- CÁC CẤP ĐỘ HẠNH PHÚC
- Thích Hiển Chánh
Trong các khoái lạc
giác quan, sự ô nhiễm về cảm xúc (upakkilesaa), và các lậu hoặc tâm
(aasavaa) ngày càng phát triển, trong khi trong thiền định, chúng càng ngày
càng bị giảm thiểu, và chỉ với hạnh phúc niết-bàn, chúng mới hoàn
toàn mất dạng.
***
Trong đạo Phật, thuật ngữ hạnh
phúc được biết đến là sukha.[1] Sukha mang nhiều nghĩa và có
thể được dịch là hạnh phúc, an lạc hay cảm giác vui sướng, dù là thuộc
giác quan, thuộc tâm, hay giải thóa t. Trong kinh điển nguyên thuỷ, có hai
loại hạnh phúc là hạnh phúc của khoái lạc giác quan (kaama-sukha),
hay còn gọi là năm dục lạc (pa~nca kaamagu.na)[2] và hạnh phúc của niết-bàn
(nibbaana'm sukha'm). Một phân loại khác đó là hạnh phúc thế gian
hay vật chất (aamisa-sukha) và hạnh phúc phi thế gian hay tâm linh (niraamisa-sukha).
Hạnh phúc thế gian bắt nguồn từ sự thoả mãn các giác quan trong khi hạnh
phúc siêu thế gian bắt nguồn từ đời sống thiền định và tâm linh. Hạnh
phúc giác quan (kaama-sukha) bao gồm hạnh phúc thuộc về thân (kaayika
sukha) và hạnh phúc thuộc về tâm (cetasika sukha).[3] Khuynh hướng
chung của chúng sanh phàm phu thường xem hạnh phúc giác quan là hạnh phúc
cao nhất.[4] Phật giáo bất đồng với quan điểm phổ biến này, trái lại,
dạy chúng ta một loại hạnh phúc ở cấp độ cao hơn, bao gồm hạnh phúc
của niết-bàn. Chỉ có niết-bàn được người Phật tử xem là
thứ hạnh phúc cao cấp nhất (nibbaana'm parama'm sukha'm)[5] mà con người
có thể đạt được thông qua các nỗ lực cá nhân đúng phương pháp ngay
trong đời sống hiện tại này.
Để chi tiết hóa, hạnh phúc có thể
được phân thành ba nhóm chính, đó là, (i) hỷ và lạc từ các đối tượng
giác quan (saamisaa piiti saamisa'm sukha'm), (ii) hỷ và lạc thoát khỏi
các đối tượng giác quan (niraamisaa piiti niraamisa'm sukha'm), và (iii) hỷ
và lạc vi tế thoát khỏi các đối tượng giác quan (niraamisataraa piiti
niraamisatara'm sukha'm)[6] Loại thứ nhất được gọi là hạnh phúc giác
quan, loại thứ hai là hạnh phúc thiền định và loại thứ ba là hạnh
phúc niết-bàn. Ba loại hạnh phúc này tương ứng với ba cấp độ hữu
tình và được phân loại từ thấp đến cao đó là hạnh phúc cõi người,
hạnh phúc cõi trời và hạnh phúc niết-bàn, trong đó, hạnh phúc
cõi người là thấp nhất và hạnh phúc niết-bàn là cao nhất.[7] Hạnh
phúc cõi người bao gồm các hạnh phúc phát sanh từ các giác quan. Hạnh
phúc cõi trời phát sanh từ thiền định. Hạnh phúc niết-bàn phát
sanh từ sự thực hành con đường thánh gồm tám yếu tố. Phân loại ba hạnh
phúc này được dựa trên mức độ nội dung và phẩm chất của hạnh
phúc mà con người có thể có được tùy theo mức độ chuyển hóa tâm
linh. Theo đức Phật, hạnh phúc của giác quan và hạnh phúc thiền định
chỉ có giá trị bằng 1/16 (phân số biểu tượng một tỷ lệ rất nhỏ và
không đáng kể) so với hạnh phúc của niết-bàn, sự chấm dứt
hoàn toàn đau khổ và tham ái.[8]
Hạnh phúc con người, cũng còn gọi
là năm dục lạc (pa~nca kaamagu.na), phát sanh từ sự tiếp xúc của mắt
đối với vật thể, tai với âm thanh êm dịu, mùi khả ái với mủi, vị
ngon ngọt với lưởi và thân thể với sự xúc chạm êm ái. Bất kỳ cảm
giác dễ chịu hay khoái lạc hay hạnh phúc nào phát sanh từ năm dục lạc
trên đều được gọi là hạnh phúc giác quan.[9] Hàng chúng sanh phàm phu thường
cho đây là khả lạc, khả ái, khả hỷ, thích thú, đam mê như thể chúng
là các hạnh phúc quý nhất trên đời mà con người có thể đạt được.
