- CUỘC HÀNH TRÌNH VI DIỆU
- Thích Thanh Chương
Hướng về cuộc hành trình
vi diệu của Đức Phật để chúng ta dũng tiến trên con thuyền thực nghiệm
tâm linh. Nó sẽ đưa chúng ta vượt qua những lượn sóng ngại khó, cầu
an, bỏ lại phía sau những chiếc đảo hoang danh lợi, sớm cập bến bờ
chinh phục nội tâm.
***
Trong tất cả mọi chuyến đi dù ngắn
hay dài, dù xa hay gần đều hiện rõ một điểm chung là chuẩn bị hành
trang. Và phụ thuộc vào mục đích của chuyến đi mà việc chuẩn bị về
vật chất hay tinh thần nhiều ít có khác nhau. Hầu hết trong những chuyến
đi, vật chất giữ vai trò quan trọng: nào là những phương tiện, vật dụng
cá nhân, nào là kinh tài, thủ tục ... Ngay cả những kiếm khách hành hiệp
giang hồ, ngoạn thủy du sơn, trừ gian dẹp loạn thì ít nhất cũng còn một
tấc sắt trong tay. Đó là chưa kể đến thành quả của chuyến đi có được
vang bóng một thời hay âm thầm lặng lẽ trôi theo dòng chảy của thời
gian. Như vậy, chúng ta tìm đâu ra một chuyến đi tay không tấc sắt, bỏ
lại sau lưng những vật chất phù hoa, vượt khỏi bức tường thành giai cấp
đã từ lâu bao phủ kiếp người? Và đâu là kết quả của chuyến đi luôn
sống mãi với thời gian, siêu vượt không gian, đặc biệt được nâng
lên thành "một cuộc hành trình vĩ đại?"
Trong quyển "Anh Hùng Có Ngàn
Khuôn Mặt," tác giả Joseph Campbell, một học giả chuyên nghiên cứu
về những bí ẩn và nguồn gốc loài người, đã đưa ra một phát hiện về
bản chất của các anh hùng trong huyền thoại. Ông cho biết có bốn bậc
trong cuộc hành trình vĩ đại của các bậc thánh. Đặc biệt ông đã đề
cập đến cuộc hành trình chứng ngộ của Đức Phật như một sự hòa hợp
kỳ diệu giữa chất liệu con người và những nguyên lý của vũ trụ được
biểu hiện đầy đủ qua Đức Phật.
1. TIẾNG GỌI TỪ BI CỦA
BẬC BỒ-TÁT
Cung bậc thứ nhất của cuộc hành
trình là tiếng gọi từ bi trong lòng Bồ-tát Siddharta. Tiếng gọi từ bi đó
đã thôi thúc, dẫn lối Ngài gặp được và nhận ra những thông điệp
khổ đau từ ba cửa thành: già, bệnh, chết, và thông điệp giải
thoát từ cửa thành thứ tư qua hình ảnh cao quý của vị đạo sĩ với
phong cách ung dung.
Sự kiện ấy đã làm thức dậy
trong lòng Bồ-tát một năng lực quán chiếu vào nội tâm sâu thẳm để tìm
giải đáp cho vấn nạn muôn thuở của kiếp nhân sinh:
"Cái gì là bản chất của sinh
tử? Có nguồn năng lực nội tại nào để thoát khỏi sinh tử không? Tại
sao vòng quay của nhân sinh lại được chấm dứt ở cái chết? Và thế
nào là trực nhận được năng lực của tự do tuyệt đối khi vượt qua hạn
cuộc của sinh, gia, bệnh và chết?"
Thế là một dãy phương trình rất
lớn về vấn đề nhân sinh đã được Bồ-tát Siddharta đặt ra cách đây
hơn hai mươi lăm thế kỷ. Ngày nay, các nguyên thủ quốc gia trên thế giới
cùng ngồi lại với nhau, các nhà khoa học thì ngày đêm mài miệt với
công trình... có phải chăng họ muốn tìm một đáp án chung là để xây dựng
hòa bình và an lạc cho con người ?!
