- THÁNH NHÂN TRONG KINH ĐIỂN
PAALI
- Thích Hiển Chánh
Con đường giác ngộ không phân
biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ. Bất kỳ ai
sống đời đạo đức và trí tuệ theo tinh thần Phật dạy, giải thoát
tâm mình khỏi các thác lũ lậu hoặc, chuyển hóa đời sống trở nên
toàn diện sẽ có thể chứng đạt giác ngộ ngay đời này và tại thế
gian này.
***
I. DẪN NHẬP
Lội ngược dòng với cuộc đời
hay tình trạng của thế giới được gọi là "thánh" (ariyaa),
trạng thái sống siêu vượt hơn các điều kiện của người phàm phu (assutavant
puthujjana). Dòng họ thánh nhân trong Phật giáo nguyên thủy bao gồm những
ai đã gia nhập vào gia đình của bậc giác ngộ (gotrabhuu). Tất cả
những gì được đức Phật giảng dạy chỉ hướng đến sự chấm dứt của
thế giới (ti.n.n loke visattikan ti),[1] sự chứng ngộ và giải thoát.
II. CÁC LOẠI THÁNH
NHÂN
Thánh nhân (ariyapuggala /
ariyasaavaka) được định nghĩa là người đã chuyển hóa hoàn toàn trạng
thái của người phàm kẻ tục (puthujjana / anariyapuggala), đã chứng
đắc được bốn con đường siêu thế (lokuttaramagga) và bốn quả
siêu việt (lokuttaraphala).
Trong một phân loại phổ biến nhất
của kinh điển Paali, có bốn loại thánh nhân, đó là, bậc vào dòng (Sotaapanna,
dự lưu), bậc trở lại thế gian một lần (Sakadaagaamii, nhất lai),
bậc không còn trở lại (Anaagaamii, bất lai) và bậc A-la-hán (Arahanta).[2]
Nếu phân loại chi tiết hơn, số lượng thánh nhân lên đến bảy, tám và
chín tùy theo các bản văn khác nhau.
Gia phả bảy thánh nhân bao gồm (1)
bậc giải thoát bằng hai cách (ubhatobhaagavimutta), (2) bậc giải thoát
nhờ trí tuệ (pa~n~naavimutto), (3) bậc thân chứng (kaayasakkhii),
(4) bậc chứng đạt chánh kiến (di.t.thippatta), (5) bậc giải thoát nhờ
chánh tín (saddhaanusaarii), (6) bậc theo đuổi chân lý (dhammaanusaarii)
và (7) bậc thành tín đức tin (saddhaanusaarii).[3]
Gia phả tám thánh nhân thường được
gọi là bốn đôi tám chúng[4] bao gồm: (1) bậc tuệ tri con đường ngược
dòng (sotaapatti-magga), (2) bậc chứng đắc quả ngược dòng (sotaapatti-phala)
hay bậc dự vào dòng thánh (sotaapanna), (3) bậc tuệ tri được con
đường trở lại một lần (sakadaagaami-magga), (4) bậc chứng được
quả trở lại một lần (sakadaagaami-phala) cũng còn gọi là bậc trở
lại một lần (sakadaagaamin), (5) bậc tuệ tri con đường không trở lại
(anaagaami-magga), (6) bậc chứng được quả không trở lại (anaagaami-phala)
cũng còn gọi là bậc không trở lại (anaagaamin), (7) bậc tuệ tri con
đường A-la-hán (arahatta-magga), và (8) bậc chứng được quả A-la-hán
(arahatta-phala) hoặc còn gọi là quả thánh nhân.[5]
Gia phả chín thánh nhân bao gồm
tám bậc giác ngộ vừa nêu cộng với bậc đã gia nhập vào gia phả thánh
(gotrabhuu).[6]
Mức độ diệt trừ các trói buộc
của tâm (sa'myojana) được xem là tiêu chí xác định sự chứng đắc
hay gia nhập vào gia phả của các bậc thánh trong Phật giáo. Có mười loại
trói buộc (sa'myojanaani, kiết sử), đó là, j quan niệm sai lầm về
nhân tính (sakkaaya-di.t.thi, thân kiến), k nghi hoặc (vicikicchaa),
l chấp các giáo điều và nghi thức như là phương tiện giải thoát (siilabbata-paraamaasa,
giới cấm thủ), m khao khát khoái lạc giác quan (kaama-raaga, tham dục),
hiềm hận (vyaapaada), o tham ái cảnh hiện hữu vật chất (ruupa-raaga,
sắc ái), p tham ái cảnh hiện hữu phi vật chất (aruupa-raaga, vô sắc
ái), q cống cao, tự phụ (maana, mạn), r không an định (uddhacca)
và s vô minh (avijjaa). Năm trói buộc đầu được gọi là "các
trói buộc thấp" (hạ phần kiết sử, pancamaani orambhaagiyaani
sa'myojanaani),[7] trong khi năm cái sau được gọi là "các trói buộc
cao" (thượng phần kiết sử, pancamaani uddhambhaagiyaani sa'myojanaani).[8]
Gọi là các trói buộc thấp là vì năm cái đầu trói buộc chúng sanh vào
các thế giới thấp kém, như thế giới của khoái lạc giác quan (kaama-loka).
Tương tự, gọi là các trói buộc cao là vì năm cái sau trói buộc chúng
sanh vào thế giới cao hơn đó là thế giới sắc thể (ruupa-loka) và
thế giới vô sắc thể (aruupa-loka).[9] Trong các trói buộc này, khoái
lạc giác quan (kaamacchanda), hiềm hận (vyaapaada), không an định
và mê muội (uddhacca-kukkucca), nghi hoặc (vicikicchaa), cộng với
hôn trầm và thuỳ miên (thiina-middha) tạo thành năm phiền não (niivara.na).[10]
Tuỳ theo mức độ toàn thiện đạo
đức, có hai loại thánh nhân chính (ariyapuggala / ariyasaavaka), đó là,
bậc còn phải huấn luyện tâm linh (sekha, hữu học) và bậc đã
hoàn tất huấn luyện tâm linh (asekha, vô học).[11] Bậc còn huấn luyện
tâm linh (sekha) là những hành giả còn phải trao dồi đạo đức, thiền
định và trí tuệ, để đạt được quả A-la-hán trong khi bậc đã hoàn tất
sự huấn luyện (asekha) đã đạt được mức độ toàn thiện về ba
huấn luyện này (tiisu sikkhaasu sikkhitaa). Phối hợp với gia phả bốn
thánh nhân, bậc còn phải huấn luyện tâm linh (sekha) bao gồm ba hạng
đầu, trong khi trong gia phả tám thánh nhân, bậc còn phải huấn luyện tâm
linh bao gồm bảy hạng đầu. Tương tự, bậc đã hoàn tất huấn luyện
tâm (asekha) là bậc A-la-hán, bậc thánh theo đúng nghĩa, cả trong gia
phả bốn thánh nhân và tám thánh nhân. Đối với bậc A-la-hán, "sanh
đã bị phá vỡ, đời sống thánh đã hoàn thành, những gì cần làm đã
làm xong và không còn tái sanh nữa."[12]
Do diệt trừ ba trói buộc đầu thông
qua con đường của bậc dự vào dòng thánh (Sotaapatti magga), vị hành
giả được gọi là bậc vào dòng thánh nhân (Sotaapanna), và sự chứng
đắc của vị ấy được gọi là quả vào dòng thánh (Sotaapatti-phala).
Tương tự, do diệt trừ ba trói buộc đầu và một vài mức độ của hai
trói buộc kế, đó là, khoái lạc giác quan và hiềm hận, thông qua con đường
của bậc chỉ trở lại một lần (Sakadaagaamii magga), vị hành giả
trở thành bậc trở lại một lần (Sakadaagaamii), và sự chứng đắc
của vị ấy được gọi là quả trở lại một lần (sakadaagaami-phala).
Nhờ diệt trừ toàn bộ năm trói buộc thấp (pancamaani orambhaagiyaani
sa'myojanaani), thông qua con đường của bậc không còn trở lại (Anaagaamii
magga), vị hành giả trở thành bậc không còn trở lại (Anaagaamii),
và sự chứng đắc của vị ấy được gọi là quả không còn trở lại (Anaagaami-phala).
Nhờ diệt trừ năm trói buộc cao (pancamaani uddhambhaagiyaani sa'myojanaani),
tức năm trói buộc cuối cùng, thông qua con đường của bậc A-la-hán (Arahantta
magga), vị hành giả trở thành bậc giác ngộ hay bậc A-la-hán (Arahant),
và quả chứng đắc của vị ấy được gọi là quả giác ngộ hay quả
A-la-hán (Arahatta-phala).[13] Như vậy gia phả của tám thánh nhân
được phân thành hai bốn cặp: đó là bốn quả và bốn hướng.[14] Trong
một ẩn dụ đặc biệt,[15] đức Phật đã so sánh bốn bậc thánh với
hình ảnh của hoa sen và hành giả. Bậc dự vào dòng thánh được ví với
vị hành giả bất động, bậc trở lại một lần với hành giả hoa sen
xanh, bậc không trở lại với hoa sen trắng và bậc A-la-hán là bậc thánh
cao nhất.
