- QUẢ VỊ GIÁC NGỘ: SỰ GIẢI THÍCH
- CỦA THƯỢNG TOẠ BỘ VÀ ĐẠI THỪA
- Thích Duy Tân
Đức Phật là vị
A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài
và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu
độ nhân loại thoát khỏi khối đau khổ của sanh tử luân hồi. Do đó,
các cáo buộc cho rằng A-la-hán là tiêu cực, là ích kỷ, là tiểu thừa chỉ
phản ảnh một sự hiểu biết phiến diện về lời Phật dạy nói chung, về
các bậc A-la-hán nói riêng.
***
I. GIẢI THÍCH CỦA
THƯỢNG TOẠ BỘ
Có hai khuynh hướng giải thích về
vị trí của A-la-hán, Bồ-tát và Phật trong văn học Phật giáo. Theo văn học
Paali, cả ba không có sự khác biệt về quả vị nhưng khác nhau về tình
trạng. Khái niệm Bồ-tát là thuật ngữ chỉ cho Gautama Siddaartha trong suốt
thời gian gá vào thai mẹ cho đến lúc trước khi chứng đạt quả vị giác
ngộ dưới cội bồ-đề.
Đức Phật được biết đến với
mười danh hiệu: "bậc A-la-hán (araha"m, ứng cúng), bậc Giác
ngộ viên mãn (sammaasambuddho, chánh biến tri), bậc đầy đủ trí tuệ
và đạo hạnh (vijjaa-cara.nasampanno, minh hạnh túc), bậc đã chấm dứt
luân hồi (sugato, thiện thệ), bậc tuệ tri thế giới (loka-viduu,
thế gian giải), bậc huấn luyện loài người một cách tuyệt vời (Anuttara
purisa damma saarathii, điều ngự trượng phu), bậc thầy của thần linh và
loài người (setthaa deva-manussaana"m, thiên nhân sư), bậc giác ngộ
(buddho, Phật) và bậc tôn quý trên đời (bhagavaa, thế tôn)."[1]
Trong mô-típ mười danh hiệu tôn xưng Phật này chúng ta thấy khái niệm
"Phật" kéo theo khái niệm "A-la-hán," và trên thực tế đức
Phật tự xác nhận mình một bậc A-la-hán, như danh hiệu thứ nhất của
ngài là araha"m. Các trường phái dịch thuật của Trung Quốc có
lẽ do vì ảnh hưởng dòng văn học Đại thừa nên đã dịch nghĩa từ
"araha"m" thành "Ứng Cúng" một từ dịch nghĩa bóng,
để tránh dùng phiên âm A-la-hán, vì theo Đại thừa, quả A-la-hán chưa phải
là quả vị cuối cùng của con đường thực nghiệm tâm linh trong Phật
giáo. Vấn đề đặt ra là quả Phật và quả A-la-hán là một hay khác
nhau? Câu trả lời dựa theo kinh điển Paali[2] là Phật và A-la-hán không
khác nhau ở cấp độ chứng đắc tâm linh, nhưng chỉ khác nhau ở phương
diện trước sau.