Ở đây chúng ta nhận ra tiếng
lòng mầu nhiệm đã làm sống dậy một năng lực sâu thẳm nơi Bồ-tát
Siddharta. Đó là năng lực "ấp ủ ước vọng mong cầu và chứng đạt
giác ngộ." Hay nói khác hơn, nó là sự trỗi dậy của một khát vọng
tâm linh mới đã từ lâu ngủ yên dưới lớp bụi của trần gian; là cái
thấy về một trung tâm mới của năng lực, mở ra một viễn tượng tâm
linh hoàn toàn mới mẻ. Ý nghĩa này được Ngài Tỳ-kheo Hải Vân, một
trong những bậc thầy mà đồng tử Thiện Tài đến viếng qua cuộc hành
trình cầu đạo trường kỳ của mình:
"Hay thay, ông đã làm trỗi dậy
ước vọng mong cầu giác ngộ tối thượng; đó là một việc không thể
có cho những ai chưa từng chứa nhóm đầy đủ thiện căn trong những đời
quá khứ."
"Thiện căn" ở đây muốn
nhấn mạnh ý nghĩa làm lợi lạc cho thế gian. Nếu không thể phụng sự
đúng nghĩa thì cái nhìn tâm linh sẽ không trải rộng đến bờ cõi xa xôi
nhất và cách chứa nhóm ấy không đủ sức làm trỗi dậy ước vọng mong
cầu giác ngộ. Cho nên Ngài Hải Vân tiếp tục tán dương hoài bão của
Thiện Tài, cái hoài bão chỉ có thể có đối với những ai hội đủ các
đặc tính sau:
a. Những hành vi công đức của họ
mang tính cách phổ biến và tỏa sáng.
b. Sự thành đạt Tam-muội của họ
đầy đủ ánh sáng của trí tuệ, phát xuất từ bước đi trên con đường
chân chánh.
c. Họ có thể làm cho phát sinh một
đại dương công đức.
d. Họ tích tập tất cả các pháp
thanh tịnh không hề mệt mỏi.
e. Họ luôn luôn gần gũi những
người bạn tốt và luôn thờ kính.
f. Họ không phải là những người
cất chứa tài sản và không hề ngần ngại thí xả thân mạng của mình
cho chánh pháp.
g. Họ không còn cống cao ngã mạn,
và giống như mặt đất, đối xử bình đẳng với tất cả.
i. Tim của họ đầy cả tình thương
yêu và lân mẫn lúc nào cũng nghĩ đến sự lợi ích cho kẻ khác.
j. Họ luôn đối xử thân thiện với
tất cả chúng sanh trong các nẻo luân hồi.
k. Họ luôn luôn ước mong được
tham dự chúng hội của chư Phật.
Rồi Ngài Hải Vân kết luận rằng:
chỉ có những tâm hồn nào thụ bẩm những cảm hứng đó, những tâm
tình đó, và những thái độ đó, thì mới có thể có hoài bão ước vọng
giác ngộ. Đó chính là một kinh nghiệm vĩ đại của người theo Đạo Phật.
Kinh nghiệm này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị của tâm linh mới có thể
xuất hiện. Và nó được tăng trưởng từ hạt giống cắm sâu trong lòng
đất và được vun trồng kỹ lưỡng.
Như vậy, "hoài bão ước vọng
giác ngộ" không phải là biến cố bình thường trong đời sống của
Bồ-tát Siddharta, mà nó là bước đi quyết định để hướng tới mục tiêu
xuất ly vĩ đại.
- 2. BƯỚC THỨ HAI CỦA CUỘC HÀNH
TRÌNH
- LÀ SỰ VIỄN LY VĨ ĐẠI
Sau khi thức tỉnh được năng lực
từ lâu bị vùi kín dưới lớp hạnh phúc huyễn ảo của chốn trần thế
vô thường, Ngài quyết định vượt thành xuất gia để đi tìm đáp án
cho cuộc sống nhân sinh. Trong Nguyệt san Giác ngộ số 24/1998, trang
50, Gia Tuệ đã nhận định rất sâu sắc và tràn đầy cảm xúc về sự
xuất ly của Thái tử: Ra đi, Ngài từ bỏ tất cả những người thân
yêu, ngôi báu, vương quyền, cả cuộc sống nhung lụa tràn đầy hạnh phúc.
