- NIẾT-BÀN VÀ SỰ CHẤM
DỨT LUÂN HỒI
- Thích Nhật Tuệ
Ở bậc giác ngộ, các tiếp xúc chỉ
còn là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các phản ứng tình
cảm và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ
vào sự chánh niệm và sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của
chúng là . . . Tham ái bị phá vỡ. Chấp thủ không còn chân đứng. Sanh tử
đành phải vẫy tay chào từ biệt một cách vĩnh viễn, không nuối tiếc!
***
Như được ghi chép trong kinh điển
Phật giáo, điều kiện để con người và các loài hữu tình khác tồn tại
là tham ái hay chấp thủ về sự sống (bhava-ta.nhaa). Niết-bàn trái
lại là sự chấm dứt các tham ái và chấp thủ đó. Một trong các đặc tính
của niết-bàn là chấm dứt toàn bộ dòng tiếp nối của tái sanh (sa'msaara)
hay tái hiện hữu (bhavacakka). Nếu đau khổ (dukkha) được tạo
nên hay được định nghĩa bằng sự sanh (jaati), già (jaraa), chết
(mara.na'm), sầu (soka), bi (parideva), khổ (dukkha), ưu
(domanassa) và não (upaayaasa),[1] thì sự chấm dứt của toàn bộ
khối đau khổ (anto dukkhassa)[2] là niết-bàn. Nói cách khác, niết-bàn
là sự diệt tận dòng chảy của tái hiện hữu (bhavanirodho nibbaana'm),[3]
hay sự chấm dứt của chuổi vận hành sanh và tử (jaatimara.nassa anta'm).
Theo học thuyết nghiệp và tái sanh, một chúng sanh được sanh ra là do các
trói buộc của vô minh (avijjaa), tham ái (ta.nhaa) và chấp thủ (upaadaana).
Sự chứng đạt niết-bàn trái lại bao gồm sự diệt trừ trọn vẹn
các trói buộc này bằng cách phát triển tuyệt đối tuệ giác (vijjaa)
và trí tuệ (pa~n~naa). Đó là tiến trình chấm dứt luân hồi. Đức
Phật và các vị A-la-hán khác đã diễn tả một cách sinh động kinh nghiệm
về sự chấm dứt luân hồi bằng các câu Cảm Hứng Ngữ (Udaana):
"sanh đã tận, đời sống thánh đã hoàn thành, điều cần làm đã
làm, không còn phải tái sanh nữa."[4]
Khái niệm vòng sanh tử ở đây
nên được hiểu dưới góc độ ở tương lai hơn là ở hiện tại. Nghĩa
là, đức Phật, đức Như Lai, bậc A-la-hán, bậc giác ngộ, những người
đã chứng đạt niết-bàn không thể thoát mình khỏi trạng thái
già, bệnh và cuối cùng phải chết. Tiến trình của cái chết được bắt
đầu ngay khi con người được sanh ra trong đời, và như là quy luật duyên
khởi tương thuộc không thể tránh khỏi, con người không thể vượt qua nó
được. Bậc giác ngộ khác chúng ta ở chỗ các ngài không còn phải đối
đầu với sự sanh, già, bệnh và chết ở tương lai và rồi ở những kiếp
sống sau tương lai đó nữa. Nói khác, nếu khát vọng cho sự sống (bhava-ta.nhaa)
là một yếu tố của tái sanh thì sự diệt trừ tận gốc khát vọng đó
sẽ giải thoát ta khỏi sự tái hiện hữu trong tương lai. Cần ghi nhận rằng
khi biết rõ cái chết là không thể tránh khỏi, mà con người cứ tiếp tục
tái sanh như kết quả của khát vọng hiện hữu (bhava-ta.nthaa), đức
Phật và các bậc A-la-hán không phải mất thời giờ lo lắng về cái chết,
cũng không cần phải nỗ lực một cách vô ích để xa lánh cái chết. Hơn
bao giờ hết, đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta con đường vượt thoát khỏi
đau khổ bằng cách hành trì chánh niệm và tỉnh giác trong từng phút giây
của sự sống, tại đây và bây giờ.
Theo Phật giáo, luân hồi có mặt
như là hệ quả của luật nghiệp báo. Tình trạng của đời sống hiện tại
của con người tùy thuộc vào hành vi có chủ ý (cetanaa) trong cả
quá khứ và nhất là hiện tại. Năng lực của hành vi có chủ ý sẽ phân
định tình trạng của con người trong hiện tại và tương lai. Vì thế,
"các chúng sanh là những kẻ phải thừa tự tài sản hành vi của
mình."[5] Vòng tái hiện hữu (bhavacakka) được mô tả trong chuổi
duyên khởi (Pa.ticcasamuppaada), bao gồm 12 mắc xích bắt đầu từ sự
thiếu trí tuệ (avijjaa) hành (sa.nkhaara), thức (vi~n~naa.na),
tâm-vật-lý (naama-ruupa), sáu giác quan (salaayatana), tiếp xúc (phassa),
cảm thọ (vedanaa), tham ái (ta.nhaa), chấp thủ (upaadaana),
tái hiện hữu (bhava), sanh (jaati), già và chết (jaraa-mara.na).[6]
Cội nguồn của chuổi vận hành này chỉ có thể bắt đầu bằng tính tương
thuộc duyên khởi đa chiều và đa dạng, trong đó, thức phân biệt (vi~n~naa.na)
là một. Trong đạo Phật, thức phân biệt (vi~n~naa.na) tạo nên trạng
thái hiện hữu (bhava) trong đời sau, mặc dù đạo Phật không thừa
nhận một tác nhân thực thể trong đầu thai, theo nghĩa một chủ thể thường
hằng bất biến. Thức như loại thực phẩm (vi~n~naa.nahaaro, thức thực)
được trích dẫn như là nguyên nhân trực tiếp của sự tái hiện hữu mới
trong luân hồi ở tương lai.[7] Chính ý thức tồn tại này (sa'mvattanika
vi~n~naa.na) đã chịu trách nhiệm cho sự tái hiện hữu.[8] Hơn nữa,
trong tiến trình của tái hiện hữu (bhava), thức (vi~n~naa.na)
không chỉ hoạt động đơn độc. Nó được sự hỗ trợ song hành của
các năng lực vô minh (avijjaa), sự chủ ý (kamma/cetanaa), tham ái
(ta.nhaa) và chấp thủ (upaadaana). Như vậy luân hồi được điều
kiện hóa bởi năm yếu tố sau đây, vô minh (avijjaa), thức (vi~n~naa.na),
sự chủ ý (kamma), tham ái (ta"nhaa) và chấp thủ (upaadaana)
trong đó các yếu tố 2-4 là quan trọng hơn hết, như đoạn kinh dưới đây
mô tả: 'mghiệp (kamma) là mảnh đất (khetta'm); thức (vi~n~naa.na
là hạt giống (biija'm) và tham ái (ta"nhaa) là độ ẩm (sineho).