Khi được hỏi rằng có ai khác đã
chứng được ba thần thông (paa.tihaariya), đức Phật đã trả lời rằng
"các vị tỳ-kheo chứng được ba thần thông không phải chỉ một mà
còn hơn số 500 vị và thực tế còn hơn số đó nữa."[3] Ba thần
thông đó là thần thông biến hoá (iddhi-paa.tihaariya, thần túc thông),
thần thông biết tâm người (aadesanaa-paa.tihaariya, tha tâm thông)
và thần thông giáo hoá (anusaasanii-paa.tihaariya). Về cách thức chứng
đạt ba loại thần thông này, đức Phật xác chứng rằng các đệ tử của
Như Lai cũng đã hành theo chính con đường mà Như Lai đã khám phá và chỉ
dẫn và đã đạt được cùng một mục đích "giải thoát" vượt
khỏi thế gian (anuttaraa vimutti). Phương pháp đó được biết đến là
cách ứng dụng tâm một cách thích hợp (yoniso manasikaaraa, như lý tác ý)
và nỗ lực chân chánh toàn diện (yoniso sammappadhaanaa).[4] Với cùng một
phương pháp và sự chứng đắc như nhau này mà ranh giới giữa Phật và
A-la-hán đã không còn nữa.[5]
Một bằng chứng quan trọng khác
trong kinh điển nguyên thủy là các chứng đắc về các trạng thái thiền
(jhaana) và trí tuệ siêu tuyệt (abhi~n~naa).[6] Đức Phật xác nhận
trong kinh rằng tôn giả Đại Ca-diếp (Mahaa Kassapa) đã chứng được cùng
một quả vị tâm linh mà ngài đã đạt được. Các chứng đạt của tôn
giả A-la-hán Ca-diếp được ghi nhận trong kinh là trạng thái thiền thứ
nhất (pa.thama-jhaana, sơ thiền), trạng thái thiền thứ hai (dutiya-jhaana,
nhị thiền), trạng thái thiền thứ ba (tatiya-jhaana, tam thiền), trạng
thái thiền thứ tư (catuttha-jhaana, tứ thiền), không vô biên xứ (aakaasana~ncaayatana),
thức vô biên xứ (vi~n~naa.na~ncaayatana), vô sở hữu xứ (aki~nca~n~naayatana),
phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasa~n~naa naasa~n~naayatana), định không
còn cảm giác và nhận thức (vedanaanirodho), thần thông biến hoá (iddhi-paa.tihaariya,
thần túc thông), thần thông biết rõ tâm người khác (aadesanaa-paa.tihaariya,
tha tâm thông), thần thông nghe hiểu được các loại âm thanh (dibbasota-~naa.na,
thiên nhĩ thông), thần thông biết về đời sống quá khứ của chúng
sanh (pubbenivaasaanussati-~naa.na-vijjaa, túc mạng thông), trí tuệ biết về
sự sống chết của chúng sanh (cutuupapaata-~naa.na-vijjaa, sanh tử trí),
trí tuệ biết sự chấm dứt toàn bộ các lậu hoặc (aasavakkhaya-~naa.na-vijjaa,
lậu tận thông). Ở cuối bài kinh này, đức Phật kết luận như sau:
Này các tỳ-kheo, ta đã thật sự
an trụ và chứng đắc được trí tuệ siêu tuyệt [abhi~n~naa], tâm ta
đã giải thoát và giải thoát bằng trí tuệ. Này các Tỳ-kheo, Ca-diếp cũng
đã an trụ và chứng đắc trí tuệ siêu việt đó, tâm đã giải thoát và
giải thoát bằng trí tuệ.
Cũng như thuật ngữ "A-la-hán"
(arahant) là một trong mười danh hiệu của Phật, thuật ngữ "Phật"
(Buddha) cũng là một danh hiệu của tất cả các bậc A-la-hán, những bậc
giác đã giác ngộ đã thấy biết được đời quá khứ, tuệ tri được sự
chấm dứt sanh tử, đạt được trí tuệ tuyệt đối (abhi~n~naa); và
đã nhận biết tâm mình được thanh tịnh và giải thoát khỏi các dòng chảy
của lậu hoặc và đã vượt qua được sanh và tử.[8]
Trong mười danh hiệu của đức Phật,
thuật ngữ "Chánh biến tri" (sambuddha) thường chỉ được dùng
để mô tả trí tuệ của đức Phật, chứ không dùng chung cho các vị
A-la-hán. Có nghĩa là, như tiến sĩ Katz đã phát biểu rất chính xác
"trong khi bậc A-la-hán có thể là một vị Phật và ngược lại nhưng
có thể rằng danh hiệu "chánh đẳng giác" vốn chỉ áp dụng cho
Phật của mỗi kiếp, có hàm nghĩa khác hơn và rộng hơn thuật ngữ
"giác" (phật) đơn thuần."
Về sự khác biệt giữa Phật và
A-la-hán trên phương diện trước và sau, đoạn kinh dưới đây chỉ ra rằng
đức Phật là người đầu tiên phát hiện và chỉ ra con đường mà trước
đây chưa ai đề cập đến (maggakkhayin).