Đây không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già đau yếu hay
người nghèo hèn tật bệnh hoặc người bất đắc chí, ngán ngẩm cuộc
đời, mang căm hờn oán giận... mà là sự hy sinh từ bỏ của một hoàng tử
ở độ tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý cao sang, chứa chan hạnh
phúc. Quả đó là một sự từ bỏ hy sinh vĩ đại, có một không hai trong
lịch sử loài người. Một sự ra đi không tiền khoáng hậu.
Rồi một mình, một bóng Ngài lặn
lội giữa núi rừng cô tịch cầu học với các bậc danh sư. Có lúc thực
hành thiền định Ngài đã đạt mức chứng nghiệm tâm linh rất cao. Thế
nhưng sau mỗi lần rời khỏi trạng thái này thì trong tâm thức Ngài vẫn
còn gợn lăn tăn những làn sóng muộn phiền. Vì vậy, Ngài không hài lòng
lại từ giã các đạo sĩ, lên đường đi sâu vào rừng thực hành khổ hạnh,
với mong muốn khuất phục được bản ngã và chế ngự được não phiền.
Ngài đã trải qua những cảm giác nhức nhối, đau đớn tột cùng của
thân thể như được diễn tả trong kinh Trung A-hàm với những hình
ảnh thật đáng sợ: Ngài như bị ai khoan vào sọ với lưỡi khoan thật bén;
như bị một lực sĩ dùng dây siết chặt vào đầu; như bị tên đồ tể
dùng dao rạch bụng; như bị nắm và quăng lên giàn hỏa thiêu sống... Nhưng
những cảm giác đau đớn ấy không hề làm ảnh hưởng đến tâm thức của
Ngài.
Đây là một tinh thần quả cảm
cao độ, một ý chí cương quyết như viên ngọc tỏa sáng lung linh nhiều
màu sắc. Trước hết, Ngài từ bỏ ngôi nhà thế gian không chỉ vì lợi
ích cá nhân mà vì lợi ích và giải thoát sự khổ đau của nhân loại. Với
Ngài toàn thể nhân loại là một gia đình. Có chứng kiến được những
buổi chia tay đầy lưu luyến, có thực hiện những chuyến đi thật xa...
thì chúng ta càng cảm phục ý chí cương quyết, quả cảm của Ngài.
Một ý nghĩa quan trọng khác của
việc xuất ly là muốn đạt chứng giác ngộ phải bằng cách dứt trừ
tham ái. Vì nó là nguyên nhân của tất cả những khó khăn, đau khổ, phiền
muộn của con người. Con người nóng giận, lo lắng, sầu tư, trách hờn,
cay đắng... đều do tham ái mà ra. Ngay cả những nguyên nhân của bất hạnh
phúc, tinh thần căng thẳng, ương ngạnh, não phiền... cũng đều do tham
ái. Cho nên Bồ-tát Siddharta đã hy sinh tất cả mọi thứ kể cả những lạc
thú trần gian để đi tìm chân lý, giải thoát nỗi đau trầm thống cho nhân
sinh.
Lại nữa, ý nghĩa xuất ly còn biểu
thị sự vượt thoát bức tường thành giai cấp đã từ lâu vây phủ kiếp
người, giữa lúc"Cơ cấu xã hội Ấn bị bao phủ nặng nề bởi sự
lũng đoạn của hàng giáo sĩ, sự tu hành ép xác, chia rẽ giai cấp, phong
kiến tham nhũng, coi rẽ phái nữ và lo âu sợ hãi dưới thế lực của Bà
la môn."