III. BẬC DỰ VÀO DÒNG
THÁNH (SOTAAPANNA)
Tình trạng của bậc dự
vào dòng thánh
Trong ý nghĩa giải thoát, có hai loại
dòng (sota): đó là dòng luân hồi (sa'msaara) và dòng niết-bàn
(nibbaana). Dòng luân hồi còn được gọi trong kinh điển Phật giáo
là thác lũ (ogha) của khoái lạc giác quan (kaamogha, dục lậu),
của tái hiện hữu (bhavogha, hữu lậu), của quan điểm sai lạc (di.t.thogha,
kiến lậu) và lũ lụt vô minh (avijjogha, vô minh lậu).[16] Dòng
luân hồi sẽ chảy vào các cảnh giới ma quỷ, thú vật và đọa xứ,
trong khi dòng pháp (dhammasota) sẽ đưa hành giả thực nghiệm
tâm linh đến bờ bên kia (paara'm / paara"ngata), hay chảy vào niết-bàn,
cũng như nước của trăm sông tuông về biển cả.[17] Bậc dự vào dòng
thánh (Sotaapanna) là bậc bắt đầu lội vào dòng niết-bàn, lội
ngược dòng luân hồi, và được định nghĩa như là bậc đã diệt trừ
ba trói buộc đầu, đó là, quan niệm sai lầm về nhân tính (sakkaaya-di.t.thi,
thân kiến), nghi hoặc (vicikicchaa), và chấp vào giáo điều và
nghi thức như là phương tiện giải thoát (siilabbata-paraamaasa, giới cấm
thủ).[18] Nhờ nhổ sạch gốc rễ của ba trói buộc này, vị ấy đã
đứng vững trên con đường của bậc thánh, không bao giờ bị thối chuyển,
và đã đóng bít các cánh cửa tái sanh vào ngạ quỷ, thú vật, đoạ xứ
hay những cảnh giới hiện hữu thấp kém, và chắc chắn sẽ chứng đắc
giải thoát.[19]
Quan điểm sai lầm về nhân tính (sakkaaya-di.t.thi)
là những chủ trương cho rằng năm nhóm nhân tính tâm vật lý (pa~ncakkhandhaa),
như thân thể (ruupa), cảm giác (vedanaa), ý niệm hóa (sa~n~naa),
hoạt động tâm (sa"nkhaaraa) và thức phân biệt (vi~n~naa.na),
là đồng nhất với một thực tại bản ngã thường hằng, hay cho rằng chúng
chứa đựng, hoặc được chứa đựng trong thực tại bản ngã đó.[20]
Quan điểm sai lầm này dẫn đến ba hình thái lầm nhận bản ngã khác, đó
là, "cái này là của tôi" (eta'm mama), "cái này là
tôi" (eso’ ham asmi) và "cái này là bản ngã của tôi" (eso
me attaa).[21] Quan niệm nhân tính sai lầm này bám rễ ở nhận thức đi
ngược lại các chân lý "tất cả những gì duyên khởi tương thuộc là
không thường còn" (sabbe sa"nkhaaraa aniccaa, chư hành vô thường),
"tất cả những gì duyên khởi tương thuộc dẫn đến không mãn hay
đau khổ" (sabbe sa"nkhaaraa dukkhaa, chư hành thị khổ)
và "tất cả mọi sự vật hiện tượng là không thực thể, vô
ngã" (sabbe dhammaa anattaa, chư pháp vô ngã).[22]
Nghi hoặc (vicikicchaa) bao gồm
năm thái độ hoài nghi về đức Phật, giáo pháp giải thoát của Phật,
đoàn thể tu sĩ Phật giáo, đời sống đạo đức và sự độ lượng. Chúng
được gọi là năm trói buộc hay chướng vật của tâm.[23] Nghi hoặc về
đức Phật là thái độ hoài nghi về sự toàn thiện của đức Phật về
đạo đức và trí tuệ. Người sống với nghi hoặc này sẽ không tin rằng
đức Phật không còn các khổ đau nội tại, đã diệt trừ sạch các dòng
chảy bất thiện và bất tịnh của tâm, luôn phát triển tối đa các hành
vi thiện ích cho đời, sống với trí tuệ không chấp trước.[24] Hoài nghi
về con đường giải thoát của Phật là một thái độ không nhìn thấy
được bản chất giải thoát, thiết thực hiện tại, sâu kín thâm diệu của
những lời Phật dạy. Hoài nghi về đoàn thể tu sĩ Phật giáo là thái độ
không tin vào sự chuyển hóa về đời sống đạo đức và trí tuệ của
các hành giả tu sĩ Phật giáo. Hoài nghi về đời sống đạo đức là
thái độ cho rằng luân lý và đạo đức không thể hướng đến đời sống
thánh thiện hay ý nghĩa. Và hoài nghi về sự độ lượng là thái độ không
thừa nhận giá trị đạo đức và xã hội của các hành vi bố thí, cúng
dường, giúp đỡ hay ban tặng, nói chung giá trị của các hành vi công đức
hay từ thiện xã hội. Nhìn chung các nghi hoặc này không có lợi cho đời
sống đạo đức, và ngăn bít con đường phát triển tâm linh và chứng đắc
giải thoát.
Phân loại bậc dự
vào dòng thánh
Có ba bậc dự vào dòng thánh, đó
là, bậc phải trải qua tối ba là bảy lần tái sanh (sattakkhattu'mparama),
bậc chỉ tái sanh hai ba lần (kola'mkola) và bậc chỉ trở lại một lần
rồi chứng thánh quả (ekabiijii).[25] Có nghĩa là mức độ và cấp
bậc phát triển đạo đức, thiền định và trí tuệ trong tỉnh thức và
diệt trừ các trói buộc (sa'myojaya) sẽ làm cho giai đoạn tu tập trở
nên ngắn hay dài. Kinh điển nguyên thủy ghi chép rằng thời gian bảy lần
tái sanh không phải là thời gian cố định cần thiết. Tuỳ thuộc vào mức
độ nỗ lực và hành trì của hành giả mà thời gian tu tập có thể rút
ngắn lại ngay trong đời sống hiện tại này, để chứng được quả
A-la-hán. Đó là lý do mà kinh điển ghi bằng cách diệt trừ ba trói buộc,
bậc dự vào dòng thánh chỉ phải tái sanh "tối đa" bảy lần
trong thế giới chư thiên và loài người để chận đứng hoàn toàn dòng
luân hồi. Trong phần lớn các trường hợp, nhờ diệt trừ ba trói buộc,
bậc dự vào dòng thánh sẽ tái sanh trong gia đình thiện (kola'mkolo)
và chỉ tái sanh một hai lần là có thể chấm dứt toàn bộ đau khổ.
Trong các trường hợp khác, bậc dự vào dòng thánh chỉ tái sanh làm người
một lần thôi là có thể chứng quả A-la-hán, từ giả vĩnh viễn mọi khổ
đau.[26] Nói cách khác, thời gian không phải là yếu tố quyết định sự
chứng ngộ. Thay vào đó, nỗ lực tu thực nghiệm tâm linh qua thiền định
là yếu tố chủ não của con đường giải thoát và giác ngộ.
Vị trí đạo đức và
trí tuệ của bậc dự vào dòng thánh
Bậc dự vào dòng thánh đã hoàn
toàn dứt được năm sợ hãi và sầu bi phát sanh từ các hành vi bất thiện
như giết hại mạng sống, trộm cướp, đời sống tình dục, lời nói sai
sự thật và rượu cũng như các kích thích tố có hại cho tâm trí và thể
chất.[27] Bậc dự vào dòng thánh là người tuệ tri được nguồn gốc duyên
khởi và tương thuộc (pa.ticcasamuppaada) của thế giới (loka).
Có bốn niềm tin bất động của bậc
dự vào dòng thánh (cattaari sotaapattiya"ngaani).[28] Đó là j niềm
tin bất động vào đức Phật, k niềm tin bất động vào con đường giải
thoát của Phật, l niềm tin bất động vào thánh tăng m niềm tin bất động
vào đời sống đạo đức sẽ dẫn đến thiền định (samaadhi). Bốn
niềm tin chân chánh này còn được gọi là tấm gương của đạo đức hay
chân lý (dhammaadaasa).[29] Về đức Phật, bậc dự vào dòng thánh tin
tưởng với trí tuệ rằng đức Phật là chủ đề của thiền quán (buddhagu.naaramma.na).[30]
Bậc dự vào dòng thánh tin đức Phật là j Như Lai (Tathaagata), k Bậc
A-la-hán đáng tôn kính (arahati) do đã bẻ gẫy (hanati) các gộng
(araa) của bánh xe tái sanh, l bậc giác ngộ viên mãn (Sammaasambuddha),
m bậc trí tuệ và đạo đức trọn vẹn (Vijjaa cara.na sampanna), n bậc
đã chấm dứt luân hồi (Sugata), o bậc tuệ tri được thế giới (Lokaviduu),
p bậc huấn luyện loài người (Anuttara purisa damma saarathi), q bậc thầy
của thần linh và con người (satthaa devamanussaana'm), r bậc giác ngộ
(Buddha), và s bậc Thế Tôn (Bhagavant).[31]
Về con đường giải thoát của đức
Phật, bậc dự vào dòng thánh tin rằng đó là giáo pháp j được giảng dạy
một cách thiện xảo (svaakkhaata), k mang lại kết quả thiết thực
trong đời (sandi.t.thika), có giá trị siêu thời gian (akaalika), m
mời gọi sự đến và thấy (ehipassika), n hướng đến cao thượng (opanayika),
và o và được bậc trí đã kinh nghiệm và công nhận (paccatta'm veditabbo
vi~n~nuuhi).[32] Bậc dự vào dòng thánh nhận thức được rằng giáo
pháp của Phật (dhamma) rất thâm sâu, khó thấy, khó hiểu, siêu tuyệt,
vượt khỏi logic, vi diệu, thù thắng.[33]
Giáo pháp của đức Phật được tóm
gọn trong 37 yếu tố hướng đến giác ngộ (bodhipakkhiyadhamma), bao gồm
4 cơ sở chánh niệm (cattaaro-satipa.t.thaanaa), 4 nỗ lực chân chánh (cattaaro
sammappadhaana), 4 thần túc (cattaaro iddhipaadaa), 5 căn (pa~ncindriyaani),
5 năng lực (pa~ncabalaani), 7 yếu tố giác ngộ (sattabojjhanga) và
8 đường thánh (ariyo atthangiko maggo).[34] Về cộng đồng tu sĩ thánh,
bậc bậc dự vào dòng thánh tin rằng đó là cộng đồng có đời sống đạo
đức, hành vi trí tuệ, đi trên đường chân chánh, bao gồm tám thánh
nhân, xứng đáng được tôn kính và quy ngưỡng và là ruộng phước của
đời.[35] Về bản chất của đời sống đạo đức, bậc bậc dự vào
dòng thánh tin rằng đạo đức (siila), không tỳ vết, không gián đoạn
chắc chắn sẽ dẫn đến thiền định và trí tuệ và luôn được bậc trí
khen ngợi.[36] Về sự độ lượng (caaga), bậc bậc dự vào dòng
thánh tin rằng đó là hành vi giúp cho con người cởi bỏ được thái độ
tham lam, bỏn xẻn, vị kỷ, hướng đến tâm vị tha, không chấp thủ sở
hữu, sẳn sàng ban tặng, giúp đỡ và chia xẻ sở hữu của mình cho người
khác.[37] Với những niềm tin (saddhaa) đầy trí tuệ này, bậc bậc dự
vào dòng thánh (sotaapanna) được mô tả là bậc đã nắm vững chánh
pháp (di.t.thadhammo pattadhammo viditadhammo pariyogaa hadhammo), vượt khỏi
hoài nghi và thiếu niềm tin (ti~n~navicikccho vigatakatha'mkatho) và chắc
chắn không còn lui sụt trên đường giác ngộ (niyato sambodhiparaaya.no).