Này brahman, Như Lai là người đã mở
ra con đường mà trước đây chưa ai mở, đã mang lại con đường mà trước
đây chưa ai mang lại, là bậc tuệ tri được con đường, là bậc thấu hiểu
con đường, là bậc thiện xảo về con đường. Những vị thánh đệ tử
là những người đi theo con đường của Như Lai.[9]
Theo nội dung của đoạn kinh này,
đức Phật khác với các vị A-la-hán ở chỗ Phật đã khám phá và chỉ
ra con đường dẫn đến sự chứng ngộ, trong khi các bậc A-la-hán là những
bậc giác ngộ do đi theo con đường đó. Nói khác đi, đức Phật là bậc
đạo sư (satthaa) về con đường, là người tuyên bố con đường
trong khi các vị A-la-hán là người đệ tử (saavakaa) của ngài, do
đi theo con đường đó nên đã giác ngộ như Phật, mà thuật ngữ Paali thường
dùng là "buddhaanubuddhaa"[10] có nghĩa là "người đạt
được giác ngộ sau bậc giác ngộ viên mãn." Một đoạn kinh khác
trong kinh Trung Bộ (Majjhama Nikaaya) cũng ghi nhận một cách tương
tự: "Niết-bàn có hiện hữu, con đường dẫn đến niết-bàn
cũng có hiện hữu và Như Lai hiện hữu với tư cách là người chỉ
con đường niết-bàn đó. Như Lai là bậc chỉ đường."[11]
Ở một đoạn kinh khác, đức Phật
cũng tuyên bố rằng ngài là người đầu tiên chứng ngộ trên thế giới
này (loke pa.thamo), trong khi các bậc Thanh Văn đứng thứ hai (saavako
bhaavitatto) và các bậc đang còn huấn luyện tâm linh, bậc hữu học (sekho)
đứng sau cùng.
Như Lai là bậc đại thánh đầu tiên
trên đời như là một bậc đạo sư (satthaa); kế ngài là các bậc
Thanh Văn (saavako bhaavitatto); và đứng thứ ba là các bậc hữu học (sekho)
những bậc đa văn (bahussuto) phát triển đạo đức. Ba hạng người
này là thầy của loài trời và người, là người cầm đuốc soi đường
(pabha"mkaraa), là những bậc tuyên bố chân lý, những người mở
toang cánh cửa bất tử (amata) và giải thoát chúng sanh khỏi mọi
trói buộc. Bất cứ ai đi theo con đường được Như Lai chỉ dạy nhất định
sẽ chấm dứt đau khổ ngay trong đời này.[12]
Câu mở đầu của đoạn kinh trên
cho thấy rằng không chỉ có đức Phật mà các bậc Thanh Văn (saavaka)
và thậm chí các bậc hữu học (sekha) xuất hiện trong đời này để
đem lại hạnh phúc cho số đông do vì lòng thương tưởng thế gian, vì lợi
ích và hạnh phúc loài thần và loài người.[13] Tính cách đầu tiên khám
phá và tuyên bố con đường giác ngộ của đức Phật được mô tả trong
kinh Tương Ưng (đặc biệt ở Nidaana Sa"myutta). Ở đây đức Phật
được mô tả như một người đi vào trong rừng sâu nhìn thấy con đường
xa xưa (puraa.na.ma~njasa"m), mà những người đời trước đã đi
qua. Đi lần theo con đường, vị ấy nhìn thấy thành phố cổ mà người
xưa đã từng sinh sống, rồi liền vào đó cư ngụ. Sau khi tự mình cư ngụ
và sinh sống, vị ấy liền trở về nguyên quán, loan báo cho dân chúng biết
về sự hiện hữu của thành phố cổ trong rừng sâu đó và khuyên mọi người
nên tự mình đi theo con đường có làm dấu mà mình đã đi qua, để tự họ
tận mắt nhìn thấy. Kinh cũng giải thích rõ thêm rằng con đường xa xưa