Nhiều người còn cho đó là mục đích tối thượng của cuộc sống, chẳng
hạn như những nhà duy vật luận (Caavaarka or Lokaayatika), không biết đến
các giá trị tâm linh, xem vật chất là thượng đế của mọi thứ trên đời.
Để cho thấy giá trị giới hạn của
loại hạnh phúc giác quan, đức Phật giới thiệu chín cấp độ của hạnh
phúc thiền định. Chín cấp độ này được chia thành ba nhóm, bao gồm, 4
loại hạnh phúc gắn liền với 4 cấp độ thiền định của thế giới sắc
thể (ruupajjhaanaani), 4 loại hạnh phúc gắn liền với 4 cấp độ thiền
định của thế giới vô sắc thể (aruupajjhaanaani) và hạnh phúc
trong trạng thái không còn cảm giác và tưởng tượng (sa~n~naavedayitanirodha,
diệt thọ tưởng định), như được ghi chép trong kinh Bahuvedaniya-Sutta[10]
thuộc Trung Bộ, và trong một số kinh nguyên thủy khác.[11] Theo đức Phật,
hạnh phúc giác quan sẽ dẫn đến luân hồi, trong khi đó, hạnh phúc thiền
định là những thang bậc hướng ta đến sự chứng đạt hạnh phúc niết-bàn,
một thứ hạnh phúc siêu việt hơn nhiều so với hạnh phúc giác quan. Hạnh
phúc thiền định chỉ có thể đạt được bằng phương tiện của tuệ
tri về bản chất thoả mãn tạm thời và nguy hiểm dài lâu của các giác
quan và do nhìn thấy được nhu cầu thoát khỏi chúng. Điều này sẽ từ từ
kéo theo sự thay thế lẫn nhau từ hạnh phúc giác quan sang thiền định bằng
sự suy nghĩ và hiểu biết chân chánh:
Khi vị thánh đệ tử nghĩ rằng,
"khoái lạc giác quan chỉ cung cấp ít thoả mãn nhưng mang lại nhiều
đau khổ về lâu về dài, và sự thoát khỏi khoái lạc như vậy là có
giá trị," vị ấy liền nhận chân ra được điều này, như chúng thật
sự là, thông qua tuệ tri viên mãn, và vị ấy chứng đạt được cảm giác
hỷ và lạc vượt khỏi các khoái lạc giác quan, nhờ đó vị ấy không bị
các khoái lạc giác quan kích thích và chi phối.[12]
Sự thay thế các khoái lạc giác
quan bằng các hạnh phúc thiền định được mô tả rất rõ trong câu kinh
sau đây: "Bậc trí thực hành thiền định chỉ và quán, trở nên hân
hoan với sự an lạc của giải thoát khỏi các khoái lạc giác quan và các
lậu hoặc của tâm."[13]
Trong các khoái lạc giác quan, sự
ô nhiễm về cảm xúc (upakkilesaa),[14] và các lậu hoặc tâm (aasavaa)[15]
ngày càng phát triển, trong khi trong thiền định, chúng càng ngày càng bị
giảm thiểu, và chỉ với hạnh phúc niết-bàn, chúng mới hoàn toàn
mất dạng. Đoạn kinh sau đây mô tả rõ điều nầy: "các hoạt động
tâm lý (citta), khi vun bồi một cách trọn vẹn bằng trí huệ (pa~n~naa),
sẽ thoát khỏi các lậu hoặc của tham ái, tái hiện hữu, quan điểm và
vô minh."[16] Nói cách khác, hạnh phúc niết-bàn chỉ đạt được
thông qua sự chuyển hóa tâm lý thành tuệ (a~n~naa) và trí (pa~n~naa),
trong khi đó, hạnh phúc giác quan sẽ dẫn đến sự gia tăng các chấp mắc
về cảm xúc (aalaya/upaadaana). Kiến thức về diệt tận các tâm lý bất
thiện luôn hiện hữu trong trạng thái hạnh phúc của niết-bàn. Đây
là điều được mô tả trong kinh A.t.thakanaagara-sutta thuộc Trung Bộ:
"đối với người [đã đạt
được hạnh phúc niết-bàn], dù là đi, đứng, nằm hay ngồi, thức
hay ngủ, các lậu hoặc đã được dứt sạch, và khi vị này nghĩ đến
điều này, vị ấy tuệ tri rõ rằng, "ta đã đoạn tận các lậu hoặc."[17]
Nói cách khác, khoái lạc giác quan
chỉ là nguồn hay điều kiện để phát sanh chuổi vận hành (sa"nkaara-pu~nja)
của tâm, miệng và hành vi, có thể làm tổn hại cho mình và người và cả
hai. Sự tìm kiếm khoái lạc giác quan (raaga/kaama), tham ái (ta"nhaa)
như là đối tượng khoái lạc cao nhất sẽ ngự trị trong những ai làm
nô lệ cho các kinh nghiệm giác quan. Khoái lạc giác quan do đó đã trở
thành chướng ngại vật của sự chứng đạt tuệ (a~n~naa) và trí (pa~n~naa).