Trong các bài kinh khác,[38] bốn điều kiện này được lập lại với vài
thay đổi, nhất là điều kiện sau cùng. Ở đây, niềm tin về đời sống
đạo đức được thay thế bằng sự độ lượng.[39]
Có vài điều kiện nhất định mà
bậc dự vào dòng thánh phải thực hiện để dự vào dòng niết-bàn. Đó
là thân cận các bạn tri thức thiện (kalyaa.namittataa),[40] ứng dựng
tâm vào các chủ đề thiền quán liên hệ đến giáo pháp (dhammaanudhamma-pa.tipatti)
và thực hành đường thánh gồm tám yếu tố (ariya-a.t.tha"ngika-magga),
như quan niệm chân chánh (sammaadi.t.thi), tư duy chân chánh (sammaasa"nkappa),
lời nói chân chánh (sammaavaacaa), hành vi chân chánh (sammaakammanta),
nghề nghiệp chân chánh (sammaa-aajiiva), nỗ lực chân chánh (sammaa-vaayaama),
chánh niệm (sammaasati) và chánh định (sammaa-samaadhi).[41]
Ngoài ra, bậc dự vào dòng thánh
đang trên đường hoàn thiện đời sống đạo đức và trí tuệ bằng thiền
định.[42] Vị ấy tuệ tri nguyên lý duyên khởi tương thuộc (paticcasamuppaada)
của mọi sự vật (dhammaa).[43] Vị ấy nhận chân rõ bốn chân lý
thánh.[44] Vị ấy được gọi là hành giả bất động,[45] một trong tám
thành viên của gia phả thánh.[46] Vị ấy làm chủ và không bao giờ vi phạm
các nghiệp giết hại, nói láo, trộm cướp, hoạt động tình dục, và rượu
chè hút sách.[47]
Bậc dự vào dòng thánh thường thực
hiện sáu loại thiền quán (sa~n~na) tạo thành trí tuệ (cha vijjaa
bhaagiye dhamme). Đó là quán tưởng về vô thường (anicca) của các
vật hữu vi (sa"nkhaaraa), quán tưởng về khổ (dukkha) trong
sự vô thường, quán về sự không thực thể hay vô ngã (anatta),
quán về sự từ bỏ, quán về sự xả ly, ly tham và niết-bàn.[48]
Như là kết của sự chứng đắc,
bậc dự vào dòng thánh (sotaapanna) đã vĩnh viễn khép lại các cánh
cửa tái sanh vào ma quỷ, thú vật, đoạ xứ, hay các cảnh giới bất thiện.
Vị ấy không bao giờ bị thối thất trong con đường giác ngộ, chắc chắn
đạt được sự giác ngộ và giải thoát ở đời này hay tương lai.[49] Vị
ấy không còn sợ hãi cái chết.[50] Vị ấy chỉ phải tái sanh tối đa 7 lần
(sattakkhattu-parama) trong các cảnh giới thiện. Vị ấy được mệnh
danh là người được liệt vào gia phả thánh (kola"nkola) chỉ phải
sanh đôi ba lần. Vị ấy chỉ phải tái sanh một lần (ekabiijii) để
chấm dứt mọi đau khổ.[51] Giá trị của quả dự vào dòng thành là
"hơn hẳn các bậc trị vì trái đất, hơn hẳn được sanh về cõi trời
và hơn hẳn các bậc chúa tể của các thế giới."[52]
Cần nói thêm rằng giai đoạn tiền
dự lưu trong tiến trình chuyển hóa tâm linh dẫn đến niết-bàn được
gọi là thành viên của gia phả thánh (gotrabhuu).[53] Thành viên của
gia phả thánh có thể là người cư sĩ hay vị tu sĩ, sống đời không đam
mê khoái lạc thế gian (puthujjana)[54] và đã hoà nhập vào
đời sống của các bậc thánh (ariya). Người phàm kẻ tục (puthujjana),
có thể trở thành thành viên thánh, nếu vị ấy chịu phát huy các đức tánh
đạo đức thiện. Nói cách khác quả vị giác ngộ không phải là đặc
ân dành cho đệ tử Phật, mà là thành quả của những ai nỗ lực chân
chánh để thành Phật.[55]
IV. BẬC TRỞ LẠI MỘT
LẦN (SAKADAAGAAM… )
Bậc trở lại một lần (Sakadaagaamii)
được định nghĩa là thành viên thánh, người đã chấm dứt trọn vẹn
ba trói buộc đầu (sa'myojanaani) và giảm thiểu tối đa hai trói buộc
kế tiếp, đó là, đam mê khoái lạc giác quan (kaama-raaga) và hiềm hận
(vyaapaada), và là vị chỉ phải sanh lại đời này một lần nữa là
có thể tạ từ sanh tử và khổ đau.[56]
Vị ấy huấn luyện mình trong các
nguyên tắc đạo đức. Người như vậy do diệt trừ ba trói buộc sẽ chỉ
phải tái sanh tối đa bảy lần nữa trong cõi trời và người và sau cùng
sẽ dứt sạch đau khổ. Hoặc người như vậy sau khi diệt trừ bau trói buộc
sẽ trở thành người chỉ phải tái sanh một lần [ekabiijii] là có
thể diệt hết đau khổ. Vị ấy nhờ diệt trừ ba trói buộc và làm giảm
thiểu tầm hoạt động của tham dục [rago], sân hận [dosa] và
vô minh [moha], trở thành vị trở lại một lần để chấm dứt các
đau khổ.[57]
Theo đoạn kinh trên, con đường của
bậc trở lại một lần bắt đầu bằng sự diệt trừ trọn vẹn ba trói
buộc và có những tiến bộ tâm linh và đạo đức nhất định về đam
mê khoái lạc giác quan (kaamaraago) và hiềm hận (vyaapaado).
Trong quá trình chứng đắc của ba
con đường giác ngộ cao hơn, tiến triển và sự tiến hóa tâm linh cũng khởi
đầu giống như người chứng được quả dự vào dòng thánh này. Nghĩa là
mỗi con đường chứng ngộ cao hơn có thể đạt được một cách thứ tự
từ thấp đến cao, để trở thành một bậc thánh thật sự.
V. BẬC KHÔNG CÒN TRỞ
LẠI (ANAAGAAM… )
Tình trạng của bậc không còn trở
lại
Quả vị thánh thứ ba là bậc
không trở lại sanh tử (Anaagaamii), được định nghĩa như là người
đã nhổ sạch gốc rễ của năm trói buộc thấp (pancamaani orambhaagiyaani
sa'myojanaani), đó là, quan niệm sai lầm về nhân tính (sakkaaya-di.t.thi),
hoài nghi (vicikicchaa), cho rằng giáo điều và nghi lễ là phương tiện
của giải thoát (siilabbata-paraamaasa), đam mê khoái lạc giác quan (kaama-raaga),
hiềm hận (vyaapaada). Năm kiết sử này là những phiền não trói buộc
con người vào những thế giới thấp kép. Thoát khỏi chúng, vị hành giả
sẽ có thể tái sanh cõi trời tịnh cư (suddhaavaasa) và khi qua đời tại
đó, không còn sanh tử trên cõi đời này nữa.[58] Nói cách khác, vị
không trở lại sanh tử là bậc thánh không còn trở lại đời sống của
thế giới khoái lạc giác quan (kaamadhaatu), giải phóng mình khỏi các
đam mê sắi dục (kaamayoga) và gần kề với cứu cánh của sự chứng
ngộ quả A-la-hán. Sau khi mãn phần ở cõi đời, vị ấy có thể tái sanh
vào một trong những cõi trời cao nhất và chứng đắc đạo quả A-la-hán
tại đây. Tuy nhiên, bậc không trở lại này vẫn còn phải chịu sự hiện
hữu (bhavayoga) do sự diệt trừ phiền não (aasavaa) chưa đến mức
rốt ráo.
