- CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ THEO KINH
ĐIỂN NIKAYA
- Thích Nữ Trí Liên
Đạo Phật là đạo từ
bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang
đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Đạo
Phật cũng là đạo bình đẳng và tự giác cho tất cả những ai muốn tìm
đến con đường hướng thượng của sự giải thoát và giác ngộ. Kinh
Pháp Cú có câu: Người thấm nhuần giáo pháp sống hạnh phúc với tâm an
lạc. Hàng trí tuệ luôn luôn hoan hỷ trong giáo pháp mà các bậc thánh nhơn
đã tìm ra.
***
Dòng Ngược dòng thời gian để nhìn
lại quá khứ, Thái tử Tất-đạt-đa thấy cuộc đời là bể khổ, chúng
sanh đang trôi lăn trong vòng sanh sanh, tử tử với cảnh, già, bệnh, chết,
sầu, bi, khổ, ưu não, đang diễn bày trước mắt, do vậy Ngài đã từ bỏ
ngai vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh để đi tìm một công án cho
chính mình đó là- giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi vòng luân hồi
sanh tử. Ngài đã từ giã hoàng cung vào một đêm trăng thanh khi sao mai vừa
mới mọc cùng con kiền trắc và Sa-nặc vượt dòng sông A-nô-ma để đi tìm
chân lý.
Đầu tiên Ngài đến học đạo với
hai đạo sĩ tên là Ala ra Ka la ma và Adduka Ra maputta và đã chứng được
hai trạng thái thiền Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ,
nhưng Ngài nghĩ rằng hai quả vị này chưa phải là những quả vị tối thượng
như Ngài mong muốn. Rồi Ngài từ giã hai vị này để đi tìm chân lý cho
công án của chính mình.
Trải qua sáu năm trường tu khổ hạnh,
nhưng Ngài vẫn không đạt được kết quả gì:
- Sáu năm tầm đạo chốn rừng già
- Khổ hạnh ai bằng Đức Thích Ca
- Chim hót trên vai sương phủ áo
- Hươu kề蠢ên núi
tuyết đơm hoa.
Sau đó Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh
này, trở về với con đường trung đạo. Ngài đến Bodhgaya ngồi nhập định
dưới cội Bồ୦#273;ề và phát nguyện rằng: "Nếu ta không thành đạo
thì dù thịt nát xương tan ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này."
Trong 49 ngày đêm ngồi tham thiền
nhập định, Ngài đã chiến đấu với giặc phiền não ở nội tâm như
tham, sân, si, mạn nghi và chiến đấu với giặc Thiên ma do Ma vương ba tuần
chỉ huy. Sau khi thắng được giặc ở nội tâm và ngoại cảnh, tâm trí
được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ, chứng được quả vô thượng
chánh đẳng chánh giác và trở thành Đức Phật Thích-ca-mâu-ni.
Đức Phật vì một đại nguyện lớn
lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm đạo. Đại nguyện và
lòng từ bi rộng lớn ấy là: "Cầu thành Phật quả để trên đền đáp
bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ." Do vậ﹠sau khi giác ngộ Ngài không nhập Niết-bàn ngay, mà liền
nghĩ đến việc giáo hoá chúng sanh.
Tất cả chúng sanh không phân biệt
đẳng cấp, chủng tộc, sang hèn, nếu thực hành theo giáo lý của Ngài ắt
sẽ được an vui, giải thoát, tịch tịnh. Sự giải thoát theo đạo Phật
không ở đâu xa, mà ngay trong cuộc sống hiện tại này. Con đường giải
thoát mà Ngài đã dạy cho chúng ta qua kinh điển Nik ya đó là giới, định
và huệ. Kinh Tứ Niệm Xứ dạy rằng:
"Này các tỳ-kheo, đây là con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não,
diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, đó là bốn
niệm xứ."
Bốn niệm xứ đó là: quán thân
trên thân; quán thọ trên các thọ; quán tâm trên tâm và quán pháp trên
các pháp
Tứ niệm xứ là pháp môn chỉ
-quán hay Định –Tuệ song tu. Nhưng trước khi đi vào thực tập chỉ quán
song tu Ngài dạy chúng ta phải giữ gìn giới luật, có trì giữ giới luật
thì thân tâm mới trong sạch, nhẹ nhàng để bước vào hành thiền đạt
nhiều kết quả tốt đẹp. Giới luật như hàng rào ngăn chặn không cho
ngoại ma xâm nhập vào, giữ gìn nội tâm yên tịnh, để đi vào định một
cách dễ dàng, do vậy Đức Phật luôn dạy đệ tử của Ngài phải hành
trì giới luật trước khi hành thiền. Điều này được đức Phật nói
rõ trong bài Đại Kinh Xóm Ngựa sau đây:
- Phải biết tàm quí trong khi nhận
của cúng dường.
- Thân hành, khẩu hành, ý hành,
sanh mạng phải được thanh tịnh, minh chánh…
- Phải hộ trì các căn.
- Phải tiết độ trong ăn uống.
- Phải chú tâm cảnh giác.
Sau khi trì giới làm cho thân thanh tịnh,
chúng ta lựa một chỗ thanh vắng như thiền đường, gốc cây, khu rừng,
hay bất cứ nơi nào thuận tiện và thoải mái cho việc hành thiền, rồi
chúng ta ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt, rồi
thực hành phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra (An p nasati).
Trong Kinh Một pháp Đức Phật dạy phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở
ra với 16 đề mục: bốn đề mục về thân; bốn đề mục về thọ; bốn
đề mục về tâm và bốn đệ mục về pháp.