ấy chính là con đường thánh gồm tám yếu tố; thành phố cổ ấy ám chỉ
cho niết-bàn; người xưa chỉ cho các đức Phật quá khứ, và người
đi vào rừng sâu và phát hiện ra con đường đó là đức Phật Thích-ca, bậc
đạo sư sau khi tự mình phát hiện ra con đường thánh đã không dấu diếm
mà còn công bố rộng rãi cho quần chúng để giúp họ cùng chứng đạt niết-bàn.[14]
Như vậy, đức Phật được biết đến như người chỉ đường (maggassa
akkhaataa),[15] bậc đạo sư (satthaa) người đã vì tình thương chỉ
dẫn lại cho hành đệ tử (saavakaa) mình để cùng đạt được những
gì mình được. Nói đơn giản hơn, đức Phật trong kinh điển nguyên thủy
là vị A-la-hán đầu tiên và năm anh em Kiều-trần-như (pa~nca vaggiya)
là năm vị A-la-hán sau ngài. Có lẽ vì lý do này mà kinh mô tả không hề
có trong hệ thống thế giới trong một kiếp có hai đức Phật cùng ra đời,
dù khác thời có vị trước và vị sau.[16] Nhận xét về lý do tại sao chỉ
có một đức Phật ra đời trong một kiếp trong cùng một hệ thống thế
giới, tiến sĩ Katz đã viết rằng:
"Một lý do đơn giản là nếu
một vị Phật được đặc cách là người khám phá ra con đường mà trước
đây chưa được khám phá thì thật là đơn giản không thể có hai người
"đầu tiên" trong cùng một hệ thống thế giới."[17]
Trong Phật Nói Như Vậy (Itivuttaka),
các khái niệm A-la-hán, Như Lai và Phật được sử dụng đồng nghĩa với
nhau nhằm chỉ cho bậc giác ngộ nói chung. Nguyên văn của đoạn đó là:
"Người đã nhổ lên tham, sân và si được gọi là người với tâm đã
được thăng hóa, hay người đã trở thành Phạm Thiên, là Như Lai, là Phật,
là người đã không còn sợ hãi và sầu ưu, và là người đã diệt sạch
các bất thiện."[18]
Cần lưu ý rằng từ "Phật"
được sử dụng đồng nghĩa với từ "A-la-hán" trong ý nghĩa rằng
cả hai đều là bậc đã giác ngộ. Nhưng ngược lại, từ "A-la-hán"
lại không được dùng để chỉ cho "Phật" bởi lý do "Phật"
là người tìm ra và chỉ con đường giác ngộ, trong khi "A-la-hán"
là người đi theo và đạt được con đường giác ngộ đó. Đây có thể
là lý do các nhà Đại thừa đã tận dụng để tách biệt hai khác niệm vốn
khác nhau về tình trạng chứ không ở quả vị tu chứng, trở thành hai
khái niệm chỉ cho hai cấp độ tiến hóa và giác ngộ tâm linh hoàn toàn
khác nhau.
II. GIẢI THÍCH CỦA ĐẠI
THỪA
Sau khi đức Phật diệt độ, khi Phật
giáo Đại thừa (Mahaayaana) càng phát triển, từ "A-la-hán" đã
được thay thế bằng hai từ "Thanh Văn" (Ư ravaka) hay "Duyên
Giác" (Prayekabuddha) tùy thuộc theo ngữ cảnh. Theo Đại thừa, có ba loại
giác ngộ (bodhi), đó là giác ngộ của hàng Thanh Văn (Ư raavaka-bodhi),
giác ngộ của hàng Độc Giác (Prayekabuddha-bodhi) và giác ngộ tối
thượng của Phật (anuttara-samyak-sambodhi / mahaa-bodhi).[19] Hai loại giác
ngộ đầu được xem là thấp hơn loại giác ngộ thứ ba, cấp bậc tiến
hóa tâm linh cao nhất mà chỉ có đức Phật chứng được. Sự giác ngộ
tuyệt đối (samyak-sambodhi), còn được gọi là tuệ giác của Phật
(buddha-j~naana), là mục tiêu tu tập duy nhất của các hành Bồ-tát (Bodhisattva).