Sự trói buộc của dục lạc (kaamayoga)
còn gọi là sự đam mê khoái lạc thân xác (kaamacchanda) là sự đam mê
về năm dục lạc của đời (pa~nca kaamagu.na),[59] đó là, vật thể
đẹp do mắt nhận thức, âm thanh hay do tai nhận thức, mùi dễ chịu cho mũingửi,
vị ngon do lưởi nếm, vật êm ái do thân xúc chạm. Hàng phàm phu xem những
thứ này là khả lạc, khả ái, khả hỷ và thậm chí như những hình thái
hạnh phúc cao nhất mà con người có thể đạt được trên đời này.[60]
Nhưng trên thực tế, đó là thứ hạnh phúc thấp nhất, so với hạnh phúc
của thiền định và niết-bàn.[61] Sợi dây trói buộc của khoái lạc
giác quan là một thể hiện của tham (lobha / raaga) và hình thức khác
của tham ái (ta"nhaa), đóng chức năng như là phiền não chính của
tâm và gây ra đau khổ. Cũng như các hiện tượng khác, các dục lạc đều
mang tính chất của điều kiện nhân quả. Chúng được ba nhóm hành vi bất
thiện của thân, miệng và ý điều khiển và chi phối. Các hành vi bất
thiện này phát sanh từ sự không kiềm chế và làm chủ hoạt động của
các quan năng cảm giác. Sự không làm chủ các giác quan lại do thiếu
chánh niệm và tỉnh giác. Mất chánh niệm và tỉnh giác trong cuộc sống
là thiếu thái độ nhận thức sự vật như chúng là.[62] Tiến trình duyên
khởi của các bất thiện này được mô tả trong kinh Tương Ưng (Sa'myutta-Nikaaya)[63]
rằng thực phẩm cho sự phát sanh các trói buộc của khoái lạc giác quan
chưa sanh và làm lớn mạnh các trói buộc đã sanh là "đặc điểm đẹp
của các sự vật và thái độ quan sát sự vật không đúng với bản chất
của chúng (ayoniso manasikaara, không như lý tác ý). Nói cách khác, do vắng
mặt của thái độ nhận thức sự vật như chúng là (yoniso manasikaara),
con người đánh mất tự chủ tâm mình trước các vẻ đẹp quyến rũ của
các sự vật, đã làm cho các giác quan chạy theo và vướng mắc vào các đối
tượng của chúng, tìm kiếm khoái lạc qua thân, lời nói và ý tưởng.
Hiềm hận (vyaapaada) thường
được thể hiện qua các thái độ và hành động chống trả, bức chế,
đàn áp, tranh chấp, đấu tranh, tiêu diệt các sự vật không khả ái, khả
lạc và khả hỷ. Nó là một hình thái của sân (dosa) vốn là một
trong ba gốc rễ của các động cơ và hành vi bất thiện. Cũng như trói buộc
các khoái lạc giác quan, như đức Phật trình bày, đặc tính không đẹp của
sự vật và thái độ nhận thức không phù hợp với bản chất của sự vật
như chúng là, là hai thực phẩm nuôi sống sự sanh khởi của các hiềm hận
chưa sanh, và phát triển các hiềm hận đã sanh.[64]
Đức Phật đã so sánh trói buộc của
khoái lạc giác quan với con nợ và hiềm hận với con bệnh và giải thoát
khỏi trói buộc khoái lạc giác quan và giải thoát khỏi hiềm hận được
ví như hết nợ và hết bệnh.[65] Trong kinh Tương Ưng,[66] đức Phật đã
sánh ví trói buộc của khoái lạc giác quan với tô nước bẩn trong khi hiềm
hận như tô nước đang sôi. Người nhìn vào đó không thể thấy rõ được
gương mặt của mình. Nói khác đi, khi tâm con người bị các trói buộc của
khoái lạc giác quan và hiềm hận chi phối và ám ảnh sẽ không có thể nhận
biết và tuệ tri được các đặc tính tốt của mình, của người và của
cả hai.
Theo đức Phật, trói buộc khoái lạc
giác quan sẽ bị diệt trừ nhờ vào sự phát triển thái độ nhận sự vật
đúng với bản chất của chúng (yoniso manasikaara) và sự giải thoát
nội tại nhờ vào lòng từ bi (mettaacetovimutti).[67] Khi chi tiết hoá,
các trói buộc này được diệt trừ bằng cách phát triển đời sống ẩn
dật (viveka) của thân (kaayaviveka), của tâm ý (cittaviveka)
và ẩn dật kiềm chế (vikkhambha.naviveka). Yêú tố đầu tiên của tiến
trình tu tập phát triển đời sống tâm linh là rút lui các căn khỏi sự
vướng bận của chúng đối với các đối tượng thế giới. Kế đến là
sự rút lui của các hoạt động nội tâm về các phiền não và lậu hoặc.
Thứ ba là phát triển thái độ từ bỏ (pahaana), chẳng hạn như từ
bỏ nhờ khống chế (vikkhambhanappahaana'm), từ bỏ nhờ thay thế các
phương tiện đối lập (tada"ngappahaana'm), từ bỏ bằng cách chặt
đứt (samucchedappahaana'm), tự bỏ nhờ đời sống an tĩnh (pa.tippassaddhippahaana'm)
va từ bỏ bằng sự giải thoát (nissaranappahaana'm).[68]
Trình bày một cách khác là, các
trói buộc của khoái lạc giác quan có thể được đoạn trừ bằng cách
thực hành thiền định về các chủ đề bất lợi và xấu xa của thân
xác, về thiền làm chủ các quan năng cảm giác, về sự huân bình trong
các nhu cầu, trong khi đó, hiềm hận có thể có thể được trừ diệt bằng
cách hành trì thiền định về các chủ đề từ bi, thông cảm, tuỳ hỷ,
ủng hộ người tốt việc tốt, gần gủi người thiện v.v… Nói chung,
chúng ta có thể vượt qua hai trói buộc này bằng cách thực hành bốn cơ
sở của chánh niệm (sammaasati), đó là chánh niệm về các hoạt động
của thân (kaayaanupassanaa), của các cảm giác (vedanaanupassanaa),
của tư tưởng (cittaanupassanaa) và của những ý niệm của tâm (dhammaanupassanaa).[69]
Phân loại bậc không
trở lại sanh tử
Trong kinh điển nguyên thủy, có tất
cả năm loại hình các bậc không trở lại sanh tử là:[70]
j Người đã chặt đứt dòng hoạt
động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn trong nửa đời
người đầu (antaraa parinibbaayii),
k Người đã chặt đứt dòng hoạt
động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn trong nửa đời
người sau (upahacca parinibbaayii),
l Người đã chặt đứt dòng hoạt
động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn một cách
không cần dụng công (asa"nkhaara parinibbaayii). Kinh Tăng Chi (A"nguttara
Nikaaya)[71] đề cập hạng hành giả này do ý thức và quán chiếu
về sự bất tịnh của thân, sự vô ngã của các sự vật, sự vô thường
của thế giới, sự giả tạm của cuộc đời, và tất cả phải chết,
nên đã phát triển được năm năng lực và năm căn.
m Người đã chặt đứt dòng hoạt
động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn với nhiều nỗ
lực và khó khăn (sasa"nkhaara parinibbaayii), và
n Người đã lội ngược dòng để
chứng đạt trạng thái [giải thoát] cao nhất (uddha'msoto akani.t.thagaamii).[72]
VI. BẬC A-LA-HÁN
Trình trạng đạo đức
và trí tuệ của A-la-hán
Bậc A-la-hán được định nghĩa là
người không còn các trói buộc khoái lạc giác quan (kaamayoga) trói buộc
tái hiện hữu (bhavayoga) và các dòng chày lậu hoặc của tâm đã
khô cạn (aasavaana'm khaya).[73] Sự chấm dứt hoàn toàn các lậu hoặc
(aasavaana'm khaya) hay giải thoát lậu hoặc (anaasava) sẽ dẫn đến
sự chứng đạt giải thoát tâm (cetovimutti), và giải thoát bằng trí
tuệ (pa~n~naavimutti) và chứng đạt được trí tuệ siêu việt (abhi~n~naa)
ngay trong đời hiện tại này (di.t.thevadhamme).[74]
Bậc A-la-hán đã hoàn tất ba huấn
luyện cao cấp về tâm linh (tiisu sikkhaasu sikkhitaa) đó là sự huấn
luận về đạo đức cao thượng (adhisiila), thiền định cao thượng
(adhicitta) và trí tuệ siêu việt (adhipa~n~naa). Bậc A-la-hán đã
hoàn thành đời sống thánh thiện (yo saaro brahmacariyassa tasmim
aparapaccayaa) và không còn bị tái sanh trong tương lai (vippamuttaa
punabbhavaa)."[75] A-la-hán là bậc không còn bị giao động (akopya)
trong các biến cố của đời. A-la-hán là bậc chiến thắng (vijitaavino)
tất cả các khuynh hướng bất thiện và xấu ác (anusayaa).
A-la-hán là người đã đạt được
lý tưởng hoàn thiện đạ đức và trí tuệ trong Phật giáo nguyên thủy.
Do hoàn thiện đạo đức, bậc A-la-hán sẽ không còn các hoạt động cố
ý giết hại, lấy của không cho, nói sai sự thật, quan hệ tình dục và uống
rượu hút sách.[76] Trong suốt cuộc đời vị A-la-hán đã vĩnh viễn từ bỏ
nghiệp sát hại chúng sanh, đã từ bỏ các loại vũ khí, là người tràn
đầy tình thương, trí tuệ, chân thành và làm lợi ích cho đời.[77] Hoạt
động của bậc A-la-hán luôn mang lại hạnh phúc và lợi ích cho con người
và các loài hữu tình khác, phù hợp với luật đạo đức.
