- GIÁC NGỘ TRONG KINH BÁT ĐẠI
NHÂN GIÁC
- Thích Viên Giác
Kinh Tám Điều Giác Ngộ
có hai mục đích: một là trang bị cho mình khả năng giải thoát khỏi sự
trói buộc của sanh tử; hai là sử dụng khả năng ấy để giúp cho chúng
sanh cũng được lợi ích giải thoát như mình. Thực ra, bản chất của
giáo pháp mà Đức Phật dạy luôn bao hàm hai khả năng ấy.
***
I. NỘI DUNG CỦA TÁM
ĐIỀU GIÁC NGỘ
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục
thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu
tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy; Phần
ba là phần khuyến khích tu tập theo tám điều giác ngộ ấy, phần này coi
như là phần kết thúc của kinh.
1. Lời mở đầu của kinh Bát Đại
Nhân Giác rất ngắn gọn và đơn giản, có tính cách giới thiệu chủ đề,
không như phần mở đầu của các kinh khác thường có. Điều nầy chứng
tỏ Ngài An Thế Cao đã trích lục, soạn thảo tám điều giác ngộ, Ngài
chủ động giới thiệu để người đọc có thể đi thẳng vào nội dung.
Mặc dù ngắn gọn nhưng tha thiết,
vừa nói lên trách nhiệm và bổn phận của người phật tử vừa chỉ dẫn
những điều cụ thể phải thực hành. Trách nhiệm của người Phật tử
là gì? Ở đây không nói là người xuất gia, vậy từ Phật tử chỉ chung
cho tại gia và xuất gia. Mang danh con của Phật thì phải thể hiện tính của
Phật, đấy là chỗ khác biệt giữa người Phật tử và không là Phật tử;
đấy là trách nhiệm của người Phật tử, những biểu hiện ở hành vi
và ngôn ngữ cũng như tâm ý của người Phật tử luôn có sự cao thượng,
lợi ích và hạnh phúc cho những người xung quanh.
Để xứng đáng với danh nghĩa là
con của Phật, người Phật tử phải có quá trình tu tập bản thân; không
phải tụng kinh, niệm Phật theo thời khóa nhất định mà sự tu tập ấy
phải diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, lời mở đầu gọi là Trú Dạ,
là ngày cũng như đêm. Như vậy mới đủ năng lực chuyển hóa tính phàm
phu của mình.
Tụng niệm không có nghĩa là đứng
trước bàn Phật tụng kinh gõ mõ là đủ. Tụng là đọc tụng, còn niệm
là an trú tâm vào đối tượng, còn gọi là chánh niệm, là hướng tâm, an
trú tâm vào đối tượng, ở đây chính là Tám Điều Giác Ngộ của Bậc
Đại Nhân. Do tụng và niệm thường xuyên làm huân tập chủng tử thiện
pháp, trí tuệ䠮gày càng lớn, thân tâm càng
thanh tịnh, càng ngày càng gần với tính Phật như vậy xứng đáng là con
của Phật.
Bậc Đại Nhân là người lớn, là
người trưởng thành, chỉ cho những người không còn bị sai khiến hay bị
chế ngự bởi các phiền não, dục vọng.Theo truyền thống Đại thừa thì
chỉ cho Phật và Bồ Tát, theo truyền thống Nguyên thủy, đó là những vị
chứng quả A-la-hán hay trên đường chứng quả A-la-hán.
1. Điều giác ngộ thứ nhất là
quán chiếu để thấy rõ pháp ấn: Vô thường, khổ, không, vô ngã ở nơi
thân tâm của con người với mục đích bỏ những vướng mắc tham đắm,
chấp thủ đối với con người và cuộc đời. Duy trì sự quán chiếu ấy
trên đối tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình; mình sẽ có thái độ
ứng xử thích hợp với chân lý. Đây không phải là lối nhìn bôi đen đời
sống, là lối nhìn tiêu cực, mà chính là cách nhìn của tuệ nhãn đầy tích
cực, nó có tác dụng mang lại sinh lực cho chúng ta. Con người đau khổ mất
mát sinh lực chính là do nhìn đời ngược lại. Thành tựu các "niệm
xứ" như kinh đã dạy, tức là bước vào Thánh đạo, không có con đường
nào khác. Nhãn quan của đạo Phật về cuộc đời quá rõ như kinh Kim
cương dạy:
- "Nhứt thiết hữu vi pháp
- Như mộng huyễn bào ảnh
- Như lộ diệc như điện
- Ưng tác như thị quán."