Rồi những trái và hoa của sự vượt
thoát thành trì giai cấp là bức thông điệp bình đẳng mà Ngài truyền đến
đủ hạng người: kẻ sang người hèn, người học thức kẻ mù chữ, nam
hay nữ, cư sĩ hay thứ dân, các nhà tu khổ hạnh... tất cả đều được
gội nhuần hương vị vi diệu của "chân lý giải thoát" mà Ngài
đã tìm ra được.
- 3. CUNG BẬC THỨ BA CỦA CUỘC
HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI
- LÀ THỰC NGHIỆM TÂM LINH
Lịch sử đã ghi lại Ngài phải trải
qua bao thử thách của đời sống tu tập, một đời sống khác hẳn với
hoàng cung, kẻ hầu người hạ đầy đủ tiện nghi. Rồi lại chứng đạt
các tầng thiền được học từ các bậc danh sư đương thời cho đến thực
hành khổ hạnh nơi rừng sâu.
Thế rồi, bằng con mắt "trạch
pháp" sau khi đã kiểm nghiệm kỹ lưỡng với thái độ cương quyết
nhưng hết sức tỉnh táo, khách quan, Ngài đã tìm ra con đường Trung đạo.
Đó là con đường tránh xa hai cực đoan: khổ hạnh và hưởng thụ; là con
đường trực diện với nội tâm, con đường tự chinh phục, và con đường
thực nghiệm tâm linh. Chỉ có thể bằng thực nghiệm tâm linh, diệt trừ
chấp thủ, vô minh và phát triển trí tuệ bát-nhã thì con người mới trực
nhận được chân lý và thực tại.
Ý nghĩa của cung bậc này cho chúng
ta thấy rằng: kinh sách, kiến thức, văn bằng... có giá trị như những
đường nét của biểu đồ hướng dẫn, trong khi phương cách kỹ thuật
hành thiền... có giá trị như một con tàu để đưa hành giả đến bến bờ
hiểu biết. Và nhất là thực hiện sự hiểu biết ấy trong sự sống bản
thân cũng như sự sống xã hội. Vì chân lý giải thoát tối hậu, tận diệt
nguồn gốc khổ đau không thể chạy tìm bên ngoài hay ở bất kỳ một tha
lực nào và cũng không phải qua pháp môn hành xác; mà sự chứng ngộ ấy
được thể hiện ngay chính trong nội tâm của con người. Từ đó Ngài ngồi
dưới cội bồ-đề với lời thệ nguyện sẽ không rời khỏi cho đến
khi đạt được giác ngộ hoàn toàn.
- 4. CUNG BẬC THỨ TƯ CỦA CUỘC HÀNH
TRÌNH
- LÀ SỰ TỈNH THỨC VĨ ĐẠI
Xưa nay, lịch sử đã chứng minh rằng
những anh hùng cái thế, oai chấn tứ phương có thể chinh phục tướng sĩ
ba quân một cách nhẹ nhàng như trở bàn tay. Thế mà khi đối diện trước
đấu trường dục vọng của nội tâm thì biết bao người phải xếp giáo
qui hàng. Vì vậy, với lời phát nguyện dưới cội Bồ-đề là Bồ-tát
Siddharta chấp nhận phải trực diện với nội ma lẫn ngoại ma. Cuối cùng
Ngài đã vượt qua tất cả những dục vọng thấp hèn đang ẩn mình trong
tận ngõ ngách của tâm hồn.