Thái độ và phản ứng của con người trước các khoái lạc giác quan cho
thấy mức độ khác nhau của tâm đã được chuyển hóa hay chưa, nhiều
hay ít. Khuynh hướng vướng mắc vào các đối tượng khoái lạc giác quan
cũng như những phản ứng xoay lưng lại với những gì không khoái lạc (sukha-kaama
hi sattaa dukkhapa.tikuulaa)[18] được thể hiện một cách khác nhau ở mỗi
người, nhất là từ góc độ họ quan niệm, đánh giá và phản ứng
chúng. Có thể tin tưởng rằng nhờ vào sự nhận chân sự giới hạn và
phản ứng ngược chiều của các khoái lạc giác quan trong việc mang lại
nhiều trở ngại và đau khổ cho hiện hữu người, đức Phật đã tầm cầu,
phát triển, đạt được và giảng dạy các loại hạnh phúc cao hơn và cao
nhất, có thể đem lại cho nhân loại và các chúng sanh khác nhiều giá trị
đạo đức và tâm linh.
Đào luyện trong bốn cấp thiền
cao cấp của thế giới sắc thể (ruupajjhaanaani) sẽ tạo nên những
bước thang ban đầu để đạt được hạnh phúc cao nhất của niết-bàn.
An trụ vào bốn cảnh giới thiền vô sắc thể là một bước tiến cao
hơn. Duy trì mình trong trạng thái vắng mặt hoàn toàn các cảm giác và nhận
thức (diệt thọ tưởng định) là một bước tiến cao hơn nữa. Theo đức
Phật, không chỉ hạnh phúc giác quan không phải là hạnh phúc tối thượng,
mà ngay cả hạnh phúc thiền định cũng chưa phải là đích đến cuối cùng,
như nhiều người đã lầm tưởng và đánh đồng. Có một thứ hạnh phúc
siêu việt hơn, vi diệu hơn các hạnh phúc thiền định đó là hạnh phúc
của niết-bàn (nibbaana'm parama'm sukha'm),[19] thứ hạnh phúc của
giải thoát (vimuttisukha) mà con người có thể đạt được ngay trong
kiếp sống này.[20]
Các khoái cảm của Sukha thường
giới hạn trong các khoái lạc giác quan thông thường, và trong ba mức độ
đầu thiền thứ nhất (ruupaloka) mà thôi. Khoái lạc giác quan thường
tạm bợ, chóng vánh và có thể trở thành đau khổ bắt cứ lúc nào, trong
khi trong thiền định, hạnh phúc có mặt dưới hình dạng vi tế và siêu
tuyệt hơn. Hạnh phúc của thiền thứ ba (tatiya-jhaana) được xem là
tầm mức cao nhất của các hạnh phúc này. Chứng nhập và an trú trong thiền
thứ tư, mặc dù không còn cảm giác (hạnh phúc và khổ đau), nhưng do có
trạng thái "xả" (upekkhaa), an tĩnh, cũng được xem là loại
hạnh phúc vi tế. Nói cách khác, hạnh phúc ở mức độ thông thường chỉ
giới hạn trong cảm giác, hay chỉ là vấn đề của cảm giác, trong khi hạnh
phúc ở mức độ cao hơn không còn là vấn đề của cảm giác nữa. Điều
này có nghĩa là bất cứ cái gì không-đau-khổ đều được xem là hạnh
phúc, trong đó, trạng thái "xả" là một loại điển hình.[21] Đây
là điều được tôn giả Saariputta lập đi lập lại nhiều lần trong kinh
Tăng Chi (A"nguttara-Nikaaya): "bản thân sự vắng mặt các cảm
giác được xem là hạnh phúc."[22]