Bậc A-la-hán là người đã chặt
đứt hoàn toàn các trói buộc của hiện hữu (parikkhii.nabhava-sa'myojana).[78]
Có tất cả mười trói buộc của hiện hữu như đã đề cập bên trên.
A-la-hán không còn dòng chảy của các lậu hoặc (khii.naasavo) như khoái
lạc giác quan (kaamaasavo // kaamaasrava), tái hiện hữu (bhavaasavo //
bhavaasrava), quan điểm sai lầm (di.t.thaasava // dټ/font> 㼯font> .taasrava), và vô minh (avijjaasavo //
avidyaasrava).[79] Các lậu hoặc này là những thác lũ (ogha).[80] Đức
Phật cũng được định nghĩa là người chỉ con người vượt thoát các
thác lũ (oghassa nitthara.na'm pa~n~naapenti),[81] một con đường vượt xa
giáo pháp của các sa-môn (sama.na) và bà-la-môn (brahma.na) thời
bấy giờ. Ngay thời Phật còn sống, sự thanh tịnh đạo đức (siila)
và khổ hạnh ép xác (tapo-jiguccha) là hai cách để vượt qua (pataareti)
thác lũ (ogha) của các hành giả Bà-la-môn. Đức Phật không tán
thành lối hành trì này, bởi lẽ theo ngài, đời sống đạo đức đơn thuần
không thể làm cho con người trở thành thánh, mặc dù đây là yếu tố
quan trọng trong tiến trình thánh hóa bản thân. Đời sống đạo đức phải
được song hành với sự phát triển thiền định chân chánh (sammaasamaadhi),
tuệ trí chân chánh (sammaa-~naa.na) và giải thoát chân chánh (sammaa-vimutti).[82]
Trong khi đó, phương pháp khổ hạnh hành xác (tapo-jiguccha) không thể
nào giúp hành giả vượt thoát khỏi thác lũ của tâm, và càng không thể
giúp ta đạt được trí tuệ hay tuệ giác, ngoài trừ làm cho thân thể
ngày càng yếu đi và tinh thần ngày càng mê loạn.[83]
Bậc A-la-hán đã chứng đạt được
mục đích giải thoát tối hậu. Vô minh, tái sanh, tham ái, các trói buộc,
sợ hãi, sầu lo và thái độ "tôi-là" đã hoàn toàn không còn sự
sống trong bậc A-la-hán.[84] Trong mọi tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, co duổi,
ăn mặc, liếc ngó, thức và ngủ v.v. . . vị A-la-hán luôn thể hiện tỉnh
giác.[85] A-la-hán được gọi là vị có tâm kim cương[86] và là bậc đã
chứng đạt niết-bàn,[87] một trạng an lạc tuyệt đối của tâm.
Có thể nói rằng, trong bậc A-la-hán, sự giác ngộ (bodhi), giải
thoát (vimutti) và niết-bàn (nibbaana) là một. Cần lưu ý
rằng giải thoát khỏi đau khổ không có nghĩa là sự chấm dứt vĩnh viễn
sự sống. Giải thoát là thoát khỏi đau khổ trong vòng sanh tử triền
miên. Niết-bàn là trạng thái an lạc siêu thời gian của tâm, do tâm
đã vắng mặt hoàn toàn các đau khổ.
Phân loại bậc
A-la-hán
Có nhiều loại A-la-hán cũng như có
nhiều con đường dẫn đến sự chứng đắc giác ngộ. Do có hai cách thức
mà một hành giả chứng đắc được quả A-la-hán nên có hai loại
A-la-hán chính được biết đến là bậc giải thoát bằng hai cách (ubhatobhaagavimutta)[88]
và bậc giải thoát nhờ trí tuệ (pa~n~naavimutta). Loại
A-la-hán đầu là vị đã diệt trừ toàn bộ các phiền não lậu hoặc của
tâm thông qua tám giải thoát (vimokkhaa)[89] và chứng đạt được trí
tuệ (pa~n~naa),[90] trong khi loại A-la-hán sau là người chứng thánh do
thực hành con đường bốn cấp độ thiền định đầu (jhaana) mà
không cần vận dụng đến các cấp độ thiền định kế và tám giải
thoát (vimokkhaa).[91]
Giáo sư N. Dutt [92] trình bày rất
rõ ràng rằng sau giai đoạn quả dự vào dòng thánh (Sotaapanna), một
vị thành tín đức tin (saddhaanusaarii) sẽ được tôn xưng là bậc giải
thoát nhờ chánh tín (saddhaanusaarii) hay bậc thân chứng (kaayasakkhii)
vì khi thực hành thiền định cao hơn vị ấy nhận ra được trạng thái
định tĩnh nội tại bằng hai cách tâm linh và vật lý, và bắt đầu tiến
trình giải thoát tâm linh với tâm giải thoát (cetovimutti) và kết
thúc bằng tuệ giải thoát (pa~n~naavimutti) và bấy giờ vị ấy được
gọi là bậc giải thoát bằng hai cách (ubhatobhaagavimutta). Bậc theo
đuổi chân lý (dhammaanusaarii) còn được gọi là vị bậc chứng đạt
chánh kiến (di.t.thippatta) bởi do sự tiếp tục dấn thân vào học hỏi
triết lý hơn là thiền định cao cấp, bắt đầu con đường giải thoát bằng
tuệ giải thoát và kết thúc bằng tâm giải thoát và do vậy được gọi
là vị chứng đắc giác ngộ nhờ trí tuệ (Pa~n~naavimutta). Như
vậy, A-la-hán có thể là người chứng đắc giác ngộ bằng trí tuệ (pa~n~naavimutta),
nếu vị ấy không trải qua giai đoạn an trú và thọ hưởng 8 giải thoát
(vimokkhaa) và không kinh qua các cấp độ thiền định vô sắc giới (aruupa-jhaana);
và cũng thể là người giải thoát bằng hai cách (ubhatobhaagavimutta) nếu
vị ấy an trụ và thọ hưởng 8 giải thoát (vimokkhaa).[93]
Cần nói thêm rằng tiến trình và
cách thức mà một hành giả trở thành bậc A-la-hán luôn luôn khác nhau tuỳ
thuộc vào căn cơ của từng người. Có nhiều vị chứng quả A-la-hán sau
khi hoàn tất sự huấn luyện về đạo đức và trí tuệ mà thuật ngữ Phật
giáo thường gọi là bậc vô học (asekha). Có
nhiều vị do có niềm tin bất động về Ba Ngôi Báu và nhờ vào trí tuệ
hân hoan và trí tuệ năng hoạt (haasupa~n~na and javanapa~n~na) mà
chứng đắc giác ngộ.[94] Có nhiều vị chứng A-la-hán do liên tục thực
hành thiền định về bản chất của năm nhóm nhân tính tâm vật lý là
không thường còn, không có thật thể và đau khổ.[95] Cũng có hạng
A-la-hán chứng ngộ đạo quả giải thoát bằng đốn ngộ sau khi nghe một
bài kinh của Phật dạy, như trong kinh Trung Bộ: "và sau khi nghe
kinh này, có hơn 60 vị chứng đắc, giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc
phiền não và không còn chấp thủ ở đời."[96] Điều này cũng từng
xảy ra với các vị đệ tử tại gia của Phật, chẳng hạn như Da-xá
(Yasa), một thiện nam và Khemaa, một tín nữ đã chứng đắc giác ngộ sau
khi nhận được sự chỉ dạy của đức Phật.[97]
Điều này cho thấy rằng con đường
giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ[98]
hay cư sĩ.[99] Bất kỳ ai sống đời đạo đức và trí tuệ theo tinh thần
Phật dạy, giải thoát tâm mình khỏi các thác lũ lậu hoặc, chuyển hóa
đời sống trở nên toàn diện sẽ có thể chứng đạt giác ngộ ngay đời
này và tại thế gian này. Một trong những bằng chứng đó là kinh Tương
Ưng ghi chép có hay 50 đệ tử tại gia chứng quả không còn trở lại
sanh tử,[100] và 25 vị chứng đạt niết-bàn, được ghi trong kinh Tăng
Chi.[101]
VII. A-LA-HÁN VÀ THÁI ĐỘ
VÔ NGÃ
Thái độ "tôi là" chỉ là
sự ngộ nhận do dựa vào các nỗ lực đồng nhất bản ngã (asmimaano)
với năm nhóm nhân tính tâm vật lý và đây là đầu mối của lưới bẩy
vô minh (mohajaala), đã hoàn toàn vắng mặt trong bậc A-la-hán. Sự
hoàn thiện và chứng đắc mục đích (attha) giác ngộ (bodhi) của
bậc A-la-hán không có liên hệ đến chủ nghĩa tự ngã trung tâm dưới ba
hình thái: hơn, bằng và thua.