Tương ứng với ba loại giác ngộ này là hệ thống ba thừa (yaana) dẫn
đến mục tiêu giải thoát trong Phật giáo Đại thừa. Ba thừa là thừa
Thanh Văn (Ư raavaka-yaana), thừa Độc Giác (Prayekabuddha-yaana)
và thừa Bồ-tát (Bodhisattva-yaana).
Trong văn học Đại thừa, sự chứng
đắc tâm linh của hàng Thanh Văn và Duyên Giác được mô tả chỉ là nửa
chặn đường đến Phật quả. Nói khác đi, quả vị A-la-hán chỉ là bước
đường ban đầu hướng đến đích chứng đắc gồm ba thềm bậc. Sự chứng
đắc gồm ba thềm bậc được mô tả trong kinh điển Đại thừa là chứng
đắc của Thanh Văn, chứng đắc của Duyên Giác và chứng đắc của Phật.
Sự chứng đắc của Phật còn gọi là Phật thừa là tiêu chí phấn đấu
và tu tập của các hàng Bồ-tát. Sự giác ngộ hay niết-bàn của
Thanh Văn không được xem là giải thoát cuối cùng mà người tu tập chân
lý mong mỏi. Sự khác nhau đã hình thành nên lý tưởng Bồ-tát và lý tưởng
A-la-hán. Theo các nhà Đại thừa, lý tưởng Đại thừa là nhắm hướng đến
sự giác ngộ viên mãn (anuttara-samyak-sambodhi). Kinh Đại thừa tiêu biểu
cho học thuyết này là kinh Hoa Sen Chánh Pháp (Saddharmapu.n.dariika
Suutra). Theo kinh này, đức Phật vì phương tiện nên đã tuyên
thuyết có ba thừa đó là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Phật thừa,
nhưng mục đích chính là nhằm dẫn dụ để xiển dương một Phật thừa
mà thôi. Nghĩa là khi trình bày Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa không có
nghĩa cho rằng đây là giác ngộ hay giải thoát tối hậu, mà chỉ nhằm
dùng nó như một phương tiện hướng dẫn chúng sanh nhận ra Phật thừa
cao siêu một cách tiệm tiến có hiệu quả.
Trong kinh Hoa Sen Chánh Pháp, tất
cả các vị đệ tử quan trọng của đức Phật như Xá-lợi-phất
(Saripuutra), Ca-diếp (Kaa'syapa), Ca-chiên-diên (Mahaakaatyaayana), Mục-kiền-liên
(Maudgalyaayana), A-nan-đa (€ nanda) v.v. . . đều tiếp tục trao dồi tâm linh
cho đến lúc chứng đạt quả Phật. Một đoạn kinh trong phẩm thứ VII, phẩm
Hóa Thành Dụ ghi như sau:
Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai như
người chỉ huy biết được tình trạng của con đường xấu, dài xa chứa
đầy các nguy hiểm của sanh, già, bệnh, chết và vô minh, mà tất cả
chúng sanh phải một lần vượt qua. Nếu Như chỉ nói có một thừa thì
các vị đã không có lòng mong mỏi để tiếp nhận mà đi trọn con đường
đó. Các vị đã có thể suy nghĩ rằng con đường đến quả Phật thật là
dài, lâu và khó đạt đến được đối với phàm phu chúng ta.
Như Lai biết rằng các vị mau mỏi
mệt và dễ chán nãn. Để cho các vị được nghỉ mệt nửa đường, Như
Lai đã phương tiện trình bày niết-bàn bằng hai thừa. Khi ai đã chứng
được hai thừa này rồi thì Như Lai sẽ bảo rằng các vị vẫn chưa làm
xong những gì cần làm. Các vị chỉ mới gần đến quả Phật mà thôi. Niết-bàn
mà các vị đạt được chưa phải là cứu cánh. Từ một thừa Như Lai
đã vì phương tiện nói thành ra ba thừa.[20]
Khái niệm một thừa mà kinh này
nói là Phật thừa. Khi đề cập đến Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa,
đức Phật chỉ vì phương tiện giúp cho hành giả ngơi nghỉ trên đoạn
đường tâm linh quá dài và đầy mệt mõi. Cũng như một vị lãnh đạo
linh động để giúp cho các bạn đồng hành được nghỉ ngơi trên một
hành trình dài đã tạo ra một thành phố giả. Sau khi những người đồng
hành đã khỏe, người lãnh đạo liền nói với họ rằng đó chỉ là một
thành phố giả. Cũng vậy, hai thừa Thanh Văn và Duyên Giác lập lên như những
thành phố giả giữa đường, để giúp sức lực cho hành giả đi trọn
con đường phát triển tâm linh và giác ngộ, đạt đáo Phật quả. Điều
mà các nhà Đại thừa muốn nhắn nhủ là hành giả Phật giáo không nên dừng
chân lại ở giai đoạn của hai thừa vốn chỉ là nửa đường của quả
Phật.
