!
Khi có biến cố xảy ra, dù chỉ một
lời nói vô thưởng vô phạt, vô ý vô tứ, hay một cử chỉ nhỏ nhặt,
nhưng va chạm tự ái, tổn thương mặt mũi của con người, tâm sân hận
liền khởi lên, không thể dừng được, con người liền nghĩ đến chuyện
trả thù, báo oán, làm đủ mọi cách, khiến cho kẻ thù, người mình
không ưa, sống không được yên, chết cũng không xong, ngả nghiêng điêu
đứng, tạo dựng chuyện ác, khiến người tội oan, tiêu tan danh dự, te
tua tơi tả, thì mới hả dạ, mới thỏa tấc lòng, tâm địa chúng sanh,
phàm phu tục tử, sâu hiểm ác độc, của một con người. Khi tam bành lục
tặc nổi cơn lên, dù có phải đại náo thiên cung, lật tung nhà người,
con người cũng dám làm, không cần biết hậu quả ra sao! Bởi vậy cho
nên, có nhiều người đánh mất hạnh phúc trong tầm tay, hay đánh mất người
cộng tác tài năng đáng tin cậy, chỉ vì những cơn sân không kềm chế
được như vậy.
Khi có biến cố xảy ra, người ta
không còn hợp tác, không còn qua lại với mình, mình liền ngậm máu phun
sau lưng người, không kể người cười miệng mình dơ, đâm bị thóc thọc
bị gạo, bêu riếu đàm tiếu đủ điều, vạch lá tìm sâu, bới bèo ra bọ,
chứng nào tật nấy, không bao giờ chừa! Cũng do tâm si mê xui khiến, con
người tin chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan, van xin thượng đế, cầu
nguyện thần linh, tìm sông lội suối, nước kém vệ sinh, cho là nước thánh,
trị được bá bệnh, cầu gì được nấy, cũng mang về uống, dù cho người
đó, có nhiều bằng cấp, dù thấp hay cao, ở ngoài thế gian, hay trong nhà
đạo!
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có
dạy:
"Nhứt thiết chúng sanh giai hữu
Phật Tánh". Nghĩa là: "Tất cả mọi chúng sanh đều có tánh
giác".
Tất cả mọi người đều có tánh
giác, sáng suốt đồng nhau, không khác, trong kinh sách gọi là Chân Tâm hay
Phật Tánh, nhưng chỉ vì nghiệp lực khác nhau, tâm tham sân si khác nhau,
cho nên bị phiền não khổ đau cũng khác nhau, hình tướng bên ngoài cũng
khác nhau.
Chẳng hạn như mặt trăng lúc nào
cũng sáng tỏ, không khác, nhưng đêm nào có nhiều mây đen, chúng ta trông
thấy mặt trăng mờ nhạt nhiều hơn. Chẳng hạn như mặt biển lúc sóng
yên gió lặng, thanh bình, rộng rãi, bao la, trông xa, thấy rộng, mênh mông,
bát ngát, nhưng lúc cuồng phong nổi lên, sóng to gió lớn, bầu trời đen kịt,
không còn trông thấy được gì cả. Mặt trăng sáng tỏ, mặt biển thanh
bình, tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh của tất cả mọi người. Đó cũng
chính là con người chân thật hay Chân Tâm Phật Tánh của tất cả mọi người.
Mây đen hay sóng to gió lớn, tượng trưng cho những phiền não khổ đau,
che lấp từng phần, hay che khuất hoàn toàn, tâm trí con người không còn
sáng suốt trọn vẹn nữa.
Như vậy, câu hỏi tìm Phật ở đâu,
làm sao gặp Phật, thật là quá dễ, ai cũng có thể trả lời được. Trước
hết, Phật có nghĩa là Đức Phật Thích Ca, vị Phật có thực trong lịch
sử, sinh ra ở Ấn Độ, tu hành và thành đạo, cách đây hơn 2500 năm, ngay
trên thế gian này, ở ngay cõi ta bà này, không phải cõi nào khác, không phải
tây phương cực lạc. Đó là câu trả lời gần nhứt, đơn giản nhứt, rõ
ràng nhứt.
Tuy nhiên, trong kinh sách có câu:
"Phật biến nhứt thiết xứ", nghĩa là Phật có ở khắp mọi nơi,
Phật ở chung quanh chúng ta, nhưng chúng ta không hiểu biết, không nhận ra
đó thôi. Đó là nghĩa lý cao siêu mầu nhiệm của chữ "Phật". Đó
là con đường thực tế, giúp đỡ cuộc đời được nhiều ánh sáng giác
ngộ và giải thoát, cuộc sống được nhiều an lạc và hạnh phúc, con người
được nhiều an nhiên và tự tại, giảm bớt phiền não và khổ đau.
Trong kinh sách cũng có câu:
"Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt". Nghĩa là: "Tâm, Phật
và chúng sanh, cả ba không khác, không sai biệt".