Bạch đức Thế Tôn, vị Tỳ-kheo
chứng A-la-hán đã vượt qua các lậu hoặc của tâm (aasavaa), đã
hoàn tất đời sống thành, đã làm xong việc cần làm, đã đặt gánh nặng
xuống, đã diệt trừ các trói buộc của sanh tử, đã giải thoát nhờ
trí tuệ, thì đối với vị ấy thái độ sau đây sẽ không còn: "có
người hơn tôi," hay "có người bằng tôi," hay "có người
thua tôi."[102]
Theo đức Phật, một bậc A-la-hán
thật chứng được thánh quả sẽ không bao giờ phát ngôn liên hệ đến
thái độ "Tôi-là." Thái độ nhận thức đặt trên bản ngã hay hướng
về bản ngã chỉ có thể có trong tâm trí của kẻ phàm người tục, do
chưa nhổ lên được vô minh, và do vậy vẫn còn phải chịu đau khổ do các
phản ứng cảm xúc và chấp thủ gây ra.[103] Nói cách khác, đối với người
thật sự chứng đắc đạo quả, mọi so sánh và tham chiếu về một thực
thể bản ngã thường hằng (attaa) hoàn toàn không còn nữa. Ngài Phật
Âm (Buddhaghosa) trình bày sự kiện vô ngã này rất rõ khi cho rằng chỉ có
hạnh phúc và khổ đau nhưng không có tác nhân để kinh nghiệm cảm giác hạnh
phúc và đau khổ đó; chỉ có các sự kiện về hoạt động nhưng không
có một tác nhân để điều khiển các hoạt động đó; chỉ có sự kiện
trên con đường giải thoát nhưng không có tác nhân du hành trên đó; chỉ
có sự kiện về chấm dứt các lậu hoặc nhưng không có tác nhân để chấm
dứt. Câu phát biểu của ngài như sau: "Có đau khổ nhưng không có người
chịu khổ; có hành vi nhưng không có người thực hiện; có sự chấm dứt
nhưng không có người chấm dứt; có con đường nhưng không có người du hành."[104]
VIII. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH
MỘT BẬC A-LA-HÁN "THIỆT"
Kinh điển nguyên thủy cũng còn đề
cập đến tiêu chí xác định đâu là môt vị chứng đắc quả A-la-hán thật
sự. Có năm tiêu chí được ghi lại trong bài kinh Chabbisodhana-Sutta,
thuộc kinh Trung Bộ.[105] Trước nhất là, bốn phán đoán (vohaara)
về bản chất của sự thấy, nghe, kinh nghiệm và nhận thức được sử dụng
để kiểm chứng sự chứng đắc giác ngộ. Đối với vị A-la-hán thật,
khi những gì được thấy chỉ đơn thuần quan niệm là thấy, những gì
được nghe chỉ quan niệm đơn thuần là nghe; những gì được kinh nghiệm
chỉ đơn thuần quan niệm là kinh nghiệm và những gì được nhận thức
chỉ quan niệm đơn thuần là nhận thức.[106] Nhờ quan niệm đơn thuần sự
thấy, sự nghe, sự kinh nghiệm và sự nhận thức mà bậc A-la-hán thoát khỏi
các phản ứng và chấp mắc vào sự vật được thấy, được nghe, được
kinh qua và được thấy. Tâm của vị A-la-hán sẽ hoàn toàn giải
thoát.[107] Nói cách khác ai vẫn còn chấp mắc vào những cái thấy, nghe,
kinh nghiệm và nhận thức khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng
của chúng không thể được gọi là bậc đã chứng đắc A-la-hán.
Thứ hai là, về phương diện của
năm nhóm nhân tính chấp thủ (pa~ncupaadaanakkhandhaa), như là thân thể
(ruupa), cảm giác (vedanaa), ý niệm hóa (sa~n~naa), khuynh hướng
tâm (sa"nkhaaraa) và thức phân biệt (vi~n~naa.na), bậc
A-la-hán "thiệt" không còn những thái độ xem đồng hóa chúng với
bản ngã, chúng nằm trong bản ngã hay bản ngã nằm trong chúng. Thái độ bản
ngã hay xem sự vật có một thực thể bản ngã thường hằng hoàn toàn
không còn chân đứng trong nhận thức của bậc A-la-hán. Do đó mọi thái
độ chấp trước về bản ngã hoàn toàn không còn.[108]
Thứ ba là, đối với sáu yếu tố
hình thành nên thế giới, như là yếu tố ngoại diên hay chất rắn (pa.thavii-dhaatu
// pټ/font> thivii-dhaatu), yếu tố chất lỏng (aapo-dhaatu //
aapa-dhaatu), yếu tố nhiệt lượng (P = S tejo-dhaatu), yếu tố vận
động (P = S vaayo-dhaatu), yếu tố không gian (aakaasadhaatu) và yếu
tố nhận thức (vi~n~naa.nadhaatu // vij~naanadhaatu),[109] vị A-la-hán thật
không bao giờ quan niệm rằng chúng là thực thể, bản ngã, linh hồn, hay
cho rằng bản ngã không tuỳ thuộc vào chúng. Nói chung ý thức về các
nhóm vật thể và tâm lý như là bản ngã đã không còn trong vị
A-la-hán.[110]
Thứ tư là đối với sáu quan năng
cảm giác (㼯font> aOfont> -indriyaa.ni // ajjhattikaayatana) và sáu đối tượng
giác quan (㼯font> aOfont> -aayatanaani // baahiraayatana), như con mắt (cakkhu
// cak㼯font> ur-indriya) và vật nhận thức
(ruupa // ruupa); lỗ tai (sota // Ἧfont> rotrendriya) và âm thanh (sadda
// Ἧfont> abdafont> ); lỗ mũi (ghaana // ghraa.nedriya) và mùi
(gandha // gandhafont> ); lưởi (jivhaa, jihvendriya) và vị (rasa
// rasfont> ); thân thể (kaaya // kaayendriya) và vật xúc chạm (pho.t.thabba
// sparἯfont> afont> ); tâm (mano // manendriya) ý tưởng (dhamma
// dharma), bậc A-la-hán sẽ tuệ tri rõ rằng cái gì có đam mê, cái đó
có chấp thủ, cái gì có chấp thủ cái đó có tham ái, cái gì có tham ái
cái đó tạo thành tín điều của tâm, thành kiến, khuynh hướng, và bậc
A-la-hán luôn chặn đứng tiến trình của chúng, để không bị chấp
thủ.[111]
Và thứ năm là, các phán đoán hay
thái độ "tôi-là" chẳng hạn như "tôi là người làm,"
'mgười làm là của tôi," v.v… đối với bản thân và thế giới,
không còn xuất hiện trong vị A-la-hán nữa. Lý do là khi nhìn thấy sự giới
hạn của đời sống tại gia, vị ấy theo đuổi đời sống không gia đình,
từ bỏ các nghiệp sát hại, trộm cướp, đời sống tình dục, lời nói
sai sự thật, lời nói gây chia rẽ, lời nói hung dữ và ác độc, lời nói
vô nghĩa, rượu chè hút sách; vị ấy cũng từ bỏ các thái độ tham dục,
sân hận và si mê. Vị ấy khi quan sát con người và thế giới, không nắm
giữ các đặc điểm chung và riêng của chúng, hoàn toàn làm chủ các giác
quan. Vị ấy sống trong chánh niệm và tỉnh giác, trong mọi tư thế của
thân như đi, đứng, nằm, ngồi, co duỗi, mặc áo quần, ăn uống, soi
gương, nói chuyện, im lặng, ngủ hay thức v.v. . . Vị ấy sống trong tình
trạng tâm không còn tham lam, sân hận và si mê, hôn trầm, thùy miên, trạo
cử, hoài nghi. Nhận chân rõ về các khoái lạc giác quan là khổ nhiều hạnh
phúc ít, và các trạng thái bất thiện của tâm gây ra đau khổ, vị ấy
thiền định và an trú vào các cấp thiền thứ nhất, hai, ba, bốn và bốn
cấp thiền định thuộc vô sắc giới (không vô biên, thức vô biên, vô sở
hữu và phi tưởng phi phi tưởng), và định không còn cảm giác và nhận
thức. Tại đây, vị ấy hướng tâm về tuệ tri sự chấm dứt các phiền
não và lậu hoặc.[112]
Tương truyền rằng tôn giả A-nan cũng
trình bày bốn yếu tố (a"ngehi) để xác định ai là vị
A-la-hán thật sự. Theo tôn giả, nếu ai không có được một trong bốn yếu
tố tu tập sau đây mà tự xưng mình đã chứng quả A-la-hán thì biết đó
chỉ là sự ngộ nhận hay cống cao mà thôi. Bốn yếu tố xác định đó
là:
Ở đây này các vị pháp hữu, vị
tỳ-kheo phát triển tuệ quán (vipassanaa) rồi đến sự an chỉ (samatha)
. . . hay phát triển sự an chỉ rồi tuệ quán (vipassanaa pubba"ngama'm
samatha弯font> bhaaveti) . . . hay phát triễn
song hành tuệ quán và sự an chỉ (samathavipassana'm yuganaddha'm bhaaveti)
. . . và khi tâm đã thật sự rõ về pháp (dhammuddhacciggahiitamanaa hoti)
vị ấy đạt được tâm chuyên nhất theo đó con đường (magga) giác
ngộ phát sanh. Vị ấy theo con đường ấy và phát triển thêm. Nhờ sự
phát triển tối đa con đường ấy, tất cả các trói buộc của tâm tan
rã, các khuynh hướng (anusayaa) bất thiện (akusala) hoàn toàn chấm
dứt.[113]
Theo đoạn kinh trên, tuệ quán (vipassanaa)
và an chỉ (samatha) là hai yếu tố quan trọng giúp hành giả chứng đạt
được sự giác ngộ và giải thoát. Phát triển tuệ quán và an chỉ hay cả
hai là các phương pháp chính yếu để chứng đắc quả A-la-hán. Nói cách
khác, tiêu chí xác định A-la-hán nằm ở chỗ "kiểm chứng" sự
có mặt của 4 yếu tố thực nghiệm này hay không. Nếu câu trả lời là
không thì các tuyên bố chứng quả A-la-hán là không có cơ sở và trở
nên sai lầm. Nếu câu trả lời là có thì sự chứng đắc A-la-hán ở người
đó có thể tin được. Do đó, các tranh luận cho rằng tuệ quán (vipassanaa)
siêu việt hơn an chỉ (samatha) hay ngược lại, không chỉ trở nên
vô nghĩa về phương diện thực tiễn mà còn trở nên không thích hợp. Tuệ
quán và an chỉ được xem là hai phương pháp bổ xung mật thiết cho nhau,
trên tiến trình giúp cho hành giả đạt ngộ và giải thoát, do đó, thiếu
một thì cái kia không tồn tại.