Trong chương 8 của kinh Hoa Sen Chánh
Pháp, phẩm thọ ký quả Phật cho 500 đệ tử A-la-hán, có đoạn
xác quyết rằng niết-bàn mà các vị A-la-hán đạt được không phải
là sự giác ngộ cuối cùng. Nó chỉ là nửa giai đoạn của Phật quả.
500 vị A-la-hán đã thừa nhận rằng từ lâu nay họ đã lầm nhận niết-bàn
của Thành Văn thành niết-bàn của Phật, đều đồng thanh bạch
Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Chúng con đã
nghĩ rằng chúng con đã chứng được niết-bàn tối hậu. Nay chúng
con mới biết rằng mình chẳng khác nào người không có trí tuệ, bởi vì
chỉ thoả mãn với trí tuệ của tiểu thừa mặc dù chúng con có thể chứng
đắc trí tuệ của Phật.
Đức Phật đã dạy rằng:
Này các tỳ-kheo, những gì các vị
đạt được chưa phải là niết-bàn tối hậu. Như Lai đã giúp các
vị gieo trồng hạt giống Phật từ lâu. [Các vị đã quên đi]. Nên nay Như
Lai tuyên bố giáo pháp niết-bàn như là một phương tiện. Các vị
nghĩ rằng các vị đã chứng đạt quả niết-bàn thật trong khi các
vị chỉ chứng đạt được niết-bàn phương tiện mà thôi.[21]
Theo kinh Hoa Sen Chánh Pháp, sau
khi nhổ tận gốc rễ của các lậu hoặc (aa'srava), bậc A-la-hán phải
thực hành các cấp độ tâm linh (bhumii) cao hơn của hàng Bồ-tát, để
có thể chứng đạt sự giác ngộ tối thượng (anuttara-samyak-sambodhi)
của Phật.
Trong quá trình phát triển học thuyết
Bồ-tát, nhiều kinh điển Đại thừa đã đặc cách hóa rằng những ai chỉ
nhắm tới sự chứng đạt niết-bàn của hành Thanh Văn và Duyên
Giác là những người ích kỷ, những người bị dán nhãn hiệu tiểu thừa.
Lời cáo buộc đó gồm hai dụng ý: phủ nhận quả A-la-hán như quả vị
cuối cùng và các vị Thượng toạ là những người của chủ nghĩa vị kỷ,
chỉ giải thoát luân hồi cho chính mình, mà không màn đến đau khổ của
chúng sanh trong sanh tử luân hồi. Lời cáo buộc này cần xét lại.
Nếu lời cáo buộc đó nhắm đến
các vị A-la-hán như là những người ích kỷ, đối lập với tính vị tha
của các vị Bồ-tát trong việc phục vụ nhân sanh thì đó hoàn toàn là một
sự hiểu sai, giải thích sai và ít nhất là không phản ánh trung thực với
sự kiện. Chúng ta biết rằng trong văn học Paali, từ "Bồ-tát"
được sử dụng không quan trọng bằng từ "A-la-hán" vì từ Bồ-tát
chỉ dùng để chỉ cho tình trạng và điều kiện của Cồ-đàm Tất-đạt-đa
(Gautama Siddaartha) trước khi giác ngộ thành Phật hay là một vị A-la-hán
đầu tiên trên thế giới này dưới cội Bồ-đề. Trong khi đó, từ
"A-la-hán" là một trong mười danh hiệu của Phật. Trong ngữ cảnh
này, từ A-la-hán được dùng đồng nghĩa với Phật, trong khi từ Bồ-tát
không thể dùng đồng nghĩa được. Nói cách khác, theo các nhà Thượng toạ,
để trở thành một vị A-la-hán trước tiên hành giả phải là một vị Bồ-tát.