2. Nội dung của điều giác ngộ thứ
hai là "ham cầu nhiều thì vất vả, khổ sở nhiều; đó là quy luật,
đó là con đường phàm phu ngu muội. Con người cứ tưởng rằng họ đạt
được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh
phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì
nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc
phải từ bỏ tất cả, như khi chết chẳng hạn ….
Nỗi đau khổ của cuộc đời giống
như nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục,
ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt ngọn lửa càng yếu
thì nước sôi sẽ bớt nhiệt độ và hết sôi. Cũng vậy, ngọn lửa tham
dục bớt đi thì đau khổ sẽ giảm, giảm mãi hằng ngày đến lúc không
còn gì để giảm nữa (vô vi) thì sự giải thoát tối hậu được thành tựu.
3. Trong điều giác ngộ thứ ba, có
hai con đường mà ta phải chọn lựa: Một là lao đầu vào đời sống thế
tục tìm kiếm lạc thú và đương nhiên hưởng thụ cả đau khổ, con đường
đó được làm bằng dục vọng và tội lỗi. Hai là con đường xuất thế
siêu thoát lên trên mọi cám dỗ dục lạc, thành tựu những an lạc siêu
thế, chấm dứt khổ đau, con đường nầy được làm bằng tri túc và trí
tuệ, đấy là con đường của đệ tử xuất gia, của người tu sĩ Phật
giáo, đây là con đường của người cư sĩ thực hành Bồ tát hạnh.
4. Điều giác ngộ thứ tư dạy rằng
sự tu tập cũng như chèo thuyền ngược nước không chèo là bị dừng lại
và thối chuyển, tinh tấn là một đức tính cần thiết cho sự chèo con
thuyền Bát Nhã vượt biển sanh tử. Đã là một đức tính thì cũng cần
phải tu tập: Tinh tấn tu tập hạnh tinh tấn, không có cái gì tự có hoặc
ngẫu nhiên. Tất cả đều tuân thủ các quy luật nhân quả, nghiệp báo,
duyên sinh. Nhân như thế nào, duyên như thế nào, thì quả báo như thế ấy.
Hạt nhân hay chủng tử vô minh chấp
ngã phiền não đã được tích lũy nhiều đời, có sức mạnh rất lớn,
không dễ đoạn trừ. Các loại phiền não, bốn ma, năm ấm, giới đều nằm
trong đó. Chánh kiến nhận thức được bản chất, chỗ trú ẩn của
chúng rồi mới dùng trí tuệ䬠tinh tấn đoạn
trừ chúng. Những khả năng ấy cũng đều nằm trong tâm thức. Tinh tấn
là khai thác triệt để khả năng ấy.
5. Điểm mấu chốt của điều giác
ngộ thứ năm là vô minh là cội nguồn của sanh tử, của đau khổ. Chấm
dứt vô minh là mục tiêu của đạo Phật và của người đệ tử Phật.
Con đường để đoạn trừ được vô minh là con đường phát triển trí
tuệ, tức là làm cho " minh" xuất hiện thì " vô minh diệt".
Trí tuệ có được là qua quá trình học tập biết nhiều qua văn huệ, tư
huệ, tu huệ. Nhờ học rộng biết nhiều mà thành tựu được khả năng
trí tuệ䠢iện tài tức là hiểu biết và
lý luận sắc bén.Nhờ vậy mà giáo hóa được nhiều loại chúng sanh khác
nhau, nhiều quốc độ khác nhau. Phật pháp được gieo rắc rộng rãi, sự
hạnh phúc mọi loài chúng sanh được phổ cập.
Trí tuệ trong bài giác ngộ thứ năm
nầy là trí tuệ đi vào lĩnh vực chuyên môn, nghĩa là phát huy tác dụng
độ sanh, tác dụng giáo dục để thành đạt mục đích phổ cập hóa Phật
pháp vào đời sống con người và xã hội.
6. Điều giác ngộ thứ sáu bao gồm
các nội dung sau đây:
- Bố thí là một công hạnh có
tác dụng lợi ích rất đặc biệt, biểu hiện đủ hai mặt: Phước đức
và trí tuệ.