Đây là hoa và trái của quá trình
thực nghiệm tâm linh, của quá trình thiền tọa chiến đấu với thế lực
vây bủa của Ma vương. Với tuệ giác thâm áo, Ngài thấy rõ nguyên nhân của
khổ đau. Chính sự tập khởi của mười hai nhân duyên là tập khởi của
toàn bộ khối đau khổ. Khi quân lính của Ma vương thất bại và phân
tán, Ngài chứng được Tam minh, ba sự hiểu biết rõ ràng, sáng suốt về
mọi sự sai biệt đầy ẩn mật của bản thân (túc mạng minh) và các
chúng sanh trong ba cõi sáu đường (thiên nhãn minh), dưới lăng kính của
nhân quả, duyên khởi; cũng như trí tuệ nhận biết được trạng thái vắng
mặt hoàn toàn dòng chảy lậu hoặc của tâm (lậu tận minh). Cung bậc này
đã hiển thị một bài học sâu sắc về việc chinh phục nội tâm của Đức
Phật. Có lẽ Hoà thượng K. Sri Dhammananda cảm nhận trọn vẹn được ý
nghĩa này:
"Ngài dạy mỗi người chúng ta
con đường có thể chinh phục thế giới riêng tư của mình – cái thế giới
chủ quan nội tâm trong địa hạt riêng tư của mỗi cá nhân. Bằng một
ngôn ngữ đơn giản, Ngài nói cho chúng ta biết rằng cả cái thế giới
này là ở trong chúng ta và thế giới được chỉ huy bởi tâm thức cho
tâm thức phải được huấn luyện và thanh lọc một cách đúng đắn."
***
Đức Phật dạy rằng giáo lý của
Ngài "đến để mà thấy" – tiếp nhận – suy nghiệm chính chắn
rồi hãy tin và thực hành. Cũng thế, khi ôn lại cuộc hành trình tu tập
và giải thoát đầy thử thách và ý nghĩa của đức Phật, người viết mạo
muội xem đây là một nén tâm hương dâng lên Đấng Đạo Sư nhân ngày
Thành Đạo. Có nên chăng, xin được chia xẻ cùng quý pháp hữu đồng điệu,
để mỗi người soi lại chính mình qua những cung bậc khác nhau trên lộ
trình giải thoát. Có nên chăng, xin gởi đến những người con yêu quí của
Đức Phật, dẫu tất bật với cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy dành lại
phút giây chiêm nghiệm về hành trình của Từ Phụ để xây dựng một đời
sống an lành.
- Ôn lại hành trình vi diệu của
Đức Phật để làm trỗi dậy năng lực ước vọng giác ngộ trong mỗi
chúng ta. Năng lực ấy sẽ là phương diệu dược chữa lành chứng bệnh
lãnh cảm trước bao nỗi đau trầm thống của con người, bao nghịch cảnh
chướng duyên của bằng hữu, bao nỗi mặc cảm, tự ty của những người
thiếu phúc, kém duyên.
- Hiểu về cuộc hành trình vi diệu
của Đức Phật để chúng ta xác định được hoạt dụng đa phương của
ý nghĩa viễn ly. Ý nghĩa ấy là ánh sáng của mặt trời xua tan những vầng
mây chấp thủ, và làm nóng chảy những tảng băng tham luyến về sắc chất
thế nhân.
- Hướng về cuộc hành trình vi diệu
của Đức Phật để chúng ta dũng tiến trên con thuyền thực nghiệm tâm
linh. Nó sẽ đưa chúng ta vượt qua những lượn sóng ngại khó, cầu an, bỏ
lại phía sau những chiếc đảo hoang danh lợi, sớm cập bến bờ chinh phục
nội tâm.
- Tiếp nhận cuộc hành trình vi diệu
của Đức Phật để chúng ta hòa nhập vào biển lớn của tỉnh thức. Đó
là sự kết tinh của muôn ngàn hương hoa Bi – Trí – Dũng tỏa ngát ngàn
phương. Hương thơm vi diệu ấy đã trấn tĩnh và làm lắng đọng tâm tư
những trái tim hiếu chiến và thấm nhuần hương đức hiếu sinh.
Mong tất cả mọi người hãy trở
về với cuộc hành trình vi diệu của Đức Phật "để mà nhìn, để
mà nghe, để mà cảm, để mà tĩnh tu, trang bị lại tâm hồn mình, ước
nguyện mình, lý tưởng minh, để giữ vẹn được tâm hồn và ý chí của
những chàng dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời."
Cuối cùng, cuộc hành trình vi diệu
của Đức Phật đã minh thị ý nghĩa xác đáng của "Tứ hoằng thệ
nguyện." Đó là kim chỉ nam cho những ai đang hành Bồ-tát đạo:
- "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành."
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/110-hanhtrinh.htm