Kế đến, sẽ là một điều sai lầm khi cho rằng các vị A-la-hán không thể
chăm lo đến sự giải thoát của chúng sanh trong ba cõi, như các vị Bồ-tát
đã làm. Kế đến, về mặt từ nguyên, từ A-la-hán có nghĩa là "bậc
có giá trị về đạo đức và trí tuệ" (the
intellectually-cum-ethically worthy)." Giá trị đạo đức và trí tuệ của
các A-la-hán là những giá trị cao thượng vượt khỏi tính bản ngã, vị
kỷ, chủ nghĩa tự ngã trung tâm, dưới bất kỳ hình thức nào. Không có
người ích kỷ nào trong lịch sử Phật giáo là một vị A-la-hán. Nói
cách khác, không thể có một vị A-la-hán ích kỷ, từ lịch sử cũng như
trong ý nghĩa thực tiễn. A-la-hán được định nghĩa là người đã vượt
qua khỏi thác lũ và qua đến bờ bên kia (paaragata), nhổ lên tận gốc
của tham ái, diệt trừ toàn bộ các lậu hoặc (aasava), thành tựu trọn
vẹn ba mươi bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ và chứng đạt niết-bàn.[22]
Quả A-la-hán luôn kéo theo sự diệt trừ toàn bộ các dòng chảy bất thiện
và bất tịnh của tâm, trong đó có tính ích kỷ hay vị kỷ. Các ngài
luôn dấn thân phục vụ chúng sanh một cách vô điều kiện. Do đó không
thể cáo buộc các ngài là vị kỷ hay tiểu thừa.
Như vậy, sự cáo buộc còn lại
có thể là chống các tỳ-kheo theo truyền thống Thượng Toạ bộ, những
người đã có thể đã phát hoạ ra những quả A-la-hán với một lý tưởng
ích kỷ. Lời cáo buộc nhắm tới các vị ích kỷ trong truyền thống Thượng
Toạ bộ chứ không phải bản thân của các vị A-la-hán.[23] Bằng giảng dạy
và hành trì, các vị A-la-hán trong lịch sử nhân loại đã trở thành những
nhân vật đạo đức mẫu mực cho đời về tinh thần phục vụ nhân sinh,
vì lợi ích của số đông, vị lợi ích cho loài trời và loài người. Phái
đoàn hoằng pháp đầu tiên được đức Phật phái đi bao gồm 60 vị
A-la-hán, đã tình nguyện ra đi nhiều phương hướng khác nhau để tuyên bố
chánh pháp mới để làm lợi lạc cho số đông.[24] Điều các vị A-la-hán
làm là trước tiên giác ngộ bản thân, sau đó truyền bá con đường giác
ngộ đó cho tha nhân, để giúp chúng sanh cùng thoát khỏi vòng sanh tử.
Các bậc A-la-hán như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, A-nan, Ca-diếp và
Ca-chiên-diên và nhiều vị A-la-hán khác nữa đã noi gương theo đức Phật,
dấn thân vào con đường phát triển đạo đức, trí tuệ và vun bồi đời
sống tâm linh cho quần chúng. Các vị A-la-hán đó không khác gì các vị Bồ-tát
trong kinh Đại thừa. Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên.[25] Các vị
A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ
sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại thoát khỏi
khối đau khổ của sanh tử luân hồi. Do đó, các cáo buộc cho rằng
A-la-hán là tiêu cực, là ích kỷ, là tiểu thừa chỉ phản ảnh một sự
hiểu biết phiến diện về lời Phật dạy nói chung về các bậc A-la-hán
nói riêng.
CHÚ THÍCH
[1] D. I. 49; S. I. 219.
[2] S. II. 210-14; S. IV. 105; A. I. 172;
A. III. 61.
[3] A. I. 172.
[4] S. IV. 105.