CHÚ
THÍCH
[1] S. I. 60.
[2] D. I. 156.
[3] D. III. 105, 254; M. I. 439, 477; A.
I. 118; Ps. II. 52; Vism. 659. Về các bậc giải thoát nhờ chánh tín
(saddhaanusaarii) và bậc theo đuổi chân lý (dhammaanusaarii), xem S. V. 200f; M.
I. 142.
[4] A. II. 56; GS. II. 65: "Tăng đoàn
của đức Phật gồm bốn đôi tám." Tham khảo thêm Sn. v. 227 and D. III.
227; DB. III. 219; A. IV. 372.
[5] A. IV. 292; GS. IV. 193.
[6] A. IV. 373; A. V. 25.
[7] D. III. 234; S. V. 61.
[8] D. III. 234.
[9] A. V. 13; S. V. 61; Vbh. 377.
[10] A. I. 4; A. III. 62; A. IV. 457; A.
V. 193; D. I. 246; S. V. 96; Vbh. 378.
[11] A. I. 62.
[12] A. III. 376: Khii.naa jaati vusita'm
brahmacariya'm kata'm kara.niiya'm naapara'm itthattaayaa ti. Công thức này cũng tái
xuất hiện ở các kinh luật sau đây Vin. I. 14, 35, 183; D. I. 84, 177, 203; M.
I. 139; M. II. 39; S. I. 140; S. II. 51, 82, 95, 120, 245; S. III. 21, 45, 55, 68, 71, 90,
195, 223; S. IV. 2, 20, 35, 45, 86, 107, 151, 383: S. V. 72, 90, 144, 222; A. I. 165; A.
II. 211; A. III. 93; A. IV. 88, 179, 302; A. V. 155, 162.
[13] D. I. 156-7.
[14] D. I. 156; S. I. 220; A. II. 56; Sn.
227; Dhs. 74-5.
[15] A. II. 87-8.
[16] S. V. 59.
[17] S. V. 347-78.
[18] D. I. 156; S. V. 357;
[19] S. II. 68.
[20] M. I. 300.
[21] S. III. 66-8; S. IV. 2ff.
[ 22] A. I. 286; S. III. 133; Dhp. 277-9.
[23] M. I. 101-3; D. III. 237; A. III. 248; A. IV. 460; A.
V. 17.
[24] D. III. 237.
[25] A. I. 233; A. IV. 380; A. V. 120; S. V. 205.
[26] A. I. 233.
[27] S. II. 69.
[28] S. V. 345-8, 355-6, 361, 364-5, 367, 370; A. IV. 405.
So sánh D. III. 250.
[29] D. III. 227, M. I. 37; S. I. 219; A. II. 56. So sánh
D. II. 93; S. II. 68; S. V. 357; A. III. 211.
[30] Hãy tham khảo chẳng hạn như D. III. 76; M. I.
37; S. V. 197; A. III. 285.
[31] D. III. 236; S.II. 69, V. 197; A. III. 284-5.
[32] M. I. 37; A. III. 285.
[33] M. I. 487: ghambhiiro h'ayam . . . dhammo duddaso
duranubodho santo pa.niito atakkaavacaro nipu.no pa.n充avedaniiyo.
[34] D. III. 102; Vbh. 249.
[35] M. I. 37; D. III. 227; S. II. 69; S. IV. 271; A. I.
222; A. III. 285.
[36] A. III. 285-6.
[37] A. III. 286, 312.
[38] S. V. 351-2.
[39] S. V. 352.
[40] Tham khảo về vấn đề này ở các kinh S. V.
2-30; A. I. 14-8; It. 10.
[41] S. V. 348.
[42] A. I. 232, 233; GS. I. 211f, 213. Xem thêm A. IV.
381; GS. IV. 253f.
[43] S. II. 70; KS. II. 49. Cf. A. III. 441; GS. III. 307.
[44] S. III. 203; KS. III. 165.
[45] A. II. 86; GS. II. 96.
[46] A. II. 89; GS. II. 99.
[47] A. IV. 405; GS. IV. 273f. Tham khảo thêm S. II.
68; KS. II. 48.
[48] S. V. 346.
[49] A. IV. 407; GS. IV. 274; S. II. 68; KS. II. 47; Tương
II. 126.
[50] S. V. 386; KS. V. 333; Tương V. 563.
[51] A. IV. 381; GS. IV. 253f. Xem thêm A. I. 233; GS. I.
213 và S. V. 205; KS. V. 180; A. V. 120; GS. V. 82; Vism. 709; pp. 833f; TTĐL. III.
456).
[52] Dhp. 178.
[53] A. IV. 373; GS. IV. 247; Tăng IV. 95.
[54] Majjhima Nikaaya (I. pp. 7,239): người phàm phu tục
tử (puthujjana) được định nghĩa là người sồng và làm việc trong sự
ngộ nhận về một bản tính nga (I-ness) và bản tính ngã sở hữu
(mine-ness) và luôn cho rằng mình có thân thể, cảm giác, ý tưởng hoá, hoạt
động tâm và thức phân biệt. Do không biết được bản chất vô ngã của
các pháp vị ấy nuôi lớn lòng chấp thủ vào các sự vật và do đó làm
tăng trươngr các lậu hoặc (aasavas) về dục lạc thấm kém, về tái hiện
hữu và vô minh (kaama, bhava and avijjaa taìhaa). Tham khảo N. Dutt (1981), Early
Monastic Buddhism, Calcutta: Firma KLM Private Ltd., p. 253).
[55] KS. IV. 247, ghi chú 3.
[56] D. I. 156; S. V. 357, 379;
[57] A. I. 233: Idha bhikkhave siilesu paripuurakaarii
hoti samaadhismi'm mattasokaarii pa--aaya mattaso kaarii. So yaani taani
khuddaanukkaddakaani sikkhaapadaani taani aapajjati pi vuỉỉhaati pi. Ta'm kissa hetu.
Na hi mettha bhikkhave abhabbataa vuttaa. Yaani ca kho taani sikkhaapadaani
aadibrahamacariyakaani brahmacariyasaaruppaani tattha dhuvasiilo ca hoti ỉhitasiilo ca
samaadaaya sikkhati sikkhaapadesu. So ti.n.na'm sa'myojanaana'm parikkhayaa
sattakkhattuparamo hoti sattakkhattuparama'm deve ca maanuse ca sandhaavitvaa
sa'msaaritvaa dukkhassa anta'm karoti. So ti.n.na'm sa'myojanaana'm parikkhayaa
raagadosamohaana'm tanuttaa sakadaagaamii hoti sakid eva ima'm aagantvaa dukkhassa anta'm
karoti. Tham khảo bản dịch tiếng Anh của F.L. Woodward, SG. I. 213.
[58] D. I. 156; M. I. 141; S. V. 357: yesa'm bhikkhuuna'm
pa-corambhaagiyaani sa'myojanaani pahiinaahi sabbe te opapaatikaa tattha parinibbaayino
anaavattidhammaa tasmaa lokaa. Bởi vì ba trói buộc đầu đã được bậc dự vào
dòng thánh (sotaapanna) và bậc trở lại một lần (sakadaagaami) diệt sạch.
Đối tượng diệt trừ của bậc không còn trở lại (anaagaami) hai trói buộc
sau trong nhóm năm trói buộc thấp.
[59] M. I. 85, 92, 398, 454.
[60] M. I. 85.
[61] Ud. 11.
[62] A. V. 113.
[63] S. V. 64.
[64] S. V. 64.
[65] D. I. 72.
[66] S. V. 121-2. Xem thêm A. III. 230ff.
[67] S. V. 105.
[68] Vism. pp. 113, 596-7.
[69] M. I. 56; D. II. 300-1.
[70] Buddhaghosa (Vism. p. 612) giải thích các thuật
từ này như sau: bậc antaraa-parinibbaayii đạt ngộ được niết-bàn sau khi
tái sanh về trời Tịnh Cư (suddhaavaasa) trước nửa đời người. Bậc
upahacca-parinibbaayii chứng đạt niết-bàn sau nửa đời người. Bậc
asa~nkhaara-parinibbaayii tiến trên đường cao thượng không cần nhiều dụng
công. Bậc sasa~nkhaara-parinibbaayii tiến trên đường cao thượng không cần
dụng công gì cả. Bậc akaniỉhagaamii càng thăng tiến từ nơi thọ sanh
(trong trời Tịnh Cư) đến cảnh giới chư thiên cao nhất (akaniỉỉhabbava)
và chứng đạt giải thoát tại đây.
[71] A. II. 156; GS. II. 161.
[72] D. III. 237; A. I. 233; A. IV. 14, 70, 380; A. V.
120. Về giải thích của năm bậc không còn trở lại sanh tử trong A-tỳ-đạt-ma-câu-xá
(Abhidharmakoᡩ, xem N. Dutt (sách đã dẫn: 1980: 264-5). Dutt cho rằng thuật ngữ
"parinibbaay." nên dịch là "người thực hành con đường diệt
trừ các trói buộc cao" (those who practise the path to destroy the higher
fetter).
[73] It. 95-6.
[74] D. I. 157. A. I. 232.
[75] S. III. 161; KS. III. 137.
[76] M. I. 523; MLS. II. 201f. Xem D. III. 235; DB. III.
225. So sánh D. III. 133; DB. III. 125; và A. IV. 370; GS. IV. 24.
[77] A. I. 211; GS. I. 190f.
[78] M. I. 4.