- Phước đức có được là do đem
đến cho chúng sanh bị đau khổ niềm an ủi, sự an tâm, sự đầy đủ, giảm
cho họ những áp lực của đời sống mà có thể đưa họ vào con đường
tội phạm tối tăm. Làm cho người khác được an vui hạnh phúc là ý nghĩa
của phước đức.
-Trí tuệ䠬à do thực hành bố thí mà quán chiếu thực trạng đau
khổ của đời sống, nhận được chân lý khổ đế. Mặt khác, mình thấy
được tự tính vô ngã trong mọi thứ mà mình nắm trong tay: Không có người
cho kẻ nhận và của cho. Thực hành tâm bình đẳnG, xả bỏ chấp thủ nhân,
ngã, bỉ, thử, chủ thể, đối tượn... đạt được tâm thư thái thanh thản,
giải thoát là ý nghĩa của trí tuệ.
Một người là đệ tử của Phật
luôn được trang bị giáo dục để có được hai đức tính căn bản này
là phước đức và trí tuệ. Qua hành động bố thí, ta có thể thành đạt
hai đức tính ấy.
7. Nội dung của điều giác ngộ thứ
bảy là người cư sĩ sống đời sống thế tục có kinh nghiệm phong phú,
có sự hiểu biết sâu sắc về con người: căn cơ, trình độ, tâm lý, ước
muốn của họ; hiểu biết một cách trực tiếp về bản chất của đời
sống xã hội. Vì vậy họ có thể hiểu biết cảm thông và thương yêu
con người một cách chân thật. Tuy vậy, để đạt được một đời sống
lý tưởng "tâm xuất gia mà thân không xuất gia", đạt được mục
đích và hạnh nguyện của một Bồ Tát cư sĩ thì họ phải thực hành tuần
tự từng bước:
Quán chiếu để thấy rõ bản chất
của năm dục lạc đưa đến tội ác và tai ương hoạn nạn, mà hoạn nạn
lớn nhất là bị che khuất trí tuệ và chìm đắm trong vòng sanh tử. Phải
tu tập để chiến thắng sự kiềm tỏa của năm dục, phải triệt tiêu
áp lực của chúng trong nội tâm mình.
Phải tạo thói quen, xu hướng mới
cho tâm thức, hướng tư duy về sự giải thoát, về đời sống viễn ly thành
tựu được chánh tư duy, thiện tâm bắt đầu tỏa sáng.
Kiến tạo một đời sống đạm bạc
thanh cao. Trong đó bao gồm các đối tượng bên cạnh mình như vợ con…để
thiết lập cuộc sống chung giàu trí tuệ và an lạc.
Từ đó, thiết lập đời sống phạm
hạnh coi nhẹ tình yêu ân ái vợ chồng giới tính biến thành tình yêu vị
tha đối với muôn loài, biến các chất liệu của tình thương đau khổ, hạn
chế thành chất liệu tình thương vô lượng,an lạc.
Như vậy, người cư sĩ có thể kiến
tạo đạo tràng giữa cõi nhân gian, hoàn thành hạnh nguyện độ tha của Bồ
Tát đạo.
8. Điều giác ngộ thứ tám là đỉnh
cao của lộ trình tu tập Bồ Tát hạnh. Ở đó thể hiện trí tuệ và từ
bi viên mãn, đồng thời thể hiện tác dụng hóa độ chúng sanh một cách
cao độ. Tất cả những khả năng ấy đều được nói đến trong Kinh tạng
Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa. Ở đây biểu hiện rất rõ hướng đi của
mẫu người lý tưởng: Bồ Tát nhập thế. Đây là con đường mà người
Bồ Tát cư sĩ có rất nhiều điều kiện và cơ hội thực hành.
- Khổ và thoát khổ là mối tư duy
chân chính xuyên suốt mọi pháp môn tu tập. Làm cho mình hết khổ, giúp
cho người bớt khổ là một công trình đòi hỏi trí tuệ, sức lực và thời
gian. Còn hòa vào đời chịu cảnh tối tăm lem luốc để dẫn dắt chúng
sanh lên bờ giải thoát là một hạnh nguyện vĩ đại của những Đại
Sĩ, cũng gọi là hạnh nguyện hay sự giác ngộ của Bậc Đại Nhân mà
Kinh này đề cập đến.
Phần kết thúc Kinh là những lời
nói lên tác dụng siêu việt của tám điều giác ngộ của Bậc Đại Nhân
nhằm khích lệ tinh thần tu tập của các hành giả Phật tử. Phần nầy
có thể chia thành hai ý chính, đó là tác dụng xuất thế và nhập thế của
tám điều giác ngộ.
II. TÁC DỤNG XUẤT THẾ
CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
Tác dụng xuất thế gồm những
gì? Đó là tu tập quán chiếu Tứ Niệm Xứ, trang bị cho mình nhận thức
rõ về thân, về thọ, về tâm và về pháp. Tu tập hạnh thiểu dục tri
túc sống đời thanh bạch từ bỏ các lạc thú ở đời. Nhờ vậy trí tuệ
được tăng trưởng - tuệ giải thoát phát sinh.
- Con đường tu tập để làm thanh
tịnh Thân - Khẩu - Ý, đoạn trừ các ác nghiệp và các ô nhiễm tâm lý,
làm chủ được các hành vi bản năng, mở rộng đường cho trí tuệ và giải
thoát; đó là con đường tu tập chung của mọi người Phật tử. Dĩ nhiên
người xuất gia có lợi thế hơn. Đây là công hạnh căn bản, là hiện tướng
giải thoát của người tu, nếu không có hay không đạt được hoặc không
qua lộ trình tâm thanh tịnh nầy thì không có lộ trình giải thoát nào,
nghĩa là muốn qua sông thì phải biết bơi, còn sử dụng khả năng biết
bơi để cứu người hay không là chuyện khác. Vì vậy không thể chấp nhận
một người Phật tử, nhất là Phật tử xuất gia mà tham lam, sân hận
quá lớn, không có lý do chính đáng nào biện minh cho các việc làm hay
hành vi bất thiện.
- Con đường Bồ-tát hạnh hay Đại
thừa cũng dựa trên cơ sở giải thoát và thanh tịnh nầy mà hướng tâm về
cứu độ chúng sanh.
- Thuyền pháp thân được làm bằng
trí tuệ và từ bi, trí tuệ và từ bi được làm bằng chất liệu thanh tịnh
không ô nhiễm. Con thuyền ấy đưa hành giả đến bờ giải thoát.
III. TÁC DỤNG NHẬP THẾ
CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
- Tu tập hạnh thanh tịnh giải
thoát xuất thế đối với đường lối của Kinh tám điều giác ngộ có
hai mục đích: Một là trang bị cho mình khả năng giải thoát khỏi sự
trói buộc của sanh tử. Hai là sử dụng khả năng ấy để giúp cho chúng
sanh cũng được lợi ích giải thoát như mình. Thực ra, bản chất của
giáo pháp mà Đức Phật dạy luôn bao hàm hai khả năng ấy.
- Trong lời kết thúc nói rằng: sau
khi các Ngài đắc đạo nhờ tu tập tám điều giác ngộ, các Ngài từ cõi
Niết Bàn trở về cõi sinh tử giúp chúng sanh giải thoát. Điều nầy rất
rõ ràng, trước khi hóa độ chúng sanh thì phải hóa độ mình trước, mình
có giác ngộ, có giải thoát mới "trở về" hóa độ chúng sanh, chứ
không phải mình chưa giải thoát mà vội độ sanh chỉ tăng trưởng phiền
não và tội lỗi. Vì vậy, ta không có lý do gì để phê bình những người
đang nỗ lực tu tập "độ mình" là những người tiêu cực, ích kỷ.
Tuy nhiên, nếu mình "độ mình"
lâu quá, chúng sanh đang đau khổ mà mình chưa "công viên quả mãn"
thì có phải đang bỏ rơi chúng sanh hay không? Có lẽ đó là một điều lo
xuất phát từ thiện ý nhưng cũng như lo "voi chết không có hòm",
kiểu nói của tục ngữ Việt Nam.
Con đường tu tập của Phật giáo
không nên phân cách quá cứng ngắc giữa độ mình và độ người. Nếu quán
chiếu theo chân lý duyên sanh, ta sẽ thấy: Độ mình là độ người, độ
người cũng là độ mình. Chất liệu tu tập có chất liệu từ bi thì hệ
quả tất nhiên là có độ chúng sanh. Vì vậy, không thể nói Đại thừa mới
hoá độ chúng sanh được, còn các đường tu tập khác thì không !
Tác dụng nhập thế của tám điều
giác ngộ là thành tựu biện tài thuyết pháp cảm hóa chúng sanh, giúp đỡ
cho chúng sanh về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ bớt khổ, tạo
cho họ cơ hội để họ tu tập hướng thượng, hướng thiện. Lấy nếp sống
mẫu mực thanh bạch và vô dục của mình làm tấm gương, làm thân giáo để
mọi người quay về chánh đạo. Cuối cùng nếu cần thiết, mình có thể
nhập cuộc nhận lãnh khổ đau nếu đó là điều giúp cho mọi người bớt
khổ thêm vui. Đó là con đường nhập thế của Bồ tát, của Kinh Tám Điều
Giác Ngộ.
Tất cả mọi phương tiện mà Bồ-tát
thực hành đối với chúng sanh đều phải hướng đến các tác dụng cụ
thể:
a."Linh chúng sanh giác sanh tử
kho妱uot;: Làm cho chúng sanh có được trí
tuệ䠮hận chân khổ đế mà cái khổ lớn
nhất là cái khổ của sự sanh tử luân hồi. Điều nầy không dễ, người
ta dễ dàng nhận thức hay chấp nhận chân lý khổ như: khổ về sanh, lão,
bệnh, tử, thương yêu mà phải xa nhau, ghét mà phải gần nhau, hoặc cầu
mong mà không toại ý, tức là những cái khổ mang tính hiện tượng, còn
cái khổ bản chất thì họ không biết và rất khó biết. Vì vậy, họ chỉ
mong hết khổ thông thường chứ không mong được giải thoát.
b. "Xả ly ngũ dục":
Làm cho chúng sanh nhận chân được Tập đế là nguyên nhân của khổ, tham
ái ngũ dục. Chúng sanh đang ở trong cuộc đời, đang hưởng thụ ngũ dục,
đang hướng tâm trí đến các đối tượng của dục và vì vậy mà họ
đang đau khổ. Làm cho chúng sanh thấy rõ bản chất của dục là nguy hiểm
luôn gây ra hậu quả đau khổ, để họ dần dần nhận thức và từ bỏ
chúng.
c. Tu hành thánh đạo: Làm cho
chúng sanh hiểu được Đạo đế, tu hành con đường dẫn đến đoạn trừ
khổ đau.
- Tu hành thánh đạo là gì? - Chính
là tu tập hành trì Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nếu chúng
sanh tu tập thánh đạo nầy thì chắc chắn thoát ly khổ ách.
- Đoạﮠcuối cùng nhắc nhở
khích lệ người đệ tử Phật phải đọc tụng và nhớ nghĩ đến tám
điều giác ngộ nầy. Được như vậy thì trong từng ý nghĩ tiếp diễn chỉ
có thiện pháp, không có ác niệm, ác pháp. Nhờ đó mà ác nghiệp được
tiêu diệt, dẫn đến giác ngộ, thành tựu thánh quả và khổ sanh tử chấm
dứt, hưởng niềm vui tối thượng, an lạc Niết Bàn.
- Lời kết thúc kinh bao hàm ý nghĩa
khái quát con đường tu tập của kinh, đó là thực hành sự thanh tịnh
làm cho tâm hết ô nhiễm thành tựu các đức tính trí tuệ và từ bi, nhờ
đó mà được giải thoát tối thượng. Sau khi đạt được sự giải thoát
thực hành hạnh lợi tha dùng khả năng giải thoát giác ngộ của mình
giúp cho mọi người có điều kiện hướng về chân lý và giải thoát như
mình.
- Đồ讧 thời lời kết thúc cũng đưa ra mục tiêu cụ thể cho
hành giả thực hành công cuộc hóa độ làm cho chúng sanh nhận chân về sự
khổ, về nguyên nhân đưa đến khổ và con đường đưa đến diệt khổ.
- Cuối cùng là khích lệ tu tập bằng
cách nêu bật lên công dụng quán chiếu chánh niệm đưa đến đoạn trừ
ác nghiệp thành tựu Niết Bàn.
Con đường mà kinh Bát Đại Nhân
Giác giới thiệu là con đường thuận tiện cho đời sống của người cư
sĩ thực hành để đáp ứng nguyện vọng của Bồ-tát dấn thân vào đời
cứu độ chúng sanh. Con đường ấy đặc biệt ở chỗ sống giữa cuộc
đời bụi bặm mà không dính bụi, ngược lại có thể chuyển hóa bụi bặm
ô nhiễm thành thanh tịnh thanh lương./.
IV. SÁU BƯỚC ĐI CỦA
LỘ TRÌNH TU LÝ TƯỞNG
... Để thiết lập một lộ trình
tu có tính phổ biến hơn, tích cực hơn, để nhằm đáp ứng nhu cầu tu tập
và hoằng pháp trong một bối cảnh xã hội mới như xã hội Trung Hoa vào
thời Hán, Phật giáo chưa được chấp nhận một cách đầy đủ, các vị
tăng sĩ chưa được xuất gia, thành phần cư sĩ là chủ yếu. Vì vậy mà
Kinh Bát Đại Nhân Giác ra đời. Đây như là sự kiện tất yếu, nghĩa là
phải có một mô thức mới phù hợp với hoàn cảnh mới cho người cư sĩ
tại gia thực hành, đặc biệt dành cho những người cư sĩ có đạo tâm lớn
- tâm thì muốn xuất gia, thân thì ở thế tục. Con đường tu tập này
không lấy Định làm cơ sở mà lấy chánh niệm làm cơ sở, từ đó ý
chí và nguyện lực được thiết lập.
Sự ra đời của kinh Bát Đại Nhân
Giác một mặt lấy nền tảng tu tập của Kinh Bát Niệm, mặt khác dựa
vào giáo nghĩa Đạ褐thừa mà lúc bấy giờ
công cuộc vận động Đại thừa đang lên cao. Chắc chắn Ngài An Thế Cao
đã thừa hưởng sắc thái của truyền thống Đại thừa một cách trọn vẹn
nên những điều giác ngộ cuối đã chuyển hướng sang sắc thái Đại thừa
một cách triệt để. Kinh Bát Đại Nhân Giác rõ ràng là một hướng đi mới
cho một điều kiện và xã hội mới. Đường lối ấy mệnh danh là Bồ-tát
đạo và mục tiêu hướng đến là người cư sĩ tại gia. Ngài An Thế Cao
đã gởi gấm lòng mình qua mẫu người thực hành Bồ-tát hạnh, giới thiệu
một mẫu người lý tưởng để kiến tạo một xã hội lý tưởng, xã hội
Phật hóa … Con đường tu tập này, chúng tôi cho rằng có thể chia làm
sáu bước:
- Bước một: Xây dựng một con người
có đầy đủ nhận thức sáng suốt về bản chất của cuộc sống, có một
tầm nhìn chính xác và rộng rãi về cuộc đời, về vũ trụ thiên nhiên,
về đời sống xã hội, về đời sống cá nhân gồm cả hai mặt thân thể
vật lý và hoạt động tâm lý (Điều giác ngộ thứ nhất) có được một
tầm nhìn như vậy gọi là có chánh kiến.
Giáo dục trang bị tri thức hoàn chỉnh
và căn bản là bước đi đúng hướng, cần thiết như Đức Phật dạy
trong kinh Bốn Mươi Pháp: "Chánh kiến đi hàng đầu trong lộ trình tu tập."
Một người Phật tử chân chính là người có cái nhìn sáng suốt và hiểu
sâu về bản chất của hiện tượng giới.
- Bước thứ hai: Xây dựng đạo đức
bản thân qua lối sống thiểu dục và tri túc. Đi vào thực tiễn của đời
sống và dưới sự soi chiếu của nhận thức chánh kiến, người Phật tử
khép mình vào kỷ luật đạo đức qua tu tập hạnh thiểu dục và tri túc.
Cần chú ý là trong kinh Bát Niệm nói dứt khoát là vô dục chứ không nói
là thiểu dục. Vô dục của kinh Bát Niệm là đường lối Thánh đạo vô
nhiễm, vô trước của người xuất gia. Thiểu dục tức là ít ham muốn,
nghĩa là còn các dục nhưng hạn chế chúng tới mức tối thiểu. Nhờ đời
sống kiềm chế nhu cầu tiêu thụ và hưởng thụ, đạo đức của người
cư sĩ trở nên tăng trưởng và vững chãi. Nếu cứ để cho lòng ham muốn
phát triển không có giới hạn chắc chắn sẽ phát sinh cướp đoạt, lừa
đảo, gian trá và hãm hại….
- Bước thứ ba: Qua quá trình tu tập
ít ham muốn và biết đủ, người Phật tử sẽ tạo được cho tâm thức
mình một xu hướng mới: Xu hướng vượt thoát bản năng, tâm thức trở
nên hướng thượng thanh cao. Từ con người mang nặng dấu ấn thế tục bắt
đầu hình thành con đường giải thoát, đó là một cuộc cách mạng tâm
lý, đòi hỏi có sự nỗ lực lớ鮠để tạo
một chuyển hóa đột phá trong tâm cũng như ngoại giới (Điều giác ngộ
thứ tư).
Khi mà đời sống dục lạc, ham muốn
vật chất giảm, xu hướng trí tuệ tăng, người Ph`ật tử có một hướng
đi rõ: Những gì đưa đến tăng trưởng trí tuệ đều được quan tâm,
coi trí tuệ là sự nghiệp của mình, do đó nhận thức càng sâu sắc và
toàn diện (điều giác ngộ thứ năm).
- Bước thứ tư: Tri thức và trí
tuệ đã vươn tới tầm cao, điều đó có thể tạo ra một hướng đi phi
thực tiễn, trở nên cô độc, duy lý. Vì vậy để có sự quân bình, người
Phật tử hướng tâm và tuệ của mình vào đời sống thực tiễn để hiểu
và cảm thông với nỗi đau của quần chúng, những thái độ bạo động,
hằn học, căm thù xuất phát từ sự nghèo túng khốn đốn về đời sống
vật chất. Người Phật tử sử dụng năng lực trí tuệ để phát triển
tình thương yêu cứu giúp mọi người, tu tập hạnh bố thí để quân
bình trái tim và khối óc, đồng thời để tích lũy công đức trợ duyên
cho đời sống tu tập và chí nguyện độ sanh dễ thành tựu (điều giác
ngộ thứ sáu).
- Bước thứ năm: Điều hòa Bi-Trí
song hành tạo được sự thăng bằng về tâm. Nhưng vì đời sống cư sĩ tại
gia có những ràng buộc, những hệ lụy về tình ái nên dễ bị thối tâm
và khó phát khởi tâm từ bi đến chỗ không giới hạn. Vì vậy đến trình
độ này, người Phật tử bắt đầu thực hành phạm hạnh coi nhẹ tình
ái hay chấm dứt tình ái vị kỷ để khai mở cánh cửa đại bi tâm. Từ
đây ảnh hưởng của người Phật tử đã có tác dụng rộng, trước hết
là đời sống gia đình được thuần hóa, sau đó là môi trường xã hội
xung quanh đã có những ảnh hưởng đạo đức của mình.
- Bước thứ sáu: Bước cuối cùng,
trí tuệ䠴hấu suốt bản chất nỗi khổ của
chúng sanh. Vì vậy đại bi tâm mở rộng, tâm hồn của người Phật tử
thể nhập vào thế giới chúng sanh, cảm thông và chia sẻ niềm đau của
quần chúng. Người Phật tử không sợ đau khổ, dũng cảm dấn thân vào
đời, thấy mình ở trong chúng sanh, chúng sanh ở trong mình, chúng sanh và
mình là một. Vì vậy niềm đau của con người cũng chính là niềm đau của
mình, nên không thể thờ ơ trước nỗi đau khổ của nhân loại. Họ dấn
thân vào đời với trí tuệ vô ngã siêu việt, với trái tim thương yêu
không giới hạn dưới mọi hình thức, dùng mọi phương tiện để đạt
được mục đích đưa con người đến chỗ giải thoát an vui.
Sáu bước đi của một người cư
sĩ thực hành Bồ-tát hạnh như vậy không phải là những bước đi siêu
thực, mà đó là những bước đi hiện thực, là những điều kiện cho một
con người toàn diện hay con người lý tưởng cho một xã hội lý tưởng:
Một xã hội bình đẳng, an lạc, văn minh và giải thoát.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/107-batdainhangiac.htm