Về các cấp độ hạnh phúc khác
nhau của thiền sắc giới (ruupajjhaanaani), kinh điển nguyên thủy[23]
trình bày như sau. Điều kiện để vào thiền thứ nhất (pa.thama-jhaana)[24]
là tỉnh thức trước các đam mê khoái lạc giác quan, và các trạng thái bất
thiện của tâm. Ở đây, đam mê khoái lạc giác quan đã chấm dứt, các tư
tưởng dẫn tâm (vitakka, tầm) tư tưởng duy trì tâm (vicaara, tứ)
hoạt động, tràn đầy hỷ (pii.ti) và lạc (sukha), phát sanh từ
đời sống yểm ly. Trong trạng thái thiền thứ hai (dutiya-jhaana), với
sự niềm tin nội tại (ajjhatta'm sampasaadana'm) và sự tập trung
chuyên nhất của tâm (cetaso ekodibhaava'm), chỉ có hỷ và lạc còn lại
trong khi tầm và tứ đã chấm dứt (avitakka'm avicaara'm), tại đó,
tâm trở nên an tịnh (passaddhi) và chuyên nhất (cittass ekaggataa).
Lúc ấy, hỷ và lạc lan tràn toàn thân và trong từng giác quan một. Trong cấp
độ thiền thứ ba (tatiya-jhaana), với sự không vướng mắc vào hỷ
và lạc (pitiiyaa ca viraagaa), thiền giả cảm nhận được hạnh phúc
của toàn thân với "xả" (upekkhaa), chánh niệm (sati)
và tỉnh giác (sampaja~n~na). Trong cấp độ thiền thứ tư, tất cả các
cảm giác như hỷ lạc của tâm (somanassa) khổ đau của tâm (domanassa)
cũng như hạnh phúc của thân (sukha) và đau đớn của thân (dukkha)
đều mất dạng. Đây là một trạng thái không còn đau khổ không còn hạnh
phúc (adukkhamasukha), và theo đó, xả, chánh niệm, tỉnh giác và thanh
tịnh (upekkhaasatipaarisuddhi) ngự trị. Các trạng thái tâm này được
liệt vào nhóm hạnh phúc tương đối cao.
Theo sau sự chứng đạt thiền thứ
tư (catuttha-jhaana) là bốn trạng thái thiền vô sắc giới (aruupajjhaanaani),
an tịnh, vượt lên trên các hình thái vật thể (santaa vimokkhaa atikkamma
ruupe aaruppaa).[25] Cấp độ thiền vô sắc thứ nhất là không vô biên xứ
(aakaasana~ncaayatana), được mô tả như sau. Với sự khắc phục trọn
vẹn các nhận thức về vật chất (sabbaso ruupasa~n~naana'm samatikkamaa),
với sự mất dạng của các nhận thức về sự kháng cự (pa.tigha
sa~n~naana'm atthagamaa), với sự không chú ý về các nhận thức về sự
khác nhau (naanattasa~n~naana'm amanasikaaraa), ý thức vào không gian vô hạn
(ananto aakaaso), thiền giả bước vào và an trú ở cảnh giới không
vô biên xứ. Trong cấp độ thiền vô sắc thứ hai thường được biết đến
với tên gọi thức vô biên xứ (vi~n~naa.na~ncaayatana), thiền giả bằng
cách vượt qua trọn vẹn cái không gian vô hạn định và ý thức về
"ý thức vô cùng," bước vào và an trú ở cảnh giới thức vô
biên xứ. Trong cấp độ thiền thứ ba thường được gọi là vô sở hữu
xứ (aaki~nca~n~naayatana), thiền giả nhờ vượt qua cảnh giới vô hạn
của ý thức, và ý thức về cái không hiện hữu (abhaava) và rỗng
không (su~n~nata), bước vào và an trú vào cảnh giới không vô biên xứ.