Phật và chúng sanh bổn nguyên tánh
thường rỗng lặng, trong kinh sách gọi là không tịch. Tâm của người nào
không chất chứa bất cứ hình ảnh của chúng sanh trong ba cõi, sáu đường,
hoàn toàn trống rỗng, tĩnh lặng, tâm người đó chính là tâm Phật. Chư
Tổ cũng có dạy: "Phật tức Tâm, Tâm tức Phật", chính là nghĩa
đó vậy.
Khi thấy người nào vào chùa, van
xin cầu khẩn chư Phật ban cho điều này điều kia, chư Tổ thường dạy:
Ngươi cõng Phật đi tìm Phật! Nghĩa là chư Phật đã bỏ những điều phiền
não, chỉ dạy chúng ta pháp môn tu tập để giải thoát, để thành Phật,
chúng ta không chịu tu học, để tự mình thoát ly phiền não khổ đau, trái
lại chúng ta van xin cầu khẩn những điều phiền não, chẳng hạn như: tiền
tài, danh vọng, ước gì được nấy, nhứt bổn triệu lợi, buôn may bán
đắt, thi đâu đậu đó, bình yên vô sự, nhà cao cửa rộng, điều cuối
cùng là: cầu vãng sanh cực lạc quốc! Cầu không được, khổ là cái chắc!
Cầu bất đắc, tức khổ không sai!
Chúng ta có thể tìm thấy hình ảnh
Phật, qua các vị chân tu thực học, giới đức tròn đầy, là điểm tựa,
là chỗ quy ngưỡng, để chúng sanh tìm được sự an lạc khi gần gũi. Chúng
ta có thể tìm thấy Phật ở khắp nơi trên thế gian này, chỗ nào có
tình thương ngự trị, có từ bi hỷ xả hiện tiền, là có Phật ở ngay nơi
đó. Bất cứ người nào, dù không là Phật Tử, dù là Phật Tử tại gia
hay xuất gia, mà trong một khoảng thời gian nào đó, phát tâm bồ đề,
khai mở Chân Tâm, thực hành hạnh lợi tha, vì người quên mình, thể hiện
bốn tâm lượng rộng lớn: từ bi hỷ xả, thì ngay trong giây phút đó, người
ấy đang sống với tâm Phật, như một vị Phật. Nhưng sau phút giây giác
ngộ đó, người ấy trở lại cuộc sống tầm thường, thì tâm Phật lại
tiềm ẩn, chờ cơ hội khác để phát huy. Phật là con người giác ngộ trọn
vẹn và vĩnh viễn, lúc nào cũng tỉnh thức và sáng suốt. Chúng sanh khác
Phật ở chỗ: chỉ lóe sáng trong giây phút, rồi lại chìm đắm trong bóng
tối vô minh. Tại sao vậy? Bởi vì, con người không đủ sức vượt khỏi
tam giới, không đủ sức ra khỏi căn nhà lửa, không đủ sức chống cự
sức mạnh của con trâu tâm ý, nghĩa là con người bị "nghiệp thức
che đậy" và thường hay "biết mà cố phạm"!
Để có cái nhìn thực tiển và có
phương pháp thực hành, trong cuộc sống hằng ngày của người Phật Tử,
tại gia hay xuất gia, Chư Tổ có dạy:
- "Chúng sanh nhìn Chư Phật như chúng sanh, cho
nên phiền não khổ đau.
- Chư Phật nhìn chúng sanh như Chư Phật, cho nên niết
bàn tự tại".
Nếu hiểu biết một cách thấu đáo,
một cách tường tận lời dạy này, chúng ta liền biết làm sao gặp Phật,
hay tìm Phật ở đâu? Chúng ta thường hay nghĩ rằng: Phật ở tây phương
cực lạc, Phật ở trong chùa, Phật ở trong kinh sách, Phật ở trong các bức
tượng bằng gổ, bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng, hay bằng tranh vẽ.
Còn chung quanh toàn là chúng sanh tất cả! Chính bởi cái nhìn, cái hiểu biết,
cái suy nghĩ, cái quan niệm như vậy, cho nên con người gặp nhiều phiền não
khổ đau, không sao tránh khỏi, không bao giờ dứt.
Con người không biết rằng: chính
mình có Chân Tâm, Phật Tánh, và mọi người chung quanh cũng y như vậy, không
khác. Con người đeo cặp mắt kính chúng sanh, tức nhìn đời qua tâm vọng
động, cho nên nhìn ai cũng thấy chỉ là chúng sanh, nhìn ai cũng chỉ thấy
tật xấu của họ, nhìn ai cũng thấy đáng ghét, nhìn ai cũng thấy đáng
đề phòng, nhìn ai cũng thấy muốn xa lánh, nhưng không bao giờ, nhìn lại
chính mình, xem tốt hay xấu, cho nên gặp nhiều, phiền não khổ đau, rồi
chờ khi chết, lết về tây phương, nương về cực lạc, để tìm gặp Phật,
làm sao gặp được?