Do bị vô minh (moha) chi phối, tham ái trói buộc, thức được hình
thành trong thế giới thấp kém (hiinaaya dhaatuyaa)."[9] Ở đây,
nghiệp, thức và tham ái là bộ ba yếu tố chịu tránh nghiệm của tái
sanh. Hành vi (kamma) đã tạo tác trở thành năng lực của con người,
được thức phân biệt duy trì, mang theo và chuyển hóa (vi~n~naa.na).[10]
Để chứng đạt niết-bàn chúng ta không nên vận hành thức trong quỷ
đạo của tái hiện hữu (vi~n~naa.na'm bhave na ti.t.the).[11] Như vậy nhờ
vào sự diệt trừ sạch (nirodha) bộ ba yếu tố này, sanh, già và bệnh
chết không có mặt trong hiện hữu ở tương lai. Đây là điều được đức
Phật trình bày trong đoạn kinh dưới đây:
Chính bản thân ta chịu sanh, già, bệnh,
chết, sầu khổ và phiền não, khi nhận chân được sự nguy hiểm của chúng,
ta đã tìm kiếm cái không bị sanh (ajaata), không bị già, (ajara)
không bị bệnh (abyaadhi'm), không bị chết (amata), không bị sầu
khổ (asoka'm), không bị phiền não (asankili.t.tha'm), sự an tịnh
tối thượng vượt thoát khỏi mọi trói buộc - ta đã chứng đạt niết-bàn.
Tuệ nhãn và tuệ tri sau đây đã xuất hiện trong ta; sự giả thoát của
tâm trở thành bất động. Đây là đời sống cuối cùng. Ta không còn phải
tái sanh nữa.[12]
Nói tóm lại, đối với bậc giác
ngộ, người đã chứng đạt niết-bàn chuổi duyên khởi 12 mắc
xích (pa.ticcasamuppaada) đã bị chặt đứt từng khúc. Ở đây, vô
minh (avijjaa) tên trọng não mặc dù không phải là nguyên nhân đầu
tiên đã được chuyển hóa thành trí tuệ hay tuệ giác (vijjaa/pa~n~naa),
11 mắc xích còn lại đã trở nên bất lực và không thể liên kết với
nhau được nữa, như một đầu tàu xe lửa đã tách khỏi đường rây,
các toa còn lại không sau chạy được. Ở bậc giác ngộ bây giờ các tiếp
xúc (phassa) chỉ còn là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của
các phản ứng cảm xúc và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng
này gây ra, nhờ vào sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của chúng (yonisa
manasikaara, như lý tác ý) và sự chánh niệm (sati). Các cảm giác
(vedanaa) theo sau đó cũng được chuyển hoá. Tham ái (ta"nhaa)
bị phá vỡ. Chấp thủ (upaadaana) không còn chân đứng. Sanh tử đành
phải vẫy tay chào từ biệt một cách vĩnh viễn không nuối tiếc!
CHÚ THÍCH
[1] D. II. 305.
[2] Ud. 80.
[3] S. II. 117.
[4] M. I. 4: Khii.naa jaati vusita'm
brahmacariya'm kata'm karaniiya'm naapara'm itthattaayaati.
[5] M. III. 203; MLS.III.249: "Này
bà-la-môn, nghiệp là kẻ thừa tự của chúng sanh, nghiệp là dòng họ,
nghiệp là bà con, nghiệp là viên thẩm phán (kammapatisarana). Nghiệp làm cho
chúng sanh thiên sai vạn biệt, trở nên cao thượng hay thấp kém."
[6] S. II. 2ff.
[7] S. II. 13: vi~n~naa.nahaaro . . .
punabbhavaabhinibbattiyaa paccayo.
[8] M. II. 262.
[9] A. I. 223: "Ito kho €nanda
kamma'm khetta'm vi~n~naa.na'm biijam tanhaa sineho avijjaaniivarananaana'm sataana'm
sattaana'm tanhaasa~n~nojanaana'm majjhimaaya dhaatuyaa vi~n~naana'm pati.thita'm."
[10] S. II. 97; S. IV. 86.
[11] Sn. 1055.
[12] M. I. 167; MLS I. 211.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/096-tnt-nietban2.htm