Tiến trình chứng đạt cấp thiền vô sắc giới thứ tư này được mô tả
như là sự vượt qua trọn vẹn cảnh giới không vô biên, thiền giả bước
vào và an trú cảnh giới không-phải-nhận-thức-không-phải-không-nhận-thức
(nevasa~n~naa naasa~n~naayatana, phi tưởng phi phi tưởng xứ).[26]
Sự chứng đạt các cấp thiền cao
này đòi hỏi nhiều huấn luyện (sa'mvara), chẳng hạn như làm chủ
các giác quan, thanh tịnh hóa quan niệm về thế giới dưới góc độ không
thực thể, thực hành hạnh không chấp mắc (anaalaya) trước các dữ
liệu giác quan, nhìn các sự vật như chúng là, loại bỏ các lậu hoặc (aasava),
như tham dục (kaama), tái hiện hữu (bhava), quan điểm sai (di.t.thi)
và vô minh (avijjaa).
Phá hủy trọn vẹn các lậu hoặc
này được gọi là chứng đạt niết-bàn. Đây thật ra là sự chuyển
hóa trọn vẹn nhân tính tâm vật lý. Về phương diện vật lý, bậc giác
ngộ hay chứng đạt niết-bàn luôn trong trạng thái thư giản và an
trú của thân (kaaya-passaddhi). Mặc dù phải đối diện với tuổi già,
biến hoại và cái chết, bậc giác ngộ thoát khỏi các phản ứng và chấp
mắc cảm xúc. Về phương diện tâm lý, bậc giác ngộ thoát khỏi các
dòng chảy bất thiện và bất tịnh của tâm.
CHÚ THÍCH
[1] Cũng còn có nghĩa là dễ chịu,
vui thích, hài lòng, dễ đồng tình, khoái lạc, an lạc, phúc lợi, lý tưởng
và thành công. Xem Pali English Dictionary của PTS, mục từ sukha: 726a.
[2] M. I. 85, 92, 398, 454.
[3] S. IV. 231.
[4] M. II. 42-3.
[5] Dhp. 203-4; S. I. 125, S. IV. 371-2;
M. I. 508-9; Ud. 10; Thag. 35.
[6] S. IV. 235.
[7] Ud. 11.
[8] Ibid.
[9] M. I. 398.
[10] M. I. 398-400.
[11] Chẳng hạn như D. III. 265, 290;
A. IV. 410.
[12] M. I. 91: Yato ca kho Mahaanaama
ariyasaavakassa: appassaadaa kaamaa bahudukkhaa bahupaayaasaa, aadiinavo ettha bhiyyoti
evam-eta'm ?????????????? sammappa~n~naaya sudi.t.tha'm hoti, so ca a~n~natreva kaamehi
a~n~natra akusalehi dhammehi piitisukha'm adhigacchati a~n~na~nca tato santatara'm atha
kho so anaava.t.tii kaamesu hoti.
[13] Dhp. 181.
[14] M. I. 36.
[15] D. I. 84.
[16] D. II. 81: Pa~n~naaparibhaavita'm
citta'm sammadeva aasavehi vimuccati seyyathiida'm kaamaasavaa bhavaasavaa di.t.thaasavaa
avijjaasava.
[17] M. I. 532: . . . tassa carato ceva
ti.t.thato ca suttassa ca jaagarassa ca satata'm samita'm khii.naa vaa aasavaa, api ca kho
na'm paccavekkhamaano jaanaati: khii.naa me aasavaati.
[18] M. I. 341; S. IV. 172.
[19] Dhp. 203-4; S. I. 125, S. IV. 371-2;
M. I. 508-9; Ud. 10; Thag. 35.
[20] S. II. 18, 34, 115; III. 163; IV.
141; M. III. 286.
[21] M. I. 400; S. IV. 228.
[22] A. IV. 415-6: Etadeva khvettha
sukha'm yad ettha natthi vedayita'm.. Tham khảo thêm S. IV. 228; Sn. 739.
[23] A. IV. 408-18; D. I. 37, 74-6; M. I.
247-9, 398-400.
[24] Về các ẩn dụ của hạnh
phúc của bốn cấp độ thiền, xem D. I. 74-6.
[25] M. I. 33.
[26] D. I. 183-4; A. IV. 415-6.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/094-tnt-hanhphuc.htm