[5] Nathan Katz, Buddhist Images of Human
Perfection. (Delhi: Motilal Banarsidass Publications, 1989; 1st Ed. 1982), p. 124.
[6] S. II. 210-14.
[7] S. II. 214: Aha~nca bhikkhave
aasavaana"m khayaa anaasavana"m cetovimutti"m pa~n~naavimutti"m
di.t.theva dhamme sayam abhi~n~naa sacchikatvaa upasampajja viharaami. Kassapo pi
bhikkhave aasavaana"m khayaa anaasavana"m cetovimutti"m
pa~n~naavimutti"m di.t.theva dhamme sayam abhi~n~naa sacchikatvaa viharatiiti.
[8] M. II. 144: pubbenivaasa"m yo
vedi / saggaapaaya~n ca passati / atho jaatikkhaya~n patto / abhi~n~naa vosito muni /
citta"m visuddha"m jaanaati / mutta"m raagehi sabbaso / pahiinajaatimara.no
/ brahmacariyassa kevalii / paaraguu sabbadhammaana"m / Buddho taadi pavuccatiiti //.
[9] M. III. 8; MLS. III. 58-9. Xem thêm
M. II. 8; S. III. 65-66.
[10] Thag. v. 1246: buddhaanubuddho yo
thero ko.nn~no tibbanikkhamo, laabhi sukhavihaaraana"m vivekaana"m abhinhaso,
vị tôn giả được giải thoát kế theo sau đức Phật là Kiều-trần-như,
là một vị có năng lực khoẻ mạnh đã đạt được sự an trú trong hạnh
phúc và xả ly.
[11] M. III. 6; MLS. III. 56.
[12] It. 79-80.
[13] It. 78. Nên lưu ý rằng ở A. I.
22 and M. I. 110, lời tuyên bố chỉ ám chỉ cho đức Phật chứ không cho hai
hạng còn lại. Điểm này đã làm bối rối các học giả.
[14] S. II. 105-6.
[15] S. III. 66.
[16] D. xix. 14: a.t.thaana"m kho
eta"m maarisaa anavakaaso ya"m ekissaa lokadhaatuyaa dve arahanto
sammaa-sambuddhaa apubba"m acarima"m upajjeyyu"m. Neta"m
.thaana"m vijjati. So sánh. D. xxviii. 19; M. III. 65.
[17] N. Katz, Sách đã dẫn (1989):
130: One very simple reason for this is that if a Buddha is characterized as one who
discovers a way which had not been discovered before, then there simply cannot be two
'firsts' in the same world-system.
[18] It. 57: Yassa raago ca doso ca
avijjaa ca viraajitaa / ta"m bhaavitatta~n~natara"m brahmabhuuta"m
tathaagata"m / buddha"m verabhayaatiita"m aahu sabbapahaayinan ti//
[19] H. Dayal. The Bodhisattva Doctrine in
Buddhist Sanskrit Literature. (Delhi: Motilal Banarsidass, 1931), p. 10.
[20] The Lotus Suutra, tr. from the
Chinese by Senchu Murano. (Kyoto: Nichiren Shu Headquaters, 1974), p. 132.
[21] Sách đã dẫn, p. 147-8.
[22] S. I. 33; A. II. 39.
[23] Encyclopedia of Buddhism. III. 230b.
So sánh Sn. pp. 6-12.
[24] Vin. I. 19-21.
[25] Chẳng hạn như trong phẩm
Caapaala Vagga thuộc kinh Tương Ưng (S. V. 257) đức Phật nói rằng Như Lai
được gọi là bậc A-la-hán, bậc Giác ngộ viên mãn. Trong Vin. I. 14, sau
khi nhóm năm anh em Kiều-trần-như (pa~ncavaggiya) thành A-la-hán, đức Phật
tuyên bố rằng lúc đó chỉ có 6 vị A-la-hán trên đời, trong đó đức Phật
là một, nhưng là người đầu tiên. Cũng xin nói thêm trong kinh điển nguyên
thủy tất cả các bậc A-la-hán đều được mô tả là các bậc giác ngộ
sau sự giác ngộ của đức Phật (buddhaanubuddhaa). Thag. p. 111.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/093-tnt-qua.htm