Pháp môn này thuộc về pháp môn Tứ
Niệm Xứ (catt ro- satipatth na), tức là pháp môn đề cập đến
bốn chỗ (xứ) để an trú niệm tức là thân, thọ, tâm và pháp. Pháp môn
An p nasati này đề cập đến 16 đề tài về thân, bốn đề tài về thọ,
bốn đề tài về tâm, và bốn đề tài về pháp. Người hành thiền vừa
thở vô, vừa thở ra, vừa suy tư quán tưởng trên 16 đề tài liên hệ đến
hơi thở.
Pháp môn này cho cả thiền định và
trí tuệ, gồm chỉ (samatha) và quán (vipasana). Cả hai chỉ quán
đều song tu trong pháp môn này. Khi dùng tầm tứ cột tâm trên hơi thở vô
hơi thở ra, như vậy là chỉ, như vậy là định. Khi lấy trí tuệ quán
sát 16 đề tài được lựa chọn, như vậy là quán, như vậy là tuệ.
Tu tập thiền chỉ thì có thể chứng
được từ sơ thiền đến tứ thiền, rồi từ không vô biên xứ đến phi
tưởng phi phi tưởng xứ. Sau đó dùng thiền quán để chứng được diệt
thọ tưởng định. Hoặc có thể từ tứ thiền rồi chuyển qua thiền
quán để hướng tâm đến túc mạng trí, sanh tử trí, và lậu tận trí.
Khi hướng tâm đến lậu tận trí vị ấy biết như thật:"đây là khổ,
đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường đưa đến khổ diệt, đây
là những lậu hoặc, đây là ngyuên nhân của lậu hoặc, đây là các lậu
hoặc diệt, đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt . Nhờ vậy
vị ấy thoát khỏi dục lậu , hữu lậu, vô minh lậu …vị ấy biết sanh
đã tận phạm hạnh đã thành việc cần làm đã làm ; không có trở lui đời
sống này nữa." Vì thế cho nên thiền quán đóng một vai trò rất quan
trọng trong tiến trình đưa đến giải thoát.
Nhìn vào cuộc sống sau khi thành đạo
của đức Từ phụ chúng ta thấy, nếp sống hằng ngày của Ngài có hai việc
chính là thuyết pháp và hành thiền. Ngài là vị chánh đẳng chánh giác,
là bậc được thế nhân tôn sùng, kính lễ, nhưng Ngài vẫn hành thiền mỗi
ngày, đó là vì Ngài muốn làm gương để sách tấn chư đệ tử của Ngài
phải luôn tinh tấn hành thiền. Chúng ta thường gặp hai lời khuyên của
Đức Phật cho các tỳ-kheo xuất gia:
"Này các tỳ-kheo, khi các người
hội họp lại thường có hai việc phải làm: một là đàm luận về phật
pháp, hai là giữ im lặng của bậc thánh. Sự im lặng của bậc thánh ở
đây là hành thiền.
Lời dạy thứ hai là lời khuyên
hành thiền của Đức Phật "Này các tỳ-kheo, đây là gốc cây, đây
là những căn nhà trống, này các tỳ-kheo, hãy tu thiền, chớ có phóng dật,
chớ có sanh lòng hối hận về sau. Đây là lời giáo huấn của Ta cho các
ngươi." Và khi sắp nhập Niết-bàn, Đức phật nhắc đi nhắc lại nếp
sống của một tỳ-kheo tối thắng là tu thiền định, thiền quán.
"Này Anada, ở đời, vị tỷ
kheo, đối với thân quán thân , tinh tấn ,tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
mọi tham ái , ưu bi trên đời, đối với các cảm thọ…đối với tâm…
đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này, Anada, như vậy vị tỳ-kheo tự mình là
ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một vật gì khác."
Đức phật luôn luôn dạy các đệ
tử của Ngài, ngay lúc Ngài còn sống, cũng như trước khi nhập diệt, phải
tinh tấn hành thiền, vì chỉ có một con đường duy nhất đưa đến giác
ngộ giải thoát đó là hành thiền.
Như chúng ta thấy bậc Đạo Sư của
chúng ta trước khi thành đạo, Ngài đã có nhiều kinh nghiệm về thiền như
vậy và đã tự mình khám phá ra con đường giới định tuệ đưa đến giác
ngộ giải thoát, cho đến khi thành đạo và ngay cả trước khi Niết bàn
Ngài cũng hành thiền định. Trong suốt 45 năm sau khi thành đạo Ngài thuyết
pháp, hành thiền và dạy đệử hành thiền, những bài thuyết pháp của
Ngài đều nhấn mạnh về thiền.
Chúng ta là những người hậu học,
đang trên đường tu tập, để nối bước theo dấu chân Ngài, chúng ta phải
tinh tấn thiền định, nhưng trước khi thiền định phải giữ gìn giới
luật nghiêm minh, vì có giới mới đi vào định được, khi định được
viên mãn thì trí tuệ phát sanh. Trí tuệ là lưỡi gươm sắc bén nhất,
có thể cắt đứt được tận gốc rễ của phiền não, tham, sân, si, mạn,
nghi, giống như cây Tala một khi bị cắt đứt ngọn thì không thể mọc
lên được nữa. Khi các kiết sử được đoạn tận gốc rễ, chúng ta mới
được an vui, giải thoát. Sự an vui giải thoát này không ở đâu xa, mà
chính ở ngay trong cuộc sống này.
Vì thế cho nên, tất cả chúng ta,
giờ giờ, khắc khắc phải tinh tấn tu học, thực hành tam vô lậu học
(giới-định-tuệ). Vì đó là con đường duy nhất đưa chúng ta đến cõi
an vui, giải thoát, tịch diệt, và Niết-bàn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/106-giacngo.htm