Còn chư Phật và những người giác
ngộ, biết tu tâm dưỡng tánh, đeo cặp mắt kính thanh tịnh, nhìn đời bằng
bản tâm thanh tịnh, nhìn ai ai chung quanh cũng thấy được họ có Chân
Tâm, Phật Tánh, nhìn ai ai chung quanh cũng hiểu biết họ là vị Phật sẽ
thành trong tương lai, gần hay xa tùy theo công phu tu tập của mỗi người,
nhìn ai ai chung quanh cũng hiểu biết họ có những điều hơn mình, đáng
cho mình học hỏi, nhìn ai ai chung quanh cũng thấy được con người chân thật,
không phải con người hiện tướng tham đáng ghét, không phải con người
hiện tướng sân dữ dằn dễ sợ, không phải con người hiện tướng si
khờ khạo ngu ngơ.
Cho nên chư Phật và những người
giác ngộ, biết tu tâm dưỡng tánh, luôn luôn an nhiên tự tại, bình tĩnh
thản nhiên, chứng được cảnh giới niết bàn hiện tiền. Chúng ta có
giác ngộ, mới có cuộc sống an lạc và hạnh phúc như vậy, mới giải
thoát khỏi phiền não và khổ đau. Cuộc đời có ý nghĩa, cuộc đời đáng
sống, kể từ đây!
* * *
Tóm lại, trong Kinh Kim Cang, Đức Phật
có dạy:
- "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng.
- Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến
Như Lai".
Nghĩa là: Phàm ở trên thế gian
này, tất cả những gì có hình tướng đều hư vọng, có ngày cũng phải
bị hư hao, hoại diệt, kể cả những bức tượng Phật, dù làm bằng vật
liệu gì đi nữa cũng vậy, kể cả tấm thân tứ đại, sau trăm năm cũng
phải bỏ lại. Nếu chúng ta nhìn mọi người, không qua hình tướng bên
ngoài, không phân biệt kỳ thị, không thành kiến bất công, lúc đó chúng
ta sẽ nhìn thấy được Như Lai, tức là thấy được Chân Tâm Phật Tánh,
của mình và của mọi người, đồng nhất không khác! Đó chính là con người
chân thật, bất sanh bất diệt. Kiến Như Lai tức là ngộ đạo, tức là
thoát ly sanh tử luân hồi.
Cũng trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có
dạy:
- Nhược dĩ sắc kiến ngã.
- Dĩ âm thanh cầu ngã.
- Thị nhơn hành tà đạo.
- Bất năng kiến Như Lai.
Nghĩa là: Nếu người nào nhìn qua
sắc tướng, diện mạo, hoặc do âm thanh, mà cầu Phật, hoặc cho rằng có
hình tướng như vậy, có âm thanh như vậy, mới phải là Phật, thì người
đó đang đi sai đường, lạc lối, không thể nào gặp được Phật, không
thể nào thấy Như Lai. Nói một cách khác, những người cứ tưởng: lạy
tượng Phật nhiều, tức là hình tướng, tụng kinh Phật nhiều, tức là
âm thanh, thì được gặp Phật, nằm mơ thấy Phật, những người như vậy,
chẳng hiểu biết gì, đang hành tà đạo, làm sao hiểu được Như Lai? Tại
sao vậy?
Bởi vì, Phật hay Như Lai chỉ về
tâm tánh, vô hình vô tướng, không có hình tướng có thể thấy được bằng
đôi mắt thịt của con người. Bởi vậy cho nên, muốn thấy được Như
Lai, muốn gặp được Phật, con người phải phát huy trí tuệ bát nhã, phải
nhận ra con người chân thật, nhận ra Chân Tâm Phật Tánh của chính mình
và của mọi người chung quanh chúng ta.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, và trong
Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
- "Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền".
- "Sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".
Nghĩa là: Khi nào trong tâm con người,
những niệm lăng xăng lộn xộn không còn khởi lên, chẳng hạn như niệm
tham, niệm sân, niệm si, khởi lên rồi lắng xuống nên gọi là: sanh diệt,
ngay lúc sanh diệt chấm dứt, không còn đó, tâm trí bình yên lặng lẽ,
không xáo trộn, chẳng bất an, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, cho
nên gọi là: tịch diệt hiện tiền, hay tịch diệt vi lạc, tức là cảnh
giới an lạc, niết bàn tự tại, hiện ngay trước mặt.
Tâm trạng bất an vì những niệm
sanh diệt, gọi là tâm chúng sanh. Tâm sanh diệt diệt rồi, không còn lăng
xăng lộn xộn nữa, trở nên tâm không tịch, trống không và tịch tịnh,
hoàn toàn thanh tịnh, gọi là: bản tâm thanh tịnh hay Tâm Phật.
Như vậy muốn tìm gặp được Phật,
chúng ta chỉ cần hành trì các pháp môn, dù thiền tông, tịnh độ tông,
hay mật tông, tức là: thiền quán, tọa thiền, thiền hành, tứ oai nghi thiền,
tụng kinh, niệm Phật, trì chú, cho đến mức rốt ráo, đạt được trạng
thái "nhứt tâm bất loạn". Lúc đó, chẳng những chúng ta gặp
được Phật, mà chính chúng ta vừa trọn thành Phật Đạo đó vậy.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/077-gapphat.htm