[79] D. III. 230, 276; M. I. 9; S. IV. 257; Vbh. 373; Dhs.
1448.
[80] S. V. 59.
[81] Thag. 1243.
[82] At M. III. 76, hai yếu tố sau làm con đường
thánh gồm tám yếu tố trở thành con đường toàn thiện gồm mười yếu
tố (dasa~ngasamannaagata-arahaahoti).
[83] A. II. 189-202.
[84] M. I. 139; MLS. I. 178f. So sánh S. III. 83; KS.
III. 69f.
[85] M. I. 175; MLS. I. 219.
[86] A. I. 124; GS. I. 107.
[87] Bậcc A-la-hán là người đã đạt ngộ niết-bàn
và có thể được xem từ ngữ cảnh của câu trích dẫn sau cùng ở S. IV.
252; KS. IV. 170f. Tại đây, quả A-la-hán (arahatta phala) được đánh đồng với
niết-bàn: "Này quý pháp hữu, sự diệt trừ tham, sân và si được gọi
là niết-bàn và sự diệt trừ tham sân và si cũng được gọi là quả
A-la-hán (The destruction of lust, the destruction of hatred, the destruction of
illusion, friend, is called Nibbaana" and "The destruction of lust, friend, the
destruction of hatred, the destruction of illusion, Đ that is called Arahantship")
[88] M. I. 477; MLS. II. 151f: Kinh này định nghĩa bậc
giải thoát bằng hai cách (ubhatobhaagavimutta) như sau: "Và này các tỳ-kheo
thể nào là người giải thoát bằng hai cách? Có một số người an trú
và kinh nghiệm qua chính mình với tám giải thoát thù diệu và siêu việt,
và sau khi nhận chân bằng trí tuệ các phiền não và lậu hoặc của vị
ấy hoàn toàn bị tiêu diệt." So sánh A. IV. 453; GS. IV. 297.
[89] D. II. 70f; DB. II. 68-70: Giải thoát 4-7 trong
Tám giải thoát (vimokkha) chính là bốn cấp độ thiền vô sắc giới
???ruppa Jhaana): (1) Với hình thái ngoại diên của chính mình, vị ấy nhận
thức được các hình thể. (2) Không ý thức về hình thái ngoại diên của
chính mình, vị ấy thấy được các hình thái bên ngoài mình. (3) "thật
tuyệt đẹp" và với tư tưởng này, vị ấy trở nên có chủ tâm. (4)
Do vượt khỏi trọn vẹn các nhận thức về hình thể mà các nhận thức
về phản ứng của giác quan được diệt trư; không ý thức về các nhận
thức về sự đa dạng mà chỉ ý thức về không gian vô biên, vị ấy bước
vào và an trú vào cảnh giới không vô biên xứ (5) Do vượt khỏi trọn vẹn
cảnh giới không vô biên và chỉ ý thức về thức vô biên, vị ấy bước
vào và an trú cảnh giới thứ vô biên xứ. (6) Do vượt khỏi trọn vẹn cảnh
giới thức vô biên xứ và chỉ ý thức về cái không có gì cả, vị ấy
bước vào và an trú vào cảnh giới vô sở hữu xứ. (7) Do vượt khỏi trọn
vẹn cảnh giới vô sở hữu xứ, vị ấy bước vào và an trú vào cảnh giới
phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ. (8) Do vượt khỏi trọn vẹn cảnh giới phi
tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy bước vào và an trú ở trạng thái
không còn cảm giác và nhận thức. Tham khảo thêm M. II. 12f; MLS. II. 213f và
D. III. 261f; DB. III. 242f.
[90] D. II. 71; DB. II. 70. Các bản sớ giải đều
giải thích rằng ubhatobhaagavimutta có nghĩa là "thông qua sự chứng đạt
vô sắc thể vị ấy được giải thoát khỏi thân thể vật chất và
thông qua con đường của quả A-la-hán vị ấy giải thoát khỏi thân thể
nội tâm. Tham khảo H. Gunaratana (1996), The Path of Serenity and Insight, Delhi:
Motilal Banarsidass Publishers, p. 195.
[91] M. I. 477f; MLS. I. 152: Đức Phật mô tả vị
giải thoát bằng trí tuệ (pa--aavimutta) như sau: "Và này các tỳ-kheo,
thế nào là người giải thoát bằng trí tuệ? Ở đây có vài vị an trú
nhưng không nhận thức được tám giải thoát siêu việt và vượt khỏi các
vật thể nhưng nhờ nhận thức bằng trí tuệ tất cả các lậu hoặc của
vị được đoạn tận." Hãy đối chiếu D. II. 68-70; DB. II. 66-68; và A.
IV. 453; GS. IV. 297, ở đây người giải thoát bằng trí tuệ phải trải qua
chín cấp độ thiền định (Jhaana). Lưu ý thêm ở kinh Trường Bộ (D. II.
71; DB. II. 70; Trường I. 537) bậc giải thoát bằng trí được xem là vượt
hơn chín cấp độ thiền định.
[92] Nalinaksha Dutt, sách đã dẫn (1981): 270f.
[93] A. II. 87; GS. II. 97: Hai loại A-la-hán
"hành giả hoa sen xanh" và "hành giả hoa sen trằng" được
mô tả như sau: "Thế nào là người được gọi là hành giả hoa sen trằng?
Ai diệt trừ các lậu hoặc và đạt được sự giải thoát tâm và giải
thoát bằng trí tuệ rằng các lậu hoặc đã đoạn tận và an trú vào sự
chứng đạt đó. Nhưng vị ấy chưa an trú sự kinh nghiệm về tám giải
thoát. Đó là hạng người hành giả hoa sen xanh." Đ "Và thế nào
là hành giả hoa sen trắng? Bằng cách diệt trừ các lậu hoặc (như trên)
… an trú vào đó, và an trú với kinh nghiệm về tam giải thoát."
[94] S. V. 376; KS. V. 324.
[95] S. III. 83; KS. III. 68f; Tương III. 1555.
[96] M. II. 20; MLS. II. 70.
[97] Vin. I. 15-20. Yasa chứng quả A-la-hán khi còn
là cư sĩ nhưng ngài đã gia nhập tăng đoàn ngay sau đó (DPPN. vol. II. mục
từ Yasa Thera, p. 685). Khemaa, vị đệ tử đứng đầu trong số các đệ tử
nữ đã chứng quả A-la-hán trước khi gia nhập ni đoàn và bà gia nhập tăng
đoàn với sự đồng ý của chồng là vua Tần-bà-sa-la (DPPN. vol. I, mục từ
Khemaa Therii, p. 727).
[98] Trưởng Lão Tăng Kệ (Theraagaathaa) và Trưởng
Lão Ni Kệ (Theriigaathaa) có nhiều sự kiện tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni chứng quả
A-la-hán. Cơ hội phát triển đời sống tâm linh của người xuất gia thường
nhiều hơn so với người tại gia, tại vì các tu sĩ không còn phải vướn
bận các trách nhiệm gia đình như làm ăn để sanh tồn cho bản thân, cho
hôn nhân và con cái. Quả A-la-hán do đó ít xuất hiện ngoài tăng đoàn
(Sa~ngha). Tuy nhiên, nếu vị A-na-hàm anaagaamii không chứng quả A-la-hán
trong đời hiện tại, vị ấy sẽ tái sanh về cõi trời Tịnh Cư, cảnh giới
cao nhất của chư thiên (akaniỉỉhabbava) và tại đó vị ấy sẽ chấm dứt
con đường sanh từ luân hồi.
[99]M. II. 197; MLS. II. 38: Đức Phật nói với
bà-la-môn trẻ Subha: "Nếu một người tại gia hay xuất gia thực hành
pháp đúng cách vị ấy đạt được con đường chân chánh."
[100] S. V. 358-360; KS. IV. 313f.
[101] A. III. 451; GS. III. 314. Cha của đức Phật,
đức vua Tịnh Phạn (Suddhodana) chứng quả A-la-hán và chết với tư cách
là một A-la-hán cư sĩ (DPPN. vol II, mục từ Suddhodana, p. 1200, xem thêm Trưởng
Lão Ni Kệ, Mahaapajaapati Gotami , p. 225).
[102] A. III. 359: Yo so bhante bhikkhu araha'm
khii.naasavo ohitabhaaro anuppattasadattho parakkhii.nabhavasa--ojano sammada??aa vimutto,
tassa na eva'm hoti "atthi me seyyyo" ti vaa "atthi me sadiso" ti vaa
"atthi me hiino" ti vaa. So sánh Vin. I. 185; A. I. 218.
[103] A. III. 359: Eva'm kho bhikkhave kulaputtaa a--a'm
vyaakaronto. Attha ca vutto attaa ca anupaniito. Atha ca pana idhekacce moghapurisaa
hasmaamakaa ma???????a'm vyaakaronti, te pacchaa vighaata'm aapajjantiiỉi.
[104] Vism. (PTS) II. 602: Dukkham eva hi, na koci
dukkhito / kaarako na, kiriyaa va vijjati / atthi nibbuti, na nibutto pumaa / maggam
atthi, gamako na vijjatii ti. //
[105] M. III. 29-36.
[106] So sánh A. II. 246; A. IV. 307; D. III. 232; Vin.
IV. 2; Vbh. 376.
[107] M. III. 30.
[108] M. III. 30-1.
[109] Danh sách bốn đại còn tái xuất hiện ở
A. IV. 394f; năm đại ở M. I. 423 f.; và sáu đại ở D. III. 247; M. III. 62,
249; S. II. 248; A. I. 176; Vbh. 82ff.
[110] M. III. 31.
[111] M. III. 32.
[112] M. III. 33-6.
[113]A. II. 156-7.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/097-tnt-thanhnhan.htm