- VÔ NGÃ VÀ NIẾT-BÀN
- Thích Hiển Chánh
Niết-bàn không phải là sự vật
mà là một trạng thái vắng mặt trọn vẹn dòng chảy lậu hoặc của
tâm. Cho vô ngã là niết-bàn chẳng khác nào cho rằng tất cả các sự vật
là niết-bàn, hay nói khác hơn đánh đồng niết-bàn với các sự vật vô
ngã.
***
Theo văn học Phật giáo nguyên thủy
, niết-bàn không phải là thực tại thường hằng (nicca) và cũng
không phải là thực tại ngã (atta). Mà đúng ra, niết-bàn được
mô tả như một trạng thái chứng đắc "siêu vượt thời gian" (akaa
liko) hay sự an lạc cao cấp nhất (nibbaa na"m parama"m
sukha"m ). Nhưng có khuynh hướng cho rằng niết-bàn là một thực
tại tuyệt đối theo nghĩa một hạnh phúc thường hằng hay một kinh nghiệm
siêu nhiên. Đặc tính hoá niết-bàn bằng một hạnh phúc thường hằng
sẽ vô tình thừa nhận có một tác nhân kinh nghiệm thường hằng miên viễn
(a permanent and eternal experiential agent), luôn túc trực để tiếp nhận
dòng kinh nghiệm đó.
Về phương diện logic, điều nầy
sẽ kéo theo sự thừa nhận một tác nhân thường hằng bất biến hay một
hiện hữu siêu nhiên; và nhờ vào hiện hữu siêu nhiên này mà con người
có thể nhận dạng được dòng kinh nghiệm của hạnh phúc thường hằng.
Nếu đây là những gì được hiểu thì phán đoán "niết-bàn là
thường" sẽ trái với lời dạy nguyên thủy của đức Phật về tính
phi thực thể hay vô ngã (anatta) của mọi sự vật. Ngoại diên của
vô ngã không bị giới hạn trong thế giới luân hồi (sa"msaa ra),
mà còn bao gồm cả niết-bàn. Mặc dù chúng ta không thể tìm thấy
các bằng chứng trực tiếp cho lối giải thích trên, nhưng chúng ta có thể
đút kết chúng từ ba tuyên ngôn nổi tiếng của đức Phật về bản chất
của thế giới:
- "sabbe sa"m khaaraa aniccaa ,
- sabbe sa"m khaaraa dukkhaa ,
- sabbe dhammaa anattaa "
Có nghĩa là "tất cả các sự
vật duyên khởi đều vô thường, tất cả các sự vật duyên khởi đều
dẫn đến sự không thoả mãn, và tất cả các hiện tượng (dhammaa )
là vô ngã."
Vấn đề cần đặt ra là niết-bàn có thể
được liệt vào phạm trù của mọi sự vật hiện tượng (dhammma)
hay không? Nhận xét về ba câu tuyên ngôn trên của đức Phật, HT. Narada đã
viết rất cách chính xác như sau:
Khái niệm "pháp" hay mọi sự
vật hiện tượng có thể áp dụng cho các sự vật và trạng thái duyên khởi
hay phi-duyên-khởi, bao gồm luôn cả niết-bàn. Để minh chứng rằng niết-bàn
thoát khỏi một bản ngã thường hằng, đức Phật sử dụng thuật ngữ
"pháp" trong câu tuyên ngôn thứ ba. Niết-bàn là trạng thái
siêu thế tích cực và không có bản ngã trong nó.
Điểm quan trọng cần ghi nhận ở
đây là thuật ngữ "dhamma" không được Phật sử dụng trong
hai câu tuyên ngôn đầu có thể nhằm ngụ ý rằng mặc dù niết-bàn không
phải là vô thường và khổ, nhưng nó hoàn toàn không thể mang nghĩa của
một bản ngã hay thực thể thường hằng. Sự an lạc tịch tĩnh của niết-bàn
được mô tả là siêu việt thời gian (akaa liko) không có linh hồn
hay không phải là một thực thể ngã (anatta). Thế thì, những điều
có thể nói về ý nghĩa của câu tuyên ngôn thứ ba là niết-bàn cũng
như các hiện tượng khác (dhammaa ) là vô ngã (anatta).
Trong kinh điển nguyên thủy, khái
niệm "pháp" (dhamma) bao gồm hai phạm trù hiện tượng, đó
là các sự vật duyên khởi tương hay hữu vi (sa~n khataa , hành) và
các sự vật phi duyên khởi tương thuộc hay vô vi (asa~n khataa , phi hành);
và niết-bàn thuộc vào loại thứ hai. Chúng ta có thể tìm thấy bằng
chứng cho lý giải trên trong kinh Tăng Chi (A'n guttara-Nikaa ya). Tại
đây, đức Phật tuyên bố rằng sự thiền quán về bản chất của vô
ngã hay tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng sẽ giúp ta nhổ
lên được gốc rễ của bản ngã, và mặt khác, chứng đạt niết-bàn ngay
trong đời sống hiện tại này. Đoạn kinh đó như sau: "với quán tưởng
thiền, không còn một thực thể hay ngã tính tồn tại. Vị ấy sẽ chứng
đạt giải thoát các thái độ "tôi là" và đạt được niết-bàn
trong hiện đời."
A-la-hán là người đã thoát khỏi
ý niệm sai lầm về ngã hay các tư tưởng nguỵ tạo trên ngã (ma– –
ati). Bậc giác ngộ là người đã thoát khỏi bốn cách biểu đạt dính
dáng đến sự sai lầm về ngã, như, (i) tôi là niết-bàn, (ii) tôi
đang ở trong niết-bàn, (iii) tôi khác với niết-bàn, và (iv) niết-bàn
là của tôi. Điều này có nghĩa là niết-bàn không thể bị đồng
hóa với khái niệm bản ngã hay một thực thể (atta // aatman), và do
đó, niết-bàn phải là vô ngã (anatta). Mối quan hệ mật
thiết giữa niết-bàn và vô ngã được trình bày rõ nét trong một
đoạn kinh Trung Bộ sau đây:
Ở đây, một vị A-la-hán đã diệt
trừ toàn bộ các lậu hoặc của tâm, đã sống trọn vẹn đời sống thánh,
đã làm hoàn tất những gì cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã chứng
đạt được mục đích, đã tiêu diệt hết các trói buộc của tái hiện
hữu bằng trí tuệ . . . Vị A-la-hán biết rõ rằng niết-bàn là niết-bàn.
Với tuệ tri này, vị A-la-hán không nghĩ đến niết-bàn, không
nghĩ về mình trong niết-bàn hay chính niết-bàn; cũng không nghĩ
niết-bàn là của tôi, vị ấy cũng không tham đắm trong niết-bàn.
Nguyên do là vị A-la-hán đã tuệ tri được bản chất của nó.
Theo đoạn kinh này, cách thức quan
niệm về niết-bàn làm cho vị A-la-hán khác và vượt lên trên người
phàm kẻ tục (puthujjana). Nhờ vào trí tuệ chân chánh về niết-bàn
như là niết-bàn vị A-la-hán "thật" sẽ không vướng mắc
mình vào khái niệm niết-bàn cũng như niết-bàn như một thành
quả chứng đạt được. Bậc giác ngộ không quan niệm niết-bàn là
của mình hay bản thân mình trong niết-bàn hay chính là niết-bàn. Với
tuệ tri đó, bậc giác ngộ thoát khỏi mọi chấp mắc ở đời, trong đó
sự chấp mắc về niết-bàn chứng đắc được là một. Điều này
cũng có nghĩa là "niết-bàn là vô ngã."
Nhờ sự tuệ tri về tính không thực
thể (anatta) của năm nhóm nhân tính (pa– cakkhandha) và mọi sự
vật hiện tượng (dhamma) trên thế gian này (loka), bậc giác ngộ
nhận chân được rằng mình không thể bị đánh đồng với năm nhóm nhân
tính hay bất kỳ cái gì kể cả bản thân niết-bàn. Đây không phải
do vì bậc giác ngộ không còn đối tượng của tư duy hay không thể phân
biệt được bản thân mình với cái khác và thế giới xung quanh. Trong trạng
thái của niết-bàn do các giác quan và nhóm nhân tính vẫn còn hoạt
động, bậc giác ngộ vẫn phải còn tiếp xúc với thế giới bên ngoài, vẫn
phải còn cảm giác, ý niệm và nhận thức. Điều khác biệt là năm nhóm
nhân tính trong bậc giác ngộ đã được chuyển hóa toàn diện thành trí
tuệ như thật, trí tuệ như là về mọi sự vật hiện tượng. Tuy nhiên,
không có sự khác biệt giữa bậc giác ngộ với một người phàm trong mối
liên hệ với năm nhóm nhân tính (pa~n ca-kkhandha), bởi lẽ cả hai đều
không có một thực thể ngã bất biến (natta).
Sự khác biệt giữa người giác ngộ
và người phàm là mặc dù không có một thực thể ngã bất biến, người
phàm vẫn có khuynh hướng giả định về ý niệm của bản ngã hay đồng
nhất hoá bản ngã với cái gọi là năm nhóm nhân tính tâm vật lý, trong
khi người giác ngộ không nhìn thấy bản ngã trong năm nhóm nhân tính này.
Như là kết quả của sự khác nhau về thái độ nhận thức bản chất của
năm nhóm nhân tính, sự khác biệt đã xuất hiện giữa người giác ngộ
và người phàm, là cách thức mà cả hai tiếp xúc và phản ứng về
thế giới và với những khái niệm của tâm (dhammaa ). Kẻ phàm phu
thường xem mình là bản ngã và mọi sự có một thực thể ngã (atta //
aatman). Sự chấp mắc từ đó đã xuất hiện dưới một trong ba hình
thái đồng nhất hoá bản ngã hay ngộ nhận về bản ngã (sakk ya-diỉ
ỉ hi): "cái này là của tôi" (etaị mama), "cái này
là tôi" (eso’ ham asmi) và "cái này là bản ngã của
tôi" (eso me attaa ). ‘Tất cả đau khổ tồn tại’ đều do thái
độ ngộ nhận hay đánh đồng bản ngã này với năm nhóm nhân tính (pa–
cakkhandha) mà người phàm thường mắc phải.
Bậc giác ngộ thì khác hẳn. Ba
thái độ đồng hóa hay ngộ nhận về bản ngã đã được chuyển hóa
thành ba thái độ vô ngã: "cái này không phải của tôi" (netaị
mama), "cái này không phải là tôi" (neso’ham asmi) và
"cái này không phải là bản ngã của tôi" (neso me attaa ). Điều
cần ghi nhận là sự chứng đạt niết-bàn được hiểu là sự chấm
dứt trọn vẹn ba thái độ đồng nhất bản ngã hay ngộ nhận về bản
ngã, như đã trình bày bên trên. Trong niết-bàn, do đó, không còn bản
ngã, không có bản ngã. Nói cách khác niết-bàn là vô ngã.
Lối giải này hoàn toàn phù hợp với
đoạn mô tả về niết-bàn trong Cảm Hứng Ngữ 80: sự nhận
chân được chân lý vô ngã hay không thực thể trong mọi vật là con đường
chứng đạt niết-bàn, mặc dù chân lý này khó có thể nhận dạng
ra.
Dù sao chăng nữa, phán đoán "niết-bàn
là vô ngã" không bao giờ đồng nghĩa với phán đoán "vô ngã
là niết-bàn." Một số nhà Phật học, do không nhận ra được sự
khác nhau giữa vô ngã, bản chất của sự vật, với niết-bàn, trạng
thái an lạc do quán chiếu vô ngã mà có nên đã đánh đồng vô ngã với niết-bàn,
vô ngã là niết-bàn. Nghĩa là họ đã đánh đồng phương pháp tu
tập để đạt được niết-bàn (vô ngã) với bản thân của niết-bàn.
Mặc dù bản chất của niết-bàn là vô ngã, nhưng vô ngã không
thể bị đồng hóa với bản chân của niết-bàn. Phán đoán "vô
ngã là niết-bàn" thực ra chỉ là kết quả của sự sai lầm
trong việc đồng hóa một đặc tính của niết-bàn với bản thân của
tổng thể niết-bàn. Sai lầm này về mặt logic cũng không hơn các
phán đoán vô lý "tất cả ai đầu tròn áo vuông đều là thầy tu Phật
giáo," do đánh đồng một đặc tính của thầy tu Phật giáo (cạo đầu
tròn và mặc áo phương bào (áo vuông)) với tổng thể con người thầy tu
Phật giáo. Ngoài đầu tròn áo vuông như yêu cầu về mặt hình thức, tu sĩ
Phật giáo phải hơn bao giờ hết dấn thân vào con đường thực nghiệm tâm
linh, trau dồi đời sống đạo đức, tu tập thiền định và phát triển
trí tuệ để diệt trừ các dòng chảy lậu hoặc của tâm. Tương tự, câu
tuyên bố của đức Phật "tất cả pháp là vô ngã" (sabbe
dhamm anatt ) chỉ có nghĩa không có một thực tại hay thực thể
ngã trong mọi sự vật hiện tượng, trong đó, niết-bàn là một.
Nó hoàn toàn không có nghĩa cho rằng vô ngã là niết-bàn. Bởi
lẽ trên thế gian này có vô lượng vô số sự vật (nói đúng hơn toàn thể
sự vật) vốn là vô ngã nhưng không được niết-bàn, không có niết-bàn
và không phải là niết-bàn. Vô ngã là thuộc tính của mọi hiện
hữu và sự vật. Niết-bàn không phải là sự vật mà là một trạng
thái vắng mặt trọn vẹn dòng chảy lậu hoặc của tâm. Cho vô ngã là niết-bàn
chẳng khác nào cho rằng tất cả các sự vật là niết-bàn, hay
nói khác hơn đánh đồng niết-bàn với các sự vật vô ngã.
Nói tóm lại, niết-bàn là
vô ngã. Mặc dù sự an lạc của niết-bàn do chấm dứt toàn bộ
dòng chảy lậu hoặc và khối đau khổ, là siêu vượt khỏi thời gian,
nhưng không vì thế mà niết-bàn được đồng hóa với thường và
ngã. Kế đến, tuệ tri về bản chất vô ngã của các sự vật là một
cách, một con đường giúp ta nhận chân được niết-bàn trong đời
sống hiện tại. Tuy nhiên sẽ là một sai lầm nếu ta đánh đồng vô ngã
với niết-bàn, mặc dù niết-bàn là vô ngã.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/108-tnt